Những ý kiến chung quanh 20 năm Văn học miền Nam (I)

Thư Quán Bản Thảo

tqbtĐiều hợp: Nguyễn Lệ Uyên
Tham dự: Luân Hoán, Trần Doãn Nho, Trần văn Nam, Trần Hoài Thư, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Vy Khanh, Lữ Quỳnh, Phạm văn Nhàn, Trần thị Nguyệt Mai

20namvhmnTạp chí Thư Quán Bản Thảo (TQBT) số 63, dành phần lớn số trang cho chủ đề 20 Năm Văn họn Miền Nam, để một lần nữa, khẳng định sự đóng góp của các nhà văn nhà thơ trong giai đoạn máu lửa cùng giá trị nhân văn, tự do lẫn các khuynh hướng sáng tạo của họ trong giai đoạn đất nước lâm vào cuộc nội chiến tàn khốc nhất.

Văn học miền Nam 54-75 không hề mang tính chất độc hại của một loại sản phẩm văn hóa mà nhà cầm quyền CSVN gán cho cái nhãn nô dịch, phản động, đồi trụy. Ngược lại, nó đã làm tròn sứ mệnh của người cầm bút trước lịch sử văn học Việt Nam.

Những gì mà giới văn hóa văn nghệ miền Bắc, dưới sự chỉ huy của đảng CSVN đã và đang tiếp tục bức tử một nền văn học chói sáng ở một nửa đất nước, trong một cụm từ mang tính thóa mạ, báng bổ: “Văn học đô thị miền Nam” (?!), là điều không thể chấp nhận, đi ngược lại xu hướng phát triển đa chiều về văn hóa dân tộc của bất kỳ một quốc gia nào!

Đề cương văn hóa văn nghệ mà ông Trường Chinh chấp bút cách đây mấy chục năm chính là sự mù lòa của lãnh đạo CSVN du nhập từ một loại tư tưởng lạc hậu, rập khuôn và sắt máu gieo rắc vào đầu óc nhiều thế hệ, mang tính triệt tiêu ý thức tự do sáng tạo ở mỗi cá nhân và hơn hết biến những người cầm bút và người đọc thành một bầy cừu giữa vài con sói già xác xơ lông, thiết lập xã hội trên nền tảng một loại học thuyết mục ruỗng, lỗi thời, hoang tưởng.

Chúng tôi, những người cầm bút cùng một thế hệ, chịu nhiều thiệt thòi nhất, trong cuộc nội chiến tương tàn, đã cùng nhau nêu lên những ý kiến xoay quanh đề tài này để, một lần nữa xác quyết về tính nhân bản, tự do… trong sáng tạo, không bị bất kỳ một thế lực nào định hướng và ít nhiều đã góp phần cho dòng chảy sáng rực của văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, và đang tiếp tục nối dài bởi các nhà văn trẻ thế hệ hậu chiến, trong lẫn ngoài nước, làm cho nền văn học dân tộc rực rỡ hơn, phong cách và tư tưởng đa chiều hơn trong mỗi tác phẩm.

Sau đây là ý kiến của các nhà văn, nhà thơ, nghiên cứu phê bình: Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Nguyễn Vy Khanh, Lữ Quỳnh, Phạm Văn Nhàn, Trần Doãn Nho, Trần Văn Nam, Trần Thị Nguyệt Mai, Nguyễn Lệ Uyên xoay quanh chủ đề này. (TQBT)

Luân Hoán: Trước hết chúng ta cần khẳng định chiều dài văn học miền Nam từ đâu đến đâu, trước khi bàn sâu đến các giá trị của nó?

Trần Hoài Thư: Theo tôi nghĩ từ 1955 đến năm 1975. Gồm hai thời kỳ: Thời bình và thời chiến. Cái mốc là năm 1962, lúc chiến tranh bắt đầu thật sự bùng nổ.

Nguyễn Lệ Uyên: Văn học miền Nam là sự nối dài từ dòng văn học tiền chiến. Riêng dòng văn học miền Bắc thì bị gẫy lìa sau hiệp định Genève chia đôi đất nước, nghĩa là phủ nhận toàn bộ giá trị văn học nghệ thuật trước đó, hướng theo dòng văn chương vô sản hiện thực xã hội hổ lốn, một loại văn chương mang tính rập khuôn, tuyên truyền. Duy nhất ở miền Nam, dòng văn học này được nối dài với di sản văn chương cha ông để lại, tuy không lâu để sau đó phát triển theo chiều hướng mới, khởi đi từ tạp chí Sáng Tạo. Giai đoạn từ 54 tới 75, có thể chia dòng văn học này làm 2 phân kỳ: giai đoạn 54-63 và 63-75. Ở phân kỳ trước, là sự làm mới văn học hôm nay, theo cách gọi của Mai Thảo với hàng loạt tên tuổi luôn là những đề tài cho các công trình biên khảo văn học. Phân kỳ sau, từ 63-75 là dòng văn chương của chiến tranh, thuộc về chiến tranh mà hầu hết các tác phẩm được công bố đều là các nhà văn nhà thơ trực tiếp tham gia vào cuộc chiến, hầu hết họ đều thuộc lớp trẻ. Tôi chia làm 2 phân kỳ và nhấn mạnh đến phân kỳ sau, như sự lưu ý về một góc nhìn khách quan hơn trong các công trình biên khảo sau này.

