Sài Gòn Thất Thủ – Kỳ 12

Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR

1975aTại sao hầu hết mọi người đều phải trốn khỏi một tổ quốc đã được quân Bắc Việt giải phóng?

Rời bỏ thủ đô

Phật giáo biểu tình đòi thi hành HĐ Paris 1973 (*). Nguồn: Inflation, Corruption, Hunger Build Pressures Against Thieu. Published in American Report, November 25, 1974. By John Spragens, Jr.
Phật giáo biểu tình đòi thi hành HĐ Paris 1973 (*). Nguồn: Inflation, Corruption, Hunger Build Pressures Against Thieu. Published in American Report, November 25, 1974. By John Spragens, Jr.

“Anh có thể làm chồng của tôi hay không?”

“Cái gì?”

“Không sao đâu, đó chỉ là trên mặt giấy tờ mà thôi. Tôi hứa sẽ không gây phiền phức gì cho anh đâu.”

Nhìn khuôn mặt quen thuộc của cô gái Việt Nam trước mặt, tôi giật mình khi nghe cô ta ngỏ lời yêu cầu bất ngờ như vậy.

Cô là nhân viên của một hãng du lịch gần nơi văn phòng làm việc của tôi trong thành phố Sài Gòn. Tôi và cô chỉ quen biết qua những lần gặp gỡ có tính cách xã giao vì chỗ làm việc gần nhau. Và lần này cô đích thân đến văn phòng của tôi để nhờ giúp đỡ với vẻ mặt khẩn thiết và giọng nói chân thành, nhỏ nhẹ nên tôi biết cô ta không nói đùa. Đó là chuyện xảy ra vào cuối tháng 3/1975 trước khi thủ đô Sài Gòn thất thủ một tháng.

Thời điểm này, áp lực quân sự của Bắc Việt đã đè nặng lên các tỉnh cao nguyên Trung phần bằng những trận tấn công kịch liệt vào hai thành phố lớn của miền Nam là Huế và Đà Nẵng khiến Sài Gòn lâm vào tình trạng hoảng hốt lo sợ, đưa đến tâm lý người dân nơi đây càng muốn rời khỏi Việt Nam đi ra ngoại quốc để lánh nạn cộng sản.

Từ trước đó, việc xuất ngoại của người dân miền Nam đã bị hạn chế rất nghiêm ngặt chỉ trừ những hợp đặc biệt như vì công vụ, đi du học theo học bổng, thăm viếng thân nhân ở ngoại quốc, ra nước ngoài để trị bệnh v.v…, còn lại những mặt khác thì rất khó khăn. Tuy nhiên, lợi dụng một điểm đặc biệt của một số giới chức cao cấp của chính quyền miền Nam là tham nhũng nên người nào có tiền và hối lộ thật nhiều thì cũng sẽ được cấp giấy phép xuất cảnh. Cho nên có thể nói là tại miền Nam vào thời bấy giờ, đa số người dân Sài Gòn đều không có khả năng để đi ra nước ngoài, Cuối cùng, chỉ còn mỗi trường hợp là kết hôn với người ngoại quốc mà thôi. Do đó, số phụ nữ Việt Nam mang nguyện vọng xuất cảnh theo diện kết hôn này đã bất chợt tăng lên thật nhiều.

Người chết trên đường di tản (QL I) vào 12 tháng 4, 1975. Nguồn Bettman/Corbis
Người chết trên đường di tản (QL I) vào 12 tháng 4, 1975. Nguồn Bettmann/Corbis

Trường hợp của tôi khi ấy cũng còn đang độc thân và sống tại Việt Nam từ ba năm trước nên tôi có rất nhiều người quen biết và họ cũng đã thường nhờ tôi giúp dùm việc xuất cảnh theo đường kết hôn. Không riêng gì phụ nữ mà ngay cả những người đàn ông làm chủ các hãng xưởng, tiệm buôn, vì muốn đi Nhật nên nhờ tôi giới thiệu dùm cho họ những nhân viên Tòa đại sứ Nhật Bản ở Sài Gòn. Cho đến ngay cặp vợ chồng chủ nhân cao ốc nơi tôi mướn phòng làm việc chỉ có hai người con trai còn trẻ cũng nhờ tôi giúp đỡ đưa con họ đi ra nước ngoài. Tuy vậy, đối với những trường hợp phức tạp tại nước ngoài như thế, người Nhật Bản đã không giúp được gì cả, mà dù cho có cũng chỉ là một số ít nào đó thôi.

