Áo dài xưa và nay – Những ngộ nhận… (I)

Nguyễn Thị Chân Quỳnh

Áo Dài in Saigon, 1961 (12)Năm 2006, sau khi đọc trong Thế Kỷ 21 (số 201 & 202) loạt bài khẳng định ông Cát Tường – Lemur (1911- 46) là “cha đẻ ra chiếc áo dài hiện nay”“chính ông là người đầu tiên đã biến chiếc áo tứ thân thành áo hai vạt” và “trước đó phụ nữ Việt Nam đều mặc áo tứ thân”… tôi sững sờ.

Họa sĩ Cát Tường có phải là cha đẻ ra chiếc áo dài hiện đại?

Trang phục người Saigon năm 1961. Nguồn: Tạp chí LIFE.
Trang phục người Saigon năm 1961. Nguồn: Tạp chí LIFE.

Năm 2006, sau khi đọc trong Thế Kỷ 21 (số 201 & 202) loạt bài khẳng định ông Cát Tường – Lemur (1911- 46) là “cha đẻ ra chiếc áo dài hiện nay”, “chính ông là người đầu tiên đã biến chiếc áo tứ thân thành áo hai vạt”“trước đó phụ nữ Việt Nam đều mặc áo tứ thân”… tôi sững sờ. Rõ ràng mẹ tôi (sinh năm 1900) và bà ngoại, bà nội tôi đều chưa bao giờ xỏ tay vào chiếc áo tứ thân, toàn mặc áo hai vạt, mà mãi đến 1934 ông Cát Tường mới đưa ra “bản tuyên ngôn” về vấn đề cải cách y phục, nói rõ quan niệm căn bản của ông trong báo Phong Hóa. Ngoài ra, trong tay tôi ngay lúc ấy còn có mấy bằng chứng cho thấy áo dài hai vạt đã xuất hiện từ trước năm 1934:

xxx

– Ảnh năm 1922 của Busy, đen trắng, chụp một thiếu nữ đóng vai quân cờ người ở vùng phụ cận Hà Nội (tôi đã cho in lại trong bài “Tết Nguyên Đán và Lễ Nghênh Xuân” , “Lối Xưa Xe Ngựa…”, tập II, 2002). Thiếu nữ mặc áo dài hai vạt không nối sống, cổ áo không gài khuy, quần đen;

– Ảnh khoảng 1915-20, chụp bẩy thiếu nữ cũng đóng vai quân cờ người tại vùng ngoại ô Hà Nội, mặc áo hai vạt mầu hồng, cổ áo không gài khuy, vấn khăn xanh lam hoặc xanh nõn chuối, quần đen. Đấy là những chiếc ảnh mầu đầu tiên trên thế giới, của A. Kahn;

– Tranh của bà de Bassilan vẽ một phụ nữ miền Nam mặc áo hai vạt trông rõ cả đường khâu nối hai thân ở chính giữa vạt trước, in kèm bài “ Des habitants de la Cochinchine” viết ngày 8/1/1859, không đề tên tác giả, được in lại trong L’Indochine, Illustration.

Như vậy đủ chứng tỏ trước ông Cát Tường phụ nữ Việt Nam không phải ai cũng mặc áo tứ thân và người biến cái áo tứ thân ra áo hai vạt không phải là ông Cát Tường.

Vậy ông Cát Tường đã đem lại những gì cho chiếc áo dài để được hầu hết những người tôn vinh áo dài khẳng định ông chính là “ cha đẻ” ra chiếc áo dài hiện đại? Trước hết chúng ta cần tìm hiểu y phục phụ nữ Việt Nam thời xưa qua sử sách.

cc

cc

I. Sơ lược các kiểu y phục trước áo Lemur

Không ai biết áo dài xuất hiện từ bao giờ và những chiếc áo dài đầu tiên hình dáng ra sao.

Có truyền thuyết nói “Khi hai Bà Trưng ra trận đã cưỡi voi, mặc áo hai tà giáp vàng, che lọng vàng, trang sức thật lộng lẫy…” Nhưng trong Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thì Sĩ chỉ viết

Khi Bà Trắc ra quân, chưa hết tang chồng, mặc quần áo đẹp, các tướng thắc mắc, bà trả lời: ‘Việc binh phải tòng quyền, nếu giữ lễ khiến dung nhan xấu xí là tự làm giảm nhuệ khí nên ta mặc đẹp để làm cho thế quân hùng tráng, lũ kia thấy thế tâm động, nhụt bớt chí khí tranh đấu thì ta dễ có phần thắng.’”