Nguyệt Mai: Tôi cũng có cách nhìn giống anh NLU. Theo tôi, văn học miền Nam lấy cột mốc từ 1954 -1975 là những năm đất nước bị chia cắt. Miền Bắc có nền văn học riêng của họ. Đó là nền văn học XHCN, mà tất cả các nhà văn thơ nghệ sĩ đều bị buộc phải viết một chiều: ca ngợi lãnh tụ và đảng cộng sản, tuyên truyền cho chế độ và cho cuộc chiến tranh mà họ gọi là “chống Mỹ cứu nước”. Họ không được tự do viết về thân phận, tình yêu… của riêng họ, mà người cộng sản cho đó là những “lãng mạn tiểu tư sản”. Sau vụ dập tắt “Nhân Văn Giai Phẩm”, nhà cầm quyền miền Bắc đã “trói” tay của các văn nghệ sĩ.

Hãy nghe nhà văn Võ thị Hảo viết về nhà văn Bùi Ngọc Tấn để từ đó suy luận được đời sống của các nhà văn miền Bắc:

“Tôi đã quên tên tôi dưới mặt trời.” Câu thơ xuất sắc này của Bùi Ngọc Tấn thể hiện nhiều điều về thân phận của một con người – một nhà văn bị buộc phải sống trong một đám đông như một con kiến trong một đàn kiến, như một con cừu cúi mặt đi trong một đàn cừu. Để thích ứng, người ta phải tự mắc bệnh nhòa, cố gắng quên bản ngã, cá tính, chính kiến của mình, để được tồn tại.

(Võ thị Hảo – Ai đã giật băng tang trên vòng hoa người chết). Nguồn: http://www.rfa.org/ – ngày 24.12.2014

Ở miền Nam, được hưởng bầu không khí tự do, các văn nghệ sĩ được tự do sáng tạo. Họ có thể trải lòng viết bất cứ những gì họ muốn, không theo đơn đặt hàng. Nên trăm hoa đua nở. Miền Nam đã có những sáng tác về mọi thể loại: văn, thơ, âm nhạc, dịch thuật, triết học….

Nguyễn Vy Khanh: Về các giai-đoạn văn-học, chúng tôi phân chia văn học miền Nam 1954-1975 thành hai thời kỳ chính: 1954-1963 và 1964-1975. Vào giai đoạn đầu 1954-1963, một nền văn nghệ tự do sinh hoạt trong một không khí văn hóa, tin tưởng, thì đến giai đoạn sau 1964-1975, văn nghệ đa dạng hơn nhưng cũng đa tạp hơn với những người làm văn nghệ phân hóa, cả bạo động, trong một xã hội thời chiến giá trị phong hóa mất dần. Giai đoạn đầu có thể nhận ra hai thời, thời đầu 1954-1960 tự tạo niềm tin và là thời xây dựng hậu chiến và thiết lập nền chính trị cộng hòa, dân chủ, tự do; sinh hoạt văn-hóa và văn-học hồi sinh, lý thuyết cùng ảnh hưởng Âu Tây nhập dòng văn-học Việt từ miền Bắc di cư vào và dòng văn-học miền Nam bản địa (Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Hiện Đại đều đình bản năm 1960 hoặc 1961). Thời sau, 1961-1963, báo chí và ấn phẩm phục vụ giai đoạn đầu dần tự cập nhật lại. Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 không những đóng lại nền Đệ nhất Cộng hòa mà còn thay đổi cả sinh hoạt cùng não trạng văn hóa. Giai đoạn hai của nền văn-học miền Nam, 1964 -1975, đã tiến triển qua ba thời: 1964 -1968, đa nguyên văn hóa và văn chương nở rộ, văn-học chiến tranh dần rõ nét với các nhà văn thơ trẻ, thời 1968-1972 hốt hoảng sau cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 và cuối cùng là “Mùa Hè đỏ lửa” 1972, văn-học chiến tranh “sung mãn” một cách bi thảm theo cuộc chiến, khuynh hướng phản kháng và phản chiến ngày càng nặng nề với nguồn gốc và động cơ khác nhau. Và thời cuối 1973 -1975 với hiệp định đình chiến Paris 27-1-1973, sinh hoạt văn-học phần nào trầm hơn bên cạnh những đấu tranh chính trị.

Trần Doãn Nho: Cho đến bây giờ, khi nói VHMN tức là nói đến văn học VNCH, một chế độ xuất hiện sau hiệp định Genève chia đôi đất nước từ năm 1954 đến 1975, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Văn học miền Nam là nền văn học từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, khác với văn học Nam Bộ chỉ giới hạn ở vùng đồng bằng Nam phần. Do điều kiện chính trị, xã hội cũng như lãnh thổ, VHMN có những đặc điểm riêng biệt, khác hẳn với văn học miền Bắc tính từ vĩ tuyến 17 trở ra Ải Nam Quan, cùng một thời kỳ.

Trần Văn Nam: Tôi xin đặt vấn đề rằng, Văn học Miền Nam giai đoạn 1963 đến 1975, giai đoạn nửa triệu quân Mỹ tham chiến trực tiếp ở Miền Nam, có phải văn chương không nổi trội bằng âm nhạc của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn và vài nhạc sĩ khác? Hay vì hoàn cảnh chiến tranh ác liệt làm văn học vẫn phong phú nhưng không đủ điều kiện để phổ biến những sáng tác, nhất là của các nhà văn nhà thơ đồng thời là quân nhân tác-chiến hoặc đang ở xa đô-thị?