Thật ra lúc đó tôi không tán thành chuyện người Việt Nam từ bỏ quê hương của mình một cách đơn giản như vậy vì tôi cho rằng dù tình thế xảy ra thế nào đi chăng nữa thì việc người Việt Nam sống trên đất Việt Nam cũng là một điều đương nhiên và hợp lý. Cho đến khi có một cô gái làm nhân viên ngân hàng quốc gia là bạn với vị giáo sư dạy tiếng Pháp cho tôi đến nhờ vả việc xuất cảnh thì tôi đã trình bày cho cô ta nghe những điều suy nghĩ như trên và khuyên cô ta nên ở lại.

Nhưng sau khi nghe tôi nói vậy, cô ta vốn bình thường là người đoan trang, nhu mì lại chợt giận dữ rồi lớn tiếng nói với tôi: “Việc sống dưới chế độ cộng sản có được hay không là do sự phán đoán và quyết định của tôi. Hôm nay tôi đến để nhờ anh chớ không phải để tranh luận với về vấn đề rời bỏ Việt Nam ra đi là đúng hay sai.” Nghe cô ta nói đến đây, tôi chỉ biết ngậm miệng lại không dám giải thích tiếp tục nữa.

***

Bắt đầu từ trung tuần tháng 4/1975, chiến cuộc tại Việt Nam càng trở nên sôi động và nguy ngập nên chính quyền Sài Gòn đã ra lệnh cấm toàn diện việc xuất cảnh, cho dù những người có quyền thế hoặc giàu có tới đâu cũng không thể rời khỏi Việt Nam lúc này. Dĩ nhiên, đây là một quyết định hợp lý vì trước nguy cơ tồn vong của miền Nam việc cần thiết nhân lực ở lại để phòng thủ là chuyện cấp bách hơn bao giờ hết. Thế nhưng, phương sách này được áp dụng vào trong một thời điểm đã quá muộn và người dân Sài Gòn đã tìm cách xuất cảnh bằng những hình thức khác cho dù đó là bất hợp pháp.

Tình hình chiến sự càng sôi sục bao nhiêu thì tình trạng xuất cảnh càng thay đổi bấy nhiêu.

Từ ngày 20/4/1975 Hoa Kỳ đã bắt đầu sử dụng các vận tải cơ C-130 và C-141 để tiến hành kế hoạch di tản, đặc biệt là kế hoạch di tản này trên nguyên tắc khác với một cuộc di tản cuối cùng mang tính cách triệt thoái toàn diện. Và theo dự tính ban đầu thì Hoa Kỳ chỉ di chuyển phụ nữ và trẻ em là thân nhân, gia đình của những nhân viên Tòa đại sứ cùng một số ít người Mỹ còn lưu lại Việt Nam lúc đó. Nhưng trước tình thế quá khẩn cấp, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải cho di tản hết toàn bộ những nhân viên thuộc cơ quan xí nghiệp Mỹ, kể cả những người Việt Nam có quan hệ hôn nhân với người Mỹ và thân nhân của họ.

Đồng thời, cũng có một số người trước đây đã hợp tác với quân đội Hoa Kỳ và những người thuộc diện đào thoát từ phía quân Bắc Việt để hợp tác cùng chính quyền miền Nam cũng được Hoa Kỳ cho di tản trong kế hoạch này vì Hoa Kỳ phán đoán rằng họ sẽ bị chính quyền mới trả thù sau khi chiếm được miền Nam. Vì lý do này, tình trạng di tản theo các diện được Hoa Kỳ chấp nhận đã trở nên hỗn loạn và lan rộng khắp miền Nam khiến những người phóng viên ngoại quốc chúng tôi cũng không kém phần lo lắng.