Không có câu nào nhắc tới áo vàng, lọng vàng. Có lẽ người đời sau nghĩ là vua tất phải mặc áo vàng. Song trong Lịch Triều Hiến Chương – Quan Chức Chí (tr 103) Phan Huy Chú lại viết:

Từ đời Lý, Trần về trước, mũ áo của vua thế nào không thể khảo cứu được. Còn như sắc áo thì hình như trước không có quy chế nhất định. Lê Đại Hành (980-1005) dùng thứ vóc đỏ, đến Lý Cao Tông (1176-1210) mới cấm nhân dân trong nước không được mặc áo sắc vàng, thế thì hoàng bào trước kia chưa phải là đồ dùng riêng của vua chúa.”

Huống chi, nếu tôi nhớ không lầm, thì ở Trung quốc mãi đến đời Tùy, thế kỷ VI, mới ấn định mầu vàng dành riêng cho vua dùng mà Hai Bà đã mẩt từ thế kỷ I.

Lại có người cho áo tứ thân có từ đời nhà Lý, nhưng không đưa ra bằng chứng. Đến mũ áo vua chúa đời Lý mà Phan Huy Chú còn không tra cứu nổi thì làm thế nào biết dược y phục của dân đen? Đời xưa viết sử chỉ chú trọng đến vua chúa, các danh nhân và những biến cố quan trọng, không mấy ai lưu tâm đến y phục nhân dân.

Thế kỷ 17 – những chi tiết ghi chép trong sách sử xưa nhất tìm được về y phục thường dân là từ thế kỷ 17

* Áo mớ ba, mớ bẩy.Thuở nhỏ tôi từng nghe nhắc đến áo mớ ba, mớ bẩy song chỉ được thấy mẹ tôi mặc áo mớ đôi hoặc mớ ba, chưa bao giờ trông thấy áo mớ bẩy. Đó là những chiếc áo dài mặc lồng vào nhau, áo ngoài thường mầu sẫm như nâu, đen, có thể là hàng trơn hay dệt hoa bóng trên nền mờ hoặc ngược lại, những chiếc áo mặc trong toàn mầu tươi vui như hồ thủy, hồng phấn, hoàng yến… Phong tục muốn dân chúng phải tỏ ra khiêm tốn trong cách ăn mặc, áo ngoài phải dùng những mầu nhã nhặn, không được khoe khoang, lộ liễu, áo mầu lòe loẹt thì phải giấu bên trong.

Sau này, tình cờ tôi đọc Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine (1631) của Giáo sĩ C. Borri mô tả y phục phụ nữ miền Nam gồm nhiều áo khác mầu lồng vào nhau nên đoán có lẽ chính là loại áo mớ ba, mớ bẩy. Tuy vậy, có những chi tiết khiến tôi ngờ ngợ không chắc là áo dài, không rõ vì tác giả thiếu minh bạch hay người dịch sang tiếng Pháp không hiểu rõ tiếng Ý nên đã dịch sai bậy:

Y phục phụ nữ có lẽ nhã nhặn, kín đáo nhất so với (y phục) toàn thể Ấn độ vì nó không để hở một chỗ nào trên thân thể, ngay cả những khi trời nóng bức nhất. Họ mặc có đến năm, sáu lớp áo chồng lên nhau, mỗi cái một mầu. Cái ngoài cùng dài chấm đất, kéo lê đi một cách trang trọng, quý phái, không ai có thể trông thấy ngón chân họ. Lớp áo thứ nhì nằm dưới, ngắn hơn lớp trước chừng 4 hay 5 ngón tay (“ngón tay” đo theo chiều ngang), lớp thứ ba lại ngắn hơn lớp thứ nhì, cứ đều đặn như thế… khiến cho tất cả các mầu áo dều được trông thấy. Đây là phần dưới từ bụng trở xuống. Nửa trên là những chiếc áo ngắn ôm thân người, gồm các ô trắng và mầu xen kẽ nhau như bàn cờ, mỗi lớp một mầu khác (1), bên ngoài phủ một thứ hàng mịn và thưa khiến ta có thể dễ dàng trông suốt qua được. Tất cả những mầu sắc hỗn độn ấy tiêu biểu cho mùa xuân tươi thắm, duyên dáng, đồng thời lại cũng rất trang trọng và nhũn nhặn. Nam giới cũng mặc năm, sáu lớp áo dài và rộng bằng lụa mịn đủ các mầu, ống tay dài và rộng (…). Từ thắt lưng trở xuống xung quanh cắt lôi thôi (2) thành thử khi ra đường gập cơn gió nhẹ, tất cả các mầu sắc tung bay, quyện vào nhau trông chẳng khác gì những con công xòe đuôi khoe bộ lông sặc sỡ.”

Ngày nay ta còn thấy vết tích kiểu áo này ở những bộ áo tế của nam giới, áo ngoài bằng sa mỏng mầu lam hay đen trông suốt qua thấy rõ chiếc áo lót bằng vải trắng bên trong, và chiếc áo kép (đã có từ trước 1776, theo Lê Quý Đôn), mặt ngoài vẫn mầu đen hay nâu…, áo trong biến thành cái lót (doublure) vẫn dùng những mầu sặc sỡ.

* Lê Triều Chiếu Lịnh Thiện Chính chép là năm 1665 có sắc lệnh:

Áo đàn ông thì có thắt lưng và quần có ống chân, áo đàn bà con gái thì không có thắt lưng, quần không có hai ống, từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế. Bọn hát xướng ở hý trường thì không theo cấm lệnh này. Ai trái lệnh (…) bắt được quả tang sẽ phạt năm quan cổ tiền, nộp vào công khố.”

Tavernier trong Relation nouvelle et singulière du Royaume de Tunquin (1681) tả y phục phụ nữ miền Bắc là

trang trọng và nhã nhặn. Nam nữ mặc tựa như nhau. Áo dài chấm gót, giữa có buộc thắt lưng bằng lụa, xen lẫn kim tuyến và ngân tuyến, mặt trái mặt phải đều đẹp như nhau (…) Họ sản xuất rất nhiều tơ tầm, dân chúng giầu cũng như nghèo đều mặc tơ lụa.”

Ông còn vẽ cả tranh minh họa. Tavernier đã đi du lịch nhiều nơi nhưng chưa đặt chân đến Bắc kỳ, những chi tiết viết trong sách dựa vào sự hiểu biết của người em ông đã nhiều phen đến Đàng Ngoài, và những lần ông nói chuyện với người Bắc mà ông gập ở Batavia.

Thế kỷ 18 – cũng vì thế nên S. Baron, sinh trưởng ở Kẻ Chợ (Thăng Long), trong Description du Royaume de Tonquin, dịch sang tiếng Pháp năm 1751, tuy công nhận dân Việt thời ấy, giầu hay nghèo, đều mặc tơ lụa vì giá rất rẻ, nhưng chỉ trích Tavernier là viết sai sự thật. Theo Baron thì y phục người Việt là những chiếc áo dài, tựa như áo Trung quốc, hoàn toàn khác với áo Nhật bản. Tranh của Tavernier vẽ cho thấy người Việt có dùng thắt lưng, đó là điều hoàn toàn xa lạ đối với họ. Baron là con lai, mẹ người Việt, tất hiểu rõ phong tục Việt Nam hơn.

* Một số người viết về lịch sử áo dài đại khái như sau:

Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-65) được coi là người có công khai sáng và định hình chiếc áo dài Việt Nam… Cho đến thế kỷ 18 người Việt thường hay bắt chước lối ăn mặc của người phương Bắc (Trung quốc)… Để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương ban hành sắc dụ về ăn mặc, lấy thể chế áo mũ trong Tam Tài Đồ Hội làm kiểu mà tạo ra chiếc áo dài, cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong theo đó thi hành.”

Đại Nam Thực Lục Tiền Biên có chép sắc dụ này:

Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn, ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép.”