Trần Hoài Thư: Âm nhạc trội hơn bộ môn văn chương vì tiết tấu trầm bổng du dương dễ đi vào lòng người nghe. Ngày trở về có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ có gì văn chương đâu mà Ngày Trở Về của Phạm Duy lại được phổ biến rộng rãi.

Nhờ radio. Nhờ quán nhạc. Nhờ cây đàn. Nhờ ca sĩ. Còn văn chương thời chiến, dù phong phú cách mấy, nhưng chỉ thu hẹp trong sách vở tạp chí, và thành phần độc giả.

Thời nào cũng vậy, xã hội nào cũng vậy. Hai bộ môn khác nhau. Và có thể đối tượng cũng khác nhau. Một đàng dùng tai. Một đằng dùng mắt nhưng mắt cần phải biết chữ, phải có trình độ, kiến thức, hay tuổi tác…

Luân Hoán: Âm nhạc vốn là một chuyển đạt tình cảm, thông tuệ trực tiếp và hữu hiện đến đại quần chúng, nên tôi không ngạc nhiên sự lấn lướt của bộ môn nghệ thuật này so với văn thơ… Một đôi khi âm nhạc chỉ cần nhắc lại, mở rộng ra một ý thơ đẹp, đủ được chào đón thưởng thức hơn hẳn ý thơ đó nằm im trong một thi tập. Trường hợp của Vũ Hữu Định và Linh Phương có thể so sánh khả năng phổ quát trong quần chúng giữa hai bộ môn thi nhạc như thế nào.

Lữ Quỳnh: Dù chiến tranh khốc liệt đến đâu, thì âm nhạc vẫn có ưu thế hơn văn học, cho nhạc sĩ sáng tác hơn là cho nhà văn, nhất là những nhà văn ngoài chiến trường. Người ta, dù bất cứ ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn nghe dễ hơn đọc.

Đã có những người lính miền Bắc trong lúc ngồi hầm tránh bom B52 vẫn kề radio vào tai để nghe Trịnh Công Sơn, Phạm Duy… cơ mà.

Anh Trần Văn Nam nói các nhà văn, nhà thơ đồng thời là quân nhân tác chiến, không đủ điều kiện để phổ biến những sáng tác của họ. Tôi nghĩ điều này chưa hẳn đúng (dĩ nhiên là họ không có điều kiện như những nhà văn ở thành phố rồi). Điều mà tôi thấy và cảm phục ở họ, là họ viết được trong những phút dừng quân giữa rừng, đôi khi những trang bản thảo bị nhòe nước mưa và vấy cả máu. Sáng tác của họ vẫn gửi đều về và được đăng tải trên Khởi Hành, Văn, Bách Khoa… Điều mà tôi muốn nói là có những kẻ tưởng mình là nhà văn, nhà phê bình để có quyền lên tiếng, phát biểu này nọ; thực ra họ chỉ lặp lại, dựng lên những gì đã có sẵn từ trước, không có gì gọi là khám phá, mới lạ cả.

Nguyễn Lệ Uyên: Tôi cũng có ý như Lữ Quỳnh, chưa thật tán đồng cách đặt vấn đề của anh Trần Văn Nam, bởi âm nhạc, hội họa có tiếng nói riêng, đời sống riêng của nó… khác với thơ văn về phương diện truyền tải đến người thưởng ngoạn. Đã đành nhờ âm nhạc, thơ được vang xa hơn (phổ thơ), nhưng không phải vì vậy mà thơ tự nó mất đi giá trị nội hàm. Những bài thơ không được phổ nhạc như Chiến tranh VN và tôi của Nguyễn Bắc Sơn hay Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư ai dám khẳng định là nổi trội hay không nổi trội bằng những ca khúc của Ngô Thụy Miên, Phạm Duy, Phạm Đình Chương?

Văn học ở giai đoạn máu lửa này, từ các nhà văn nhà thơ trẻ, tác phẩm của họ được công bố rộng rãi từ nhật báo, đến tuần san chuyên biệt, đến các tạp chí văn chương… Đó, thơ của Phạm Ngọc Lư, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Lâm Hảo Dũng, Trần Kiêu Bạt, Lâm Chương, … hay văn của Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Kinh Dương Vương, Lương Thái Sỹ, Lê Văn Thiện… vẫn đều đặn xuất hiện trên báo chí và lập tức tạo sự chú ý cho độc giả, mọi thành phần. Những người lính là nhà văn, nhà thơ khi viết, họ viết về những gì họ sống với, chứng kiến… Họ viết lúc dừng quân, viết trong hầm, viết khi nghỉ chân trên đường hành quân. Sống và chết trong gang tấc, viết được và hay đã là điều kỳ diệu và khi tác phẩm của họ được đưa lên mặt báo đã là sự kỳ diệu lớn hơn. Bởi nó đã đánh động vào tâm não của độc giả, của xã hội thậm chí cả chính quyền, phần nào cảm thông được thân phận lớp trẻ thời ấy, hiểu được nỗi hẩm hiu, số phận của dân tộc nhỏ bé, hứng lấy những tai họa từ những sắp đặt của kẻ lớn.