Leo hàng rào vào tòa Đại sứ Mỹ tại Saigon (29/4/1975). Nguồn AP
Leo hàng rào vào tòa Đại sứ Mỹ tại Saigon (29/4/1975). Nguồn AP

Khi các máy bay của Hoa Kỳ đáp xuống căn cứ không quân tại phi trường Tân Sơn Nhất, người ta đã thấy một đoàn người thật đông đảo kể cả nam, phụ, lão, ấu vây quanh để tranh nhau bước lên máy bay. Lúc này, tôi đã hiểu được tâm trạng lo sợ của người dân miền Nam nên đã giới thiệu rất nhiều bạn bè với những nhân viên liên hệ của các cơ quan thuộc chính phủ Hoa Kỳ cũng như đã ký vào đơn kết hôn cho dù không rõ sự tình sẽ ra sao.

Do tình trạng hỗn loạn của cuộc di tản này kéo dài cho đến ngày cuối cùng khi Sài Gòn thất thủ nên quang cảnh những người dân thủ đô hối hả tranh nhau xuất cảnh đã tựa như những đợt sóng người cuốn xoáy theo chiều hướng hỗn độn và ầm ĩ.

Đến ngày 29/4/1975 thì lệnh giới nghiêm 24/24 được ban hành khiến người dân có phần nào e dè và sự di chuyển trên các đường phố đã tương đối giảm sút. Nhưng ngày hôm sau đó, tức ngày 30/4/1975 thì dân chúng thành phố đã hiểu rõ rằng chính quyền Sài Gòn đang từng giây từng phút bị sụp đổ nên đa số đã rời khỏi nhà và tìm cách trốn chạy.

Bản thân tôi vì có giấy phép đặc biệt không giới hạn vì lệnh giới nghiêm nên tôi đã dùng xe hơi chạy khắp thành phố Sài Gòn để quan sát tình hình. Tóm lại, quang cảnh lúc đó thật là hỗn tạp với tiếng khóc la ầm trời của những đoàn người tay bồng bế trẻ em, tay xách nặng hành lý đủ loại, dìu dắt thân nhân vừa chạy gấp rút vừa biểu hiện sự hoảng sợ kinh khiếp khiến tôi phải bàng hoàng.

Chỉ nội khu vực trung tâm thành phố, tôi đã chứng kiến hàng ngàn người trong tình cảnh chạy loạn như vậy. Không phải, hàng vạn người thì đúng hơn. Nói cách khác, cảm giác của tôi lúc đó tựa như một người bất lực đứng nhìn một xã hội, một quốc gia như miền Nam bây giờ đang từ từ rạn nứt, tan vỡ một cách đau thương với nỗi luyến tiếc vô vàn. Nỗi lo sợ kinh hoàng của những người ở Sài Gòn còn được bộc lộ nơi những người dân thật bình thường mà từ trước đến nay họ chẳng biết gì gọi là kỳ vọng nơi sự bảo vệ của Hoa Kỳ và quân đội miền Nam. Tất cả đều hốt hoảng, bỏ chạy tán loạn. Đứng trước những tình cảnh này, một người đã sống quen thuộc và trở nên thân thiết với nơi đây như tôi đã không sao dằn được cơn xúc cảm mãnh liệt.

Di tản trên nóc trụ sở CIA bằng Air America tại 22 đường Gia Long, Saigon, April 29, 1975. Nguồn: hubert-van-es
Di tản trên nóc trụ sở CIA bằng Air America tại 22 đường Gia Long, Saigon, April 29, 1975. Nguồn: hubert-van-es

Cho đến lúc các vận tải cơ và trực thăng đưa người di tản cất cánh thì vẫn còn rất nhiều người tụ tập quanh tòa đại sứ Hoa Kỳ và phi trường Tân Sơn Nhất. Mặt khác, trên sông Sài Gòn các thuyền bè xuất hiện đông đảo và đầy chật người trên đó. Ngay cả các tàu chở hàng cũ kỹ cũng không còn chỗ trống. Người dân định dùng đường biển để vượt thoát khỏi nơi này.