Và còn thêm là Lê Quý Đôn, trong Phủ Biên Tạp Lục, chép rằng Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy. Do đó có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cổ truyền, cố định đã ra đời.”

Tôi thấy không ổn ở chỗ Chúa Nguyễn muốn giữ “bản sắc văn hóa riêng”, bắt dân cải sửa lối ăn mặc cho khác người Trung quốc mà lại lấy mẫu quần áo từ Tam Tài Đồ Hội của Trung quốc thì không hợp lý. Tôi không còn hai bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Phủ Biên Tạp Lục trong tay nên có nhờ người tìm hộ trong Đại Nam Thực Lục Tiền Biên đoạn nói về sắc dụ của Chúa Nguyễn nhưng không tìm ra. Tôi đến hiệu sách đọc bản dịch khác nhưng cũng không tìm thấy nên chỉ mua Phủ Biên Tạp Lục. Tuy nhiên, tôi lại thấy trong Lịch Sử: Xứ Đàng Trong của Phan Khoang những chi tiết khác hẳn:

tr 616-17: Hoàng Ngũ Phúc, năm 1776, sau khi chiếm Thuận Hóa, đã ra lệnh:

Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước cũng tuân theo quốc tục. Nay dẹp yên biên phương, chính trị và phong tục phải được tề nhất. Nếu còn có người mặc quần áo kiểu người Khách thì nên đổi theo thể chế của nước nhà. May y phục thì theo tục nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức mới cho dùng xen the, là, trừu, đoạn còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng đều không được theo thói cũ tiếm dùng. Thường phục thì đàn ông đàn bà dùng áo cổ đứng, ngắn tay, cửa ống tay hẹp hay rộng tùy ý. Áo thì từ hai bên nách trở xuông phải may kín, không cho xẻ hở. Duy đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc cũng cho, Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh lạt hay vải đen vải trắng tùy nghi. Còn viền cổ hay kết lót thì đều theo như hiểu dụ năm trước mà chế dùng.”

tr 615: tương truyền Đào Duy Từ (1572-1634) bầy mưu chống đối họ Trịnh, khuyên chúa Hy Tông bắt dân thay đổi tập tục cho khác dân Bắc như bỏ áo bốn thân, phô bầy yếm, mà mặc áo năm thân gài khuy, bỏ váy mặc quần v.v…

Và tác giả cũng cho biết là chép theo Vũ Biên Tạp Lục (Vũ hay Phủ cùng có nghĩa là “ vỗ về” (yên dân).

Tôi tìm trong Phủ Biên Tạp Lục, lại thấy có sự bất ngờ khác:

tr 241:

Năm Giáp Tý niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 5 (1744), Hiểu Quốc Công Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu. Áo mão chế theo sách Tam Tài Đồ Hội (…)” bắt con trai con gái hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam phải đổi cách ăn mặc, dùng áo quần như người Trung quốc, cốt tỏ cho thấy sự thay đổi hẳn lề lối ăn mặc của người xưa. Đàn bà con gái hai xứ phải mặc áo ngắn, chật ống tay như áo của đàn ông (…). Chỉ trong khoảng hơn 30 năm thành thói quen, quên cả phong tục cũ” (tức phong tục miền Bắc).

tr 242:

Năm Bính Thân (1776) (3), lập Nha môn Trấn Phủ, quan Hiệp trấn (Lê Quý Đôn) hiểu thị cho dân:”Y phục nước nhà xưa nay vốn đã có chế độ. Địa phương này trước kia đã tuân theo quốc tục (…) chính trị, phong tục phải thống nhất. Những ai hiện nay còn mặc y phục theo người Khách thì phải thay đổi theo quốc tục (…) Áo quần may bằng vải lụa thông thường. Quan chức mới được mặc xen sa, trừu, đoạn (…) Thường phục thì đàn ông đàn bà chỉ mặc áo ngắn tay, cổ đứng, cửa ống tay rộng hay hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu liền vào cho kín, không được hở hang. Đàn ông muốn mặc áo cổ tròn và cửa ống tay hẹp để tiện làm việc cũng được phép. Lễ phục phải dùng áo cổ đứng và ống tay dài hoặc dùng thứ may bằng vải mầu xanh chàm, mầu đen hay trắng tùy nghi. Những ai được dùng áo viền cổ và áo kép đều phải tuân theo hiểu thị từ năm trước mà chế dùng.”