Trần Doãn Nho: Âm nhạc là âm nhạc, văn chương là văn chương, cũng như hội họa là hội họa, đó là những hình thái nghệ thuật hoàn toàn khác nhau. Âm nhạc, chủ yếu là hát và nghe; văn chương chủ yếu là viết và đọc. Mỗi hình thái nghệ thuật có một ảnh hưởng nhất định nào đó trên quần chúng. Âm nhạc chủ yếu nhắm đến cảm tính, ảnh hưởng của nó đôi khi ta có thể nhìn thấy ngay, cho nên nó “nổi trội”; văn chương chủ yếu nhắm đến tri thức, nhận thức và kiến thức, ảnh hưởng của nó tiềm ẩn, không thấy ngay, nhưng có tác động lâu dài về sau. Quần chúng của âm nhạc rộng và dễ dãi hơn độc giả của văn chương. Tuy nhiên, theo tôi, nhạc Phạm Duy và Trịnh Công Sơn, sở dĩ nổi trội hơn tất cả các nhạc sĩ khác vì lời nhạc của hai tác giả này có tính chất văn chương. Ưu thế của họ, nếu có, xuất phát từ đặc điểm này.

Trần Văn Nam: Tôi nghĩ rằng, như đã xác nhận hàm chứa trong câu hỏi, vì tôi cũng đã có viết về điều này trong bài “Các Thời Kỳ Văn Học Miền Nam Từ 1963 Đến 1975”. Nay tôi có dịp bổ túc những điều được biết như sau: Qua những ý kiến của nhà văn Trần Hoài Thư, ta mới nhận ra sáng tác văn thơ về chiến tranh của nhiều tác giả (quân nhân hoặc dân sự) đã có hiện diện thật nhiều trong các tạp chí Văn, Khởi Hành và Bách Khoa thời gian ấy, đa phần là những mô tả hiện thực trong khói lửa. Vì điều kiện thời tao loạn, các tác phẩm truyện ngắn hiện thực chiến tranh của họ chưa được xuất bản thành sách, chưa được các nhà phê bình lưu tâm, nên phải nằm trong âm thầm. Một phần nào nay được lưu giữ trong 4 bộ sách “Văn Miền Nam” và 2 bộ sách “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến” của nhà xuất bản Thư Ấn Quán. (Và cũng có hiện diện trong vài bộ sách văn học xuất bản tại hải ngoại mà tôi không nhớ hết). Nhân đây, thêm một câu hỏi của tôi và cũng xin tự trả lời nhằm mục đích ghi nhận một sự kiện văn học: Tại sao có ít nhóm văn chương ở giai-đoạn 1963-1975 hơn là ở giai-đoạn 1954-1963 trong Văn Học Miền Nam (thời Việt Nam Cộng Hòa)? Câu hỏi xem chừng dễ trả lời: Sở dĩ có nhiều nhóm quy tụ bạn văn chương vì thời Đệ Nhất Cộng Hòa là thời chiến tranh chưa đến hồi khốc liệt, chưa ở vào giai đoạn nửa triệu quân Mỹ trực tiếp tham chiến. Tình hình tương đối an ninh trên toàn thể lãnh thổ Miền Nam. Giới văn chương quy tụ ở Sài Gòn, hoặc ở các thành phố. Họ không bị phân tán khắp nơi như thời chiến tranh cao điểm: mỗi người theo nhu cầu chiến sự phải công tác ở một nơi nào đó theo chuyên môn nghiệp vụ. Được quây quần nhờ điều kiện yên ổn trong thành phố, họ dễ liên lạc nhau để tổ chức hội thảo hoặc nhắn nhủ đóng góp kịp thời bài sáng tác cho tạp-chí văn chương nào đó, nhờ thế tạo nên điều kiện hình thành nhóm. Câu hỏi và tự hồi đáp này mong được coi như một ghi nhận sự kiện thời Văn học Miền Nam. Nhân sự trong nhóm kể ra ở đây chắc không đầy đủ hoặc không đúng, mong được bổ túc và sửa sai từ giới làm văn có nhiều thân cận và hiểu biết. Những nhóm văn chương giai đoạn 1954-1963 gồm có: Nhóm Sáng tạo (Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền) – Nhóm Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca) – Nhóm Hành Trình (Nguyễn Văn Trung, Trịnh Viết Thành, Thảo Trường) – Nhóm Quan Điểm (Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng) – Nhóm Phổ Thông (Nguyễn Vỹ, Tôn Nữ Hỷ Khương, Lâm Vị Thủy, Tuệ Mai) – Nhóm Tao Đàn (Đinh Hùng, Tô Kiều Ngân) – Nhóm Tinh Việt Văn Đoàn (các nhà văn và học giả Công Giáo) – Nhóm Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Quách Thoại) – Nhóm Nhân Loại (Anh Đào, Tam Ích, Sơn Nam) – Nhóm Mùa Lúa Mới (Võ Phiến, Đỗ Tốn)… Qua giai đoạn 1963-1975, các nhóm văn chương trở nên ít hơn, nhường chỗ cho các tạp chí quy tụ rộng rãi các nhà văn thơ từ khắp nơi và không phân biệt khuynh hướng, như Tạp chí Bách Khoa, Tạp chí Văn, Tạp chí Thế Kỷ 20, Tạp chí Thời Tập; Tuần báo văn chương Khởi Hành, Tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ. Đây là thời chiến tranh khốc liệt, các truyện ngắn và thơ hiện thực chiến tranh sáng tác từ những nơi khói lửa và xa đô thị có được những diễn đàn để bày tỏ cảm nghĩ. Chỉ có ít nhóm văn chương thời kỳ này, như nhóm Trình Bầy (Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Diễm Châu); và vài nhóm cách xa Sài Gòn như nhóm Khai Phá ở Châu Đốc (Ngô Nguyên Nghiễm, Lâm Hảo Dũng), nhóm Ý Thức ở Miền Trung (Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh).