Nhưng tại sao người dân miền Nam lại bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng mà rời bỏ quê hương yêu dấu của họ như thế? Đành rằng là sau một cuộc chiến kéo dài, kẻ bại trận phải lo sợ sự trả thù của người chiến thắng là một trong những lý do đương nhiên, nhưng phía CSBắc Việt cũng đã luôn tuyên bố là họ tiến vào Sài Gòn để giải phóng người dân miền Nam thoát khỏi ách nô lệ và bóc lột kia mà!

Như vậy thì tại sao hầu hết mọi người đều phải trốn khỏi một tổ quốc đã được quân Bắc Việt giải phóng?

Nếu chúng ta giải thích được câu hỏi trên một cách chính xác, tất đã hiểu rõ được ý nghĩa của cuộc chiến tranh Việt Nam.

©Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR

(Kỳ tới: Kỳ 13: Áp lực từ chức)


Nguồn Sài Gòn Thất Thủ – Kỳ 12. Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR.

DCVONline: (*) Điều 11 Hiệp định Paris 1973: “Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.”

[Article 11: Immediately after the cease-fire, the two South Vietnamese parties will: -achieve national reconciliation and concord, end hatred and enmity, prohibit all acts of reprisal and discrimination against individuals or organizations that have collaborated with one side or the other; -ensure the democratic liberties of the people: personal freedom, freedom of speech, freedom of the press, freedom of meeting, freedom of organization, freedom of political activities, freedom of belief, freedom of movement, freedom of residence, freedom of work, right to property ownership, and right to free enterprise….]

2 Comments on “Sài Gòn Thất Thủ – Kỳ 12

  1. Nu1ebfu anh cu00f2n nu1ee3 tu00f4i 50 dollars, mu00e3i mu01b0u1eddi nu0103m sau, anh vu1eabnnchu01b0a tru1ea3 lu1ea1i tu00f4i, thu00ec anh vu1eabn cu00f2n nu1ee3 tu00f4i, tru1eeb khi tu00f4i xu00f3a nu1ee3 cho anh.nu00dd nghu0129a tru00ean tru1ee7ng vu00f4 tru01b0u1eddng hu1ee3p bu00ean Cu1ed9ng Su1ea3n tu1ef1 u00fd xu00e9 cu00e1inHu0110 Ba Lu00ea 1973, vu00e0 thu1ed1ng nhu1ee9t bu1ea5t hu1ee3p phu00e1p lu00fd vu00e0 cu00f4ng u01b0u1edbc,nCho nu00ean Cu1ed9ng Su1ea3n vu1eabn cu00f2n nu1ee3 phu00e1p lu00fd, lu00e0 Hu0110 Ba Lu00ea 1973, mu1eb7c ndu00f9 u0111u00e3 vu00f4 LHQ cu0169ng mu1ed9t cu00e1ch khu00e1c thu01b0u1eddng ! nhu01b0ng cu00f2n nu1ee3.

  2. Thu01b0a thu00eam : u0111u00e3 sa vu00f4 su00f2ng bu1ea1c casino, lu00e0 su00e1t phu1ea1t, u0103n thua.nNhu01b0ng ku1ebb “u0103n gian” bu1ecb bu1eaft quu1ea3 tang, vu1eabn cu00f3 lu1ed7i, bu1ecb u0111uu1ed5i, hou1eb7c phu1ea1t u0111u1ec1n.nu0110u00f3 lu00e0 tru01b0u1eddng hu1ee3p u0103n gian cu1ee7a bu1ecdn cu1ed9ng phu1ec9 Bu1eafc Ku1ef3 vu00e0o buu1ed5i su00e1ngn30.4.1975. ” u0102n gian ” thu00ec phu1ea5n thu1eafng u0103n gian cu1ee7a chu00fa mu00e0y vu00f4 giu00e1 tru1ecb.nLu00e0m lu1ea1i nghe con! ( Thu1eddi gian su1ebd tru1ea3 lu1eddi, u00eam u00e1i thu00f4i, mu00e0 chu1eafc chu1eafn)