Sở dĩ Lê Quý Đôn, Trấn thủ Thuận Hóa năm 1776, phải ra hiểu thị này vì dân chúng Thuận Hóa giầu có, bắt chước nhau ăn mặc xa xỉ, dùng các mầu tươi đẹp.

tr 13- Trong bài Tựa Phủ Biên Tạp Lục. Lê Quý Đôn cho biết thêm những điều ông đã thực hành khi cai trị Thuận Hóa, đặc biệt về y phục: “Chuyển đổi cách ăn mặc dị dạng cũ để theo phong hóa chung của quốc triều (…) Khoan thứ cho một thời hạn trước khi bắt buộc ai nấy cùng phải thay đổi hẳn kiểu ăn mặc cũ.”

Tôi tin Lê Quý Đôn hơn vì không những ông là người đương thời, người trong cuộc, mà các chi tiết đưa ra có đầu có cuối: vì Chúa Nguyễn bắt dân ăn mặc theo Trung quốc (1744) nên hơn 30 năm sau (1776) khi Lê Quý Đôn vào trấn thủ Thuận hóa mới cải sửa bắt dân trở lại quốc phục. Hoàng Ngũ Phúc là võ tướng chỉ đánh dẹp, việc cai trị là phận sự của quan văn.

* Louis-Gabriel MULLET DES ESSARTS tả trong Voyages en Cochinchine 1787-1789:

Áo của phụ nữ xẻ đằng trước từ trên xuống dưới, bắt tréo trước ngực và để lộ chiếc quần lụa. Tôi không dám chắc là họ không có giầy nhưng tất cả những người tôi gập đều đi chân đất, đàn ông cũng như đàn bà.”

Thế kỷ 19

* 1828 Vua Minh Mệnh xuống chiếu bắt phụ nữ bỏ váy mặc quần, đã làm đề tài cho bốn câu thỏ giễu cợt ai cũng biết:

Tháng tám có chiếu vua ra:

Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.

Không đi thì chợ không đông,

Đi thì bóc lột quần chồng sao đang?

Rành rành “chiếu vua” như thế mà cũng còn có người dậy học trò là lệnh này do thực dân Pháp ban hành!

* Michel Đức Chaigneau là con lai, mẹ người Việt, cha là một trong hai người Pháp làm quan với nhà Nguyễn thời Gia Long, Minh Mệnh [Philippe Vanier tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Chấn (1762-1842), được Vua Gia Long trao quyền chỉ huy tàu chiến Đồng Nai, Bồng Thước, Phi Phụng. Ông Vanier sau đó được thăng chức Khâm sai Chưởng cơ, tước Chấn Oai hầu [quan võ, Tòng nhị phẩm], và trở về Pháp vào năm 1824. (Nguyễn Công Tánh, Việt sử Tân khảo, trang 953. 2003). Philippe Vanier tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Chấn (1762-1842), được Vua Gia Long trao quyền chỉ huy tàu chiến Đồng Nai, Bồng Thước, Phi Phụng. Ông Vanier sau đó được thăng chức Khâm sai Chưởng cơ, tước Chấn Oai hầu [quan võ, Tòng nhị phẩm], và trở về Pháp vào năm 1824. (Nguyễn Công Tánh, Việt sử Tân khảo, trang 953. 2003) – DCVOnline]. Sinh trưởng ở Phú Xuân, Chaigneau Đức viết trong Souvenirs de Huê khá tỉ mỉ về y phục phụ nữ

Miche Đức Vanier. Nguồn:  Jacques-Philippe Potteau chụp năm 1863 nhân dịp Đoàn sứ giả Việt Nam sang Paris.
Miche Đức Vanier. Nguồn: Jacques-Philippe Potteau chụp năm 1863 nhân dịp Đoàn sứ giả Việt Nam sang Paris.