Nguyễn Lệ Uyên: Tôi nghĩ, giai đoạn 63-75, chiến tranh bắt đầu lên tới cao trào, khốc liệt. Các nhà văn trẻ, hầu hết đều ở ngoài mặt trận, và tác phẩm của họ thường trên các tạp chí văn chương Sài Gòn. Trong hoàn cảnh lịch sử như vậy, phần nào giới hạn sự phát triển của các nhóm văn nghệ mang màu sắc, tiếng nói riêng biệt, nhưng điều này không có nghĩa rằng các nhà văn trẻ chỉ chịu lệ thuộc vào các tạp chí văn học lớn ở thủ đô. Trong chừng mực nào đó, họ vẫn cố gắng qui tụ những gương mặt có cùng một hoài bão, cùng một khuynh hướng sáng tác trên một tờ báo do anh em trong nhóm chủ trương. Có thể kể ra đây:

-Huế có tờ Việt, tờ báo vận động văn học nghệ thuật về nguồn, dưới hình thức in ronéo do Nguyễn Văn Ban, Tần Hoài Dạ Vũ, Kiều Trung Phương coi sóc.

-Quảng Nam, Quảng Ngãi có tờ Trước Mặt do Luân Hoán, Thành Tôn, Phan Nhự Thức… chủ trương, bên cạnh còn có thêm Ngưỡng Cửa cũng của nhóm này.

-Qui Nhơn có Nhìn Mặt do Trần Hoài Thư, Đặng Hòa chủ trương. Ngay đến một thị trấn nhỏ như An Nhơn Bình Định cũng có tờ Vỡ Đất.

-Tuy Hòa có tạp chí Sóng do Hoàng Đình Huy Quan, Nguyễn Phương Loan, Nguyễn Lệ Uyên, Phạm Cao Hoàng, qui tụ nhiều cây bút thành danh sau này, như Y Uyên, Cung Tích Biền, Lôi Tam, Đỗ Tiến Đức, Luân Hoán, Đinh Trầm Ca, Thành Tôn, Hoàng Ngọc Châu, Tần Vy, Võ Hồng, Từ Thế Mộng… Mấy năm sau, Trần Huiền Ân, Phan Việt Thủy, Mang Viên Long cho ra mắt Hiện Diện.

-Nha Trang thì có Dựng Đất của nhóm Nguyễn Âu Hồng, Lê Minh, qui tụ nhiều cây bút tên tuổi: Võ Hồng, Dương Kiền, Thạch Trung Gỉa, Duy Năng, Chu Trầm Nguyên Minh…

-Phan Rang có Ý Thức, tờ báo in ronéo đẹp nhất miền Nam của nhóm Nguyên Minh, Lữ Quỳnh, Lữ Kiều, Lê Ký Thương, Ngy Hữu…

-Miền Tây có tờ Khai Phá của nhóm Ngô Nguyên Nghiễm, Lưu Nhữ Thụy, Lâm Chương, Hà Nghiêu Bích… Và còn nhiều nhóm khác nữa…

Những liệt kê trên, cho thấy rằng, không phải các nhà văn trẻ thiếu ý hướng lập ra những nhóm riêng lẻ, mang các khuynh hướng khác nhau, từ văn học nghệ thuật đích thực đến tình tự dân tộc, đến về nguồn… Tuy nhiên, như đã phân tích, chiến tranh cuốn hút tất cả mà hệ quả là lực bất tòng tâm, khác hơn, vấn đề tài chính và chiến tranh là hai yếu tố nhấn chìm mọi tham vọng, ước mơ của những cây bút trẻ mong có được một nhóm như trước đó thế hệ đàn anh đã từng. Duy nhất chỉ có Ý Thức là vẫn duy trì cho đến ngày nay, đổi tên Ý Thức ra Quán Văn. Điều này cũng khẳng định rằng, chỉ có miền Nam mới có tự do sáng tác, tự do đưa ra mọi khuynh hướng, chính kiến vào tác phẩm văn chương.

-Phạm Văn Nhàn: Như tôi đã từng nói, văn học miền Nam sau năm 1954 cho đến năm 1975 là một nền văn học đích thực. Tại sao gọi là một nền văn học đích thực; vì nó không mị dân, không tuyên truyền cho một chế độ. Người cầm bút có quyền viết bày tỏ sự suy nghĩ, sáng tạo, hay dựng truyện tùy theo cảm nghĩ của mình. Không lệ thuộc vào một tổ chức chính trị nào. Không ảnh hưởng đến một ai cả, đứng đằng sau chỉ đạo. Và còn nữa, chỉ có Văn Học Miền Nam mới phát huy hết được tính sáng tạo trong văn, thơ của từng tác giả.