Vợ những người buôn bán hay công chức nhỏ thì mặc một áo vải ngắn, mầu đen hay chocolat, quần lụa đen hay vải trắng. Dân chúng, thợ thuyền giới hạ lưu, đàn ông như đàn bà, ăn mặc rât tồi tệ. Đàn ông chỉ đánh một cái quần vải trắng hay mầu cháo lòng, dài tới đầu gối, buộc ngang lưng bằng một cái giải rút dài, buông thõng hai đầu ở trước bụng… Có người mặc áo vải ngắn mầu trắng hay nâu, thường là rách rưới, vá víu, dài chưa tới đầu gối, để lộ ống chân rám nắng. Phụ nữ ăn mặc cũng tựa như thế, chỉ khác áo dài hơn, ống tay áo rộng, quần và nón rộng hơn. Từng lớp trưởng giả sang trọng thì mặc áo mớ đôi bằng tơ lụa trông suốt qua được, quần lụa đến bụng chân.”

* Thái Đình Lan (1801-1859), người Đài Loan, năm 1835 đi thi Hương rồi về bằng đường thủy, gập bão tố, trôi dạt tới Quảng Ngãi, năm sau mới theo đường bộ trờ về. Đi từ mùa thu năm trước đến mùa hè năm sau mới về đến Phúc Kiến, qua 14 tỉnh nước An Nam như Phú Xuân, Nghệ An, Thanh Hóa, Thường Tín, Lạng Sơn, Thái Bình… qua Trung quốc rồi mới về được quê nhà. Ông viết quyển Hải Nam Tạp Trứ, ghi chép những điều mắt thấy tai nghe ở nước Nam. Về y phục ông cho biết:

tr 171:

Có hai quan chức đến áp mạn thuyền chúng tôi (để kiểm tra). Họ đều chít khăn lụa đen, mặc áo tay hẹp, quần lụa điều, đi chân trần (các quan Việt Nam đi đâu đều đi chân đất), áo mặc không phân biệt nóng lạnh, ngay giữa mùa đông cũng mặc áo quần lụa mỏng. Người quyền quý phần nhiều dùng hai mầu xanh lam và đen; khăn chít đầu cũng thế, quần thì đều mặc quần lụa điều.”

tr 243:

Đàn bà ra ngoài buôn bán, để búi tó, chân đất, dùng vải đũi vấn quanh đầu, đội nón bằng đấu, mặc áo lụa đỏ thẫm, ống tay áo hẹp, áo dài chấm đất, không mặc váy, không thoa son phấn, tay đeo chuỗi ngọc, hạt mã não hoặc vòng đồng.”

* Áo giao lĩnh – Chưa rõ xuất hiện từ bao giờ, tôi tạm xếp vào thế kỷ 19 vì được coi là “xưa nhất”, đã ra đời trước áo tứ thân, tuy không ai đưa ra bằng chứng cụ thể. Áo giao lĩnh giống áo tứ thân, chỉ khác hai vạt đằng trước buông thõng, giao nhau chứ không buộc vào nhau ở trước bụng. Có lẽ người ta thấy áo giao lĩnh “lụng thụng”, bất tiện cho người làm việc lao động nên đoán sau đó mới chế ra kiểu áo tứ thân gọn ghẽ hơn.

Một phụ nữ miền Bắc trong áo tứ thân, thời kỳ 1919 - 1926. Nguồn: OntheNet.
Một phụ nữ miền Bắc trong áo tứ thân, thời kỳ 1919 – 1926. Nguồn: OntheNet.

* Áo tứ thân – Là kiểu áo có bốn thân, hai thân của vạt sau nối sống theo chiều dọc, hai thân đằng trước buộc vào nhau ở trước bụng, để hở cho thấy yếm bên trong. Thắt lưng các mầu tươi thắm như hồng đào, hồ thủy, hoàng yến, xanh nõn chuối, lá mạ… luồn dưới vạt sau, buộc múi trước bụng rồi thả xuống. Cái thắt lưng này có thể là cái “ ruột tượng” hay “ hầu bao” hình cái ống dài, ngoài tác dung trang trí và giữ áo cho khỏi lòe xòe còn dùng để đựng tiền, bằng cách thắt một nút rồi đút tiền vào, lại thắt một nút khác để giữ cho tiền khỏi tuột ra, buộc vào lưng thì không sợ tiền rơi hay bị kẻ cắp.