Tuy nhiên trong 20 năm văn học Miền Nam cũng có loại văn thơ dùng cho tuyên truyền, tâm lý chiến của chế độ. Nhưng, thường những thể loại này (văn, thơ, nhạc, hội họa) đều là dở. Ít ai đọc và không đi vào lòng người.

Trần Hoài Thư: Một điểm chung mà văn học miền Nam cống hiến là tình thân như ruột thịt giữa những người cầm bút trẻ trong thời chiến, dù người này có khuynh hướng thiên Cộng, viết cho Đối Diện, dù người kia trốn lính hay đào ngũ. dù kẻ nọ chống Cộng cực đoan… Ví dụ Thái Ngọc San chửi THT là lính đánh thuê, nhưng khi TNS đào ngũ bị bắt, tôi và Phạm Văn Nhàn vẫn đến trại trưng binh ở Ghềnh Ráng để thăm nuôi… Hoặc dù không bao giờ thấy mặt nhau nhưng ngỡ như thân lắm…

Tại sao vậy? Văn học miền Bắc có chuyện này không?

Riêng tôi (THT), một điểm phải ghi nhận là chính những tạp chí văn học như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Ý Thức v.v… đã giúp chúng tôi gần gũi nhau hơn bao giờ. Chúng tôi cùng đọc và cùng viết. Dù chưa một lần gặp mặt nhưng tên bút hiệu thì xem như thân nhau lắm.

Trong hoàn cảnh của chiến tranh, đưa đẩy mỗi người một phương trời, chính các tạp chí ấy là gia đình.

Đặc tính này còn tìm thấy trong hàng ngũ chung của người cầm bút ở miền Nam. Một ví dụ là việc can thiệp của giới viết văn/làm báo tại Saigon đòi chánh quyền phải thả Vũ Hạnh, dù ai cũng biết Vũ Hạnh là một thành phần nguy hiểm…

Còn những nhà văn nhà thơ miền Bắc ra sao? Tôi nghĩ tội nghiệp cho họ. Họ không có độc giả, hay bạn bè. Bởi vì, họ đâu có viết cho họ để mà có cái thân tình như tác giả miền Nam. Họ viết cho đảng, cho giai cấp, cho mục tiêu tối hậu là xâm chiếm miền Nam mà.

Luân Hoán: Điều anh Trần Hoài Thư nêu ra gần như là một xác nhận rõ nét tính chất nhân bản của hai bên đối đầu của hai chế độ. Điều này không phải lỗi của văn nghệ sĩ miền Bắc chỉ bởi hoàn cảnh thiếu tự do của họ. Tài hoa và lòng nhân ái của những cây bút miền Bắc có thừa. Và sự có thừa này ngày nay có thể vì ít nhiều tự ái và bảo thủ về đường hướng phục vụ lâu năm, mà họ chưa thể có những tác phẩm lớn hơn cho đại quần chúng.

Trần Văn Nam: Thời chiến 1954-1975, không những hai phe khác quan điểm đã đả kích nhau trong chữ nghĩa mà còn khác chiến tuyến với súng đạn, thì cách đối xử lịch sự chỉ là những trường hợp cá nhân do biết nhau qua văn thơ, trong đó có thể hàm chứa sự tán thưởng về nghệ thuật sáng tác. Tấm lòng của ông (Trần Hoài Thư) đối với văn-hữu tử trận, đối với thi-tài một thời bị lãng quên, đối với dịch giả dành trọn tuổi trẻ chuyển-ngữ những tác phẩm lừng danh thế giới… đã thể hiện cụ thể trong những số tạp chí in-ấn thủ-công do ông cố gắng làm ra để tưởng niệm họ. “Văn Học Miền Nam 1954-1975” gắn bó với công-trình “Di Sản Văn Chương Miền Nam” do ông thực hiện.

Nguyễn Lệ Uyên: Với những người viết trẻ (cách gọi của cố nhà văn Trần Phong Giao), họ có sự đồng cảm về thân phận của những thanh niên trong hoàn cảnh tàn khốc nhất của chiến tranh. Mới vừa là học sinh cuối bậc trung học, sinh viên chưa ngồi ấm ghế giảng đường, đã vội vã lên đường cầm súng. Sự sống và cái chết luôn treo lơ lửng trên đầu họ. Vì vậy, đối với họ, viết là sự bày tỏ, là thái độ đồng thời cũng là trách nhiệm với chính những dòng chữ mình viết ra trước độc giả, xã hội. Họ có cùng một tâm trạng, suy nghĩ tuy lối sống có khác nhau, cách nhìn, cảm nhận khác nhau… đã là một sợi dây nối kết với nhau.

Một cái tát của LC dành cho Thái Ngọc San ở tòa soạn Ý Thức, hay một câu “chửi” của San với Thư hay anh em khác, không phải phát xuất từ những hằn học đã được định vị từ một thái độ chính trị, mà trong tâm thế đang bị lôi kéo, bị rỉ tai cộng với nhận thức hời hợt của tuổi trẻ, như Milovan Djilas từng viết trong Giai cấp mới rằng: “20 tuổi mà không đến với chủ nghĩa cộng sản là người không có trái tim; 40 tuổi mà không từ bỏ chủ nghĩa cộng sản là người không có cái đầu”! Tôi nghĩ thái độ của San chỉ là ý thức phản kháng hèn đớn và nhất thời.

Nên nhớ rằng lúc đó chúng ta chỉ đang ở ngưỡng “Nói với tuổi Hai Mươi” của Nhất Hạnh. Một lớp trẻ bơ vơ vừa bị ném ra mặt trận! Tôi coi khinh Cộng Sản nhưng khi thấy Thái Ngọc San co ro trong tòa soạn Ý Thức giữa trưa không còn bóng người, tự dưng tôi cảm thấy chạnh lòng…

Ngay trong lòng thủ đô Sài Gòn, bên cạnh Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, Nguyễn văn Bông… thì có Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lan, Lê Văn Ngăn, Thái Ngọc San; có Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy bên cạnh Lê Khắc Minh Nhựt, Đoàn Văn Toại… Một bên văn chương gắn liền với chính trị, nói khác là chính trị hóa văn chương bên kia là tự do hoàn toàn. Không ai không biết họ là những người cộng sản nằm vùng, sử dụng văn học và báo chí như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho những mưu đồ. Ở miền Nam, nhà văn chân chính chỉ có trách nhiệm với ngòi bút và độc giả. Chính trị đã có chính quyền và luật pháp. Thật rạch ròi.

Vì vậy, cho nên trong cùng một thế hệ, dù cho sự chọn lựa thái độ và cách hành xử và hành ngôn của mỗi người có khác nhau, nhưng trên văn đàn họ vẫn ngồi đứng trong cùng một con tàu văn học, và tạo cho dòng văn học miền Nam đa dạng đa chiều hơn.

Điều này càng không thể so sánh với lớp trẻ miền Bắc bị bắt buộc viết theo sự chỉ đạo một chiều. Rồi bởi khi họ lên đường, họ ra đi là một đi không trở lại? Nhưng tôi vẫn tin tình người vẫn có nơi họ, trừ phi họ là những “ông chính ủy”!

Nguyễn Lệ Uyên: Tôi nghĩ, một lần nữa, chúng ta nên khẳng định giá trị nhân văn, tự do trong các tác phẩm văn học ở giai đoạn này?

Trần Hoài Thư: Giá trị nhân văn và tự do thì 100% trong ý niệm, suy nghĩ, đường lối, khuynh hướng của người viết, nhưng khi nói đến tác phẩm thì tự do chỉ là tương đối. Chỉ có chăng là giá trị nhân văn bao trùm cả nền văn học miền Nam.

Bởi vì, muốn có tác phẩm ra đời thì phải xin kiểm duyệt. Mà một khi được cán bộ ghé mắt, với lưỡi dao, cái đục bên mình thì còn gì là tự do?

Tôi nghĩ, trong cuộc chiến vừa qua, có nhiều tác phẩm bị cấm xuất bản. Riêng bản thân tôi mỗi lần gởi bài, phải tìm đúng báo mà gởi. Những bài có vẻ “nhạy cảm” thì gởi cho tuần báo Khởi Hành là chắc ăn.

Tôi nghĩ chúng ta phải cám ơn tuần báo Khởi Hành. Nếu không có KH thì chắc chúng ta sẽ không bao giờ đọc được “Chiến Tranh VN và tôi” của Nguyễn Bắc Sơn.

Và cũng phải cám ơn Sở Kiểm Duyệt Vùng Bốn tại Cần Thơ, nếu không có nơi này thì chắc gì những thi phẩm của Nguyễn Bắc Sơn, hay của Linh Phương (Kỷ vật cho em) được giấy phép xuất bản, trong khi ở Saigon, chúng bị loại.

Tôi có một tác phẩm bị loại bởi Saigon vì nó viết về thời kháng chiến chống Tây. Đó là truyện vừa “Rặng núi ở bên kia sông” dựa vào chất liệu của gia đình tôi. Tiếc là bản thảo truyện đã bị thất lạc. Phải chi mà tôi biết sự dễ dãi của Sở Kiểm duyệt vùng bốn, thì tôi có một tác phẩm truyện dài đầu tay mà tôi rất ưng ý rồi.

Thật nực cười, trong khi các tác giả ngoài Bắc đang hì hục nặn óc đào trí để kích động thế hệ trẻ ngoài Bắc vào Nam giết “Mỹ Ngụy”, lại được ghi vào trong chương trình học ở miền Nam, thì một tác phẩm chỉ viết về một thời kháng Pháp, lại bị cấm.

Như vậy, giá trị của văn học miền Nam là nhân bản: đúng, nhưng tự do thì chỉ ở ngòi bút chứ không phải ở tác phẩm.