Có người giảng “tứ thân” tượng trưng cho phụ mẫu đôi bên, hai thân trước buộc vào nhau tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng thắm thiết, quấn quýt lấy nhau… Thú thật bây giờ tôi mới được biết những lời giảng giải uyên bác này. Thoạt nghe cũng thấy hữu lý nhưng tôi ngờ là do người đời sau bịa đặt thêm vào cho văn vẻ chứ không chắc người sáng chế ra áo đã nghĩ thế, trừ phi là bắt chước Trung quốc. Nếu hai thân trước buộc vào nhau tiêu biểu cho tình nghĩa vợ chồng thắm thiết thế thì khi hai vạt áo (giao lĩnh) buông thõng, rời nhau ra, chắc hẳn tượng trưng cho hai vợ chồng đã ly thân? Thế thì áo giao lĩnh phải xuất hiện sau áo tứ thân, không ai ly dị trước khi yêu nhau thắm thiết!

* Áo đổi vai – Gần giống áo tứ thân, khác ở chỗ vạt sau không phải chỉ giản dị nối hai thân, mà mỗi thân lại gồm hai mảnh: phía trên vai mỗi thân có chắp một mảnh vải dài độ vài gang tay, nhưng đôi bên so le cái dài, cái ngắn chứ hai mảnh vai trái và vai phải không đều nhau, và thường là vải mầu đậm hơn thân áo, thí dụ áo mầu nâu non thì mảnh trên vai mầu nâu sẫm hay đen. Thời tôi, cũng như áo tứ thân, áo đổi vai đều bằng vải, do người miền quê mặc chứ không phải người thành thị.

* Áo ngũ thân – Hai vạt trước và sau đều do hai thân nối sống, dưới vạt cả đằng trước còn một vạt con nhỏ hẹp, dài bằng vạt cả. Ổ lưng chừng vạt con khoảng ngang đầu gối, có đính một cái giải để buộc vào vạt cả, chỗ đường nối sống. Thuở nhỏ tôi đã từng mặc áo “ ngũ thân” mà không biết, chỉ biết gọi là “ áo dài”, mầu áo thế nào cũng không nhớ nhưng nhớ như in là phải “ vất vả” buộc giải vạt con vào vạt cả mỗi khi mặc áo.

Có người đoán áo ngũ thân xuất hiện từ thời Gia Long vì mặc nó thì phải mặc với quần chứ không mặc với váy. Nhưng theo Phan Khoang thì loại áo ngũ thân gài khuy mặc vói quần đã do Đào Duy Từ (1572-1634) khuyên Chúa Nguyễn nên bắt dân mặc để khác với tập tục miền Bắc của Chúa Trịnh.

Ý nghĩa của áo ngũ thân: bốn thân tượng trưng cho đôi bên phụ mẫu, vạt con tượng trưng cho người mặc áo, năm cái khuy tượng trưng cho ngũ thường của đạo Nho (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Sinh cha mẹ (tứ thân) rồi mới sinh con là hợp lý. Có điều chiếc vạt con này về sau bị cắt ngắn đến thắt lưng, rồi bây giờ biến mất chỉ giữ lại cái mép đủ chỗ để đính khuy thì phải giảng ý nghĩa thế nào cho hợp lý? Tôi đề nghị là tại người mặc áo đã ngả theo đạo Phật nên “có cũng như không” mà “không cũng là có”, “sắc sắc không không”.

(Còn tiếp)


Nguồn: ÁO DÀI XƯA VÀ NAY – NHỮNG NGỘ NHẬN… Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Chim Việt Cành Nam.
DCVOnline minh họa thêm.

1. Nguyên văn câu tiếng Pháp: “Pour le corps elles le couvrent de certains corps de côte, fait en échiquier, tous diversifier en couleur…” Câu này không minh bạch, tôi tạm dịch nhưng không ưng ý.

2. Tiếng Pháp: “Ces habits de la ceinture en bas tout autour tailladez et déchiquetez à belles mouchetures. Si bien qu’allant par la ville ils font parades de toutes ces couleurs mêlées ensemble: que si quelque doux ventelet vient…” Câu này rất tối nghĩa nên tôi bỏ không dịch.