Trần Văn Nam: Câu hỏi của nhà văn Nguyễn Lệ Uyên bao hàm trong đề-nghị hồi đáp những “Giá Trị Văn Chương Về Mọi Mặt” của 20 năm Văn Học Miền Nam như thế nào? Đây là một đề nghị hồi đáp rất bao quát cả hai giai đoạn 1954-1963 và 1963-1975, không dễ nói hết trong đôi dòng cho mọi mặt gồm Thơ, Truyện Ngắn, Tiểu Thuyết, Kịch Bản, Biên Khảo… Vậy, tôi có đôi điều cố gắng vắn tắt thuộc về Sáng Tác mà thôi: trong giai đoạn Đệ Nhất Cộng Hòa (Miền Nam Việt Nam) thì nổi bật ở sáng tạo Hình Thức Văn Chương và Nội Dung thì nghiêng về Triết Lý. Về thơ có Thơ Tự Do, Thơ Tình Từ Ngữ Hiện Đại, Thơ Lục Bát Từ Ngữ Tân Kỳ, Thơ đề cập Siêu Hình hoặc Dục Tính. Truyện Ngắn và Tiểu Thuyết cũng nghiêng về Triết Lý Hiện Sinh. Hình Thức trong văn xuôi có lẽ chỉ có nhà văn Mai Thảo ở thể Truyện Ngắn. Kịch bản chỉ ở nhóm Quan Điểm với Vũ Khắc Khoan và Nghiêm Xuân Hồng. Kịch Nói chắc thuộc về Nghệ Thuật Trình Diễn Sân Khấu hơn là Văn Chương. Giai đoạn văn học này (1954-1963) được bàn đến nhiều. Giai đoạn Đệ Nhị Cộng Hòa 1963-1975, thời chiến tranh ác liệt: Truyện Ngắn và Thơ lưu dấu nhiều về cuộc chiến, Hiện Thực hoặc Cầu Nguyện Hòa Bình. Giai đoạn này có lẽ còn là một kho văn chương chưa khám phá hết.

Nguyệt Mai: Văn học miền Nam, như đã nói trên là một nền văn học nhân văn, tự do… Các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ có tự do sáng tạo. Văn chương nghệ thuật miền Nam không bị “mặc” bộ đồng phục. Văn chương nghệ thuật thể hiện tinh thần yêu đời, yêu người,.. không nhất thiết phải yêu lãnh tụ hay người cùng chung chí hướng.

Như nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương đã viết:

Người lính miền Nam đi đánh giặc
Ba lô mang theo hồn thơ văn

(Người lính làm thơ trên đỉnh núi – Nguyễn Phúc Sông Hương)

Họ không mang lòng hận thù, như nhà thơ Phan Xuân Sinh đã viết và ông còn bày cuộc rượu uống cùng người lính phương Bắc

“những thằng lính thời nay không mang thù hận
bạn hay thù chẳng có một lằn ranh
thôi hãy uống, mọi chuyện bỏ lại sau
nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
bày làm chi trò chơi xương máu
để đôi bên nuôi mầm mống hận thù
ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc”

(Uống rượu cùng người lính phương Bắc – Phan Xuân Sinh)

trong khi nhà thơ Linh Phương đã tha chết cho một nữ du kích bên kia chiến tuyến:

Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng
Xinh đẹp như con gái Sài Gòn
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân

(Hành quân – Linh Phương)

Chúng ta sẽ mỏi mắt mà không bao giờ gặp những vần thơ như thế của miền Bắc.

Có chăng là:

Máu kêu máu trả thù.
Súng đâu, anh em đâu.
Bắn nó thủng yết hầu,
Bắn tỉa nó dài lâu!”

(Xuân Diệu)

Về văn, ta có thể gặp trong Buổi Dừng Quân của Lê Bá Lăng hoặc những truyện ngắn của nhà văn Trần Hoài Thư (trong Truyện từ Văn – Thư Ấn Quán tái bản 2012) như Bệnh xá cuối năm, Về Thành, v.v…

Nguyễn Vy Khanh: Ngoài đặc tính nhân bản mà quí anh chị đã trình bày, nhân bản của con người hôm nay, ở đây với những vấn nạn, thân phận thực hữu, văn-học miền Nam còn mang thêm tinh thần khai phóng và đa nguyên. Mở cửa tiếp nhận (và gạn lọc) các khuynh hướng văn-học Âu Mỹ cả Nga, Đông Âu, Mỹ latinh, Nhật, v.v…, góp phần đa dạng hóa văn-học, tức không minh họa, một chiều như “văn-học” miền Bắc CS cùng thời. Khai phóng còn ở tinh thần làm văn-học, ở sáng tác, ở thái độ và chủ trương khám phá tài năng trẻ, mới. Nhờ vậy mà văn-học miền Nam có nhiều tiếng nói, già trẻ, địa phương, “chiếu” lớn, “chiếu” nhỏ, thiên hữu cạnh thiên tả, “hôm nay” cạnh “dân tộc”, v.v… và có những khuynh hướng tâm linh, tôn giáo, triết lý cùng tham gia trường văn trận bút. Văn-học miền Nam với những đặc điểm nhân bản, khai phóng, đa dạng, bên cạnh tinh thần dân-chủ, tự do, đã là môi trường thuận lợi cho việc phát triển tài năng văn-chương, và đã có những tài năng thật sự, những tác-phẩm lớn. Dĩ nhiên chiến-tranh và văn-hóa tính của con người Việt-Nam đã bôi đen một số công trình cũng như gây một số thiệt hại cho nền văn-học dân-tộc!

(Còn phần II, Kết)

(Nguồn: Thư Quán Bản Tháo, số 63, tháng 2 năm 2015)


Nguồn trích dẫn: Lần đầu tiên xuất hiện trên Tạp Chí Da Màu www.damau.org

“Da Màu chủ trương một diễn đàn văn chương không biên giới, một diễn đàn mở rộng cho mọi khuynh hướng sáng tác, mọi tác giả, mọi khai phá đúng nghĩa. Da Màu thúc đẩy sự cảm thông và chấp nhận những dị biệt bắt nguồn từ văn hóa, ngôn ngữ, phái tính, màu da, lịch sử, địa lý, chính kiến… qua các hình thái văn học nghệ thuật.”