3. Phủ Biên Tạp Lục chép là năm Bính Dần (1746), dịch giả đoán là bản sao chép sai nên đã sửa thành năm Bính Thân (1776) hợp lý hơn vì 1776 Lê Quý Đôn mới làm Hiệp trấn Thuận Hóa và nhận xét: “Trong khoảng hơn 30 năm phong tục đã thay đổi…” trỏ thời gian từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát bắt dân mặc kiểu Trung quốc (1744) đến khi Lê Quý Đôn ra huấn lệnh cải sửa lại,theo quốc phục.

5 Comments on “Áo dài xưa và nay – Những ngộ nhận… (I)

  1. Một bài viết rất công phu. Thì ra áo dài và phụ nữ đều li kỳ như nhau.

    • Đồng ý hoàn toàn với lời bàn của anh Zulu! Từ lúc biết suy nghĩ, tôi luôn luôn ngạc nhiên và kính phục phụ nữ Việt xứ mình ở vụ y phục áo dài (nhưng không chỉ về chuyện y phục không thôi). Chỉ có phụ nữ Việt mới mang được kiểu áo cổ truyền dân tộc vào đời sống hàng ngày trải qua bao nhiều thời đại, làm cho chúng vừa đẹp vừa tân thời và vừa tiện dụng… Hơn thế nữa, tôi có một ý nghĩ “táo bạo” khác, là chỉ có người con gái Việt mới biết cách “diện” áo dài và ngược lại chi khi mặc áo dài cái đẹo của người con gáo Việt mới biểu lộ ra toàn diện… mê ly!

  2. Trao trả lại cho rương thời quá khứ
    Áo thơm nguyên mùi băng phiến học trò
    Cùng lọn tóc buông xa ngày quá khứ
    Xin thân chào vùng xuân hạ nắng mưa…

    Em, người em solex ngược xuôi, cánh áo dài cuốn lấy đời tôi.
    Em, người em Solex, một sáng 26 tháng Mười, cùng đồng
    đội tham dự duyệt binh bàng hoàng trong nắng.
    Chiều về, tạm rời cánh nhung y, em trở lại áo trắng học
    trò, cùng tôi Bonarder dòng dòng phố xá Saigon…tiếp tục cho
    tôi những giớ thổn thức qua đêm… Be be be be…

  3. Trích: “bên ngoài phủ một thứ hàng mịn và thưa khiến ta có thể dễ dàng trông suốt qua được. Tất cả những mầu sắc hỗn độn ấy tiêu biểu cho mùa xuân tươi thắm, duyên dáng, đồng thời lại cũng rất trang trọng và nhũn nhặn. … Áo dài chấm gót, giữa có buộc thắt lưng bằng lụa, xen lẫn kim tuyến và ngân tuyến, mặt trái mặt phải đều đẹp như nhau (…) Họ sản xuất rất nhiều tơ tầm, dân chúng giầu cũng như nghèo đều mặc tơ lụa.”

    Đoạn trên mô tả cách ăn mặc nhiều màu sắc, nhiều người mặc đồ tơ lụa của một số thời kỳ. Như vậy vào thời xưa, ở một giai đoạn nào đó, Việt Nam đã có lúc kinh tế sung túc, người dân ăn mặc nhiều màu sắc, nhiều người mặc đồ tơ lụa. Ít nhất là ở một số vùng mà kinh doanh, buôn bán phát đạt, có nhiều thương nhân ngoại quốc đến buôn bán. Cách ăn mặc nghèo nàn, giản dị của người Việt mà ông Trần Trọng Kim tả trong Việt Nam Sử Lược, hoặc do ông Michel Chaigneau tả có thể là vào thời Pháp đánh Việt Nam, kinh tế Việt Nam lúc đó nghèo vì dân số gia tăng nhanh mà chính quyền không kịp thời có biện pháp giải quyết. Cũng giống như vào thời chúa Nguyễn ở miền Nam có lúc kinh tế sung túc, dân ăn mặc nhiều màu sắc, rồi đến thời cuối của chúa Nguyễn kinh tế đi xuống do dân số gia tăng nhanh, chính quyền phát hành tiền nhiều gây ra lạm phát, làm nhiều nông dân sạt nghiệp, mất ruộng, nên phong trào Tây Sơn nổi lên.