Thiên Chúa giáo ở miền Nam Việt Nam, tay sai của đế quốc? (p2)

Van Nguyen-Marshall | Trà Mi dịch

Giới lãnh đạo và phong trào Thiên Chúa giáo chống cộng sản không phải là những công cụ bị động, bị chính phủ nước ngoài thao túng.

(Tiếp theo p1 và hết)

Các hoạt động chính trị Thiên Chúa giáo

Tuy nhiều hoạt động công của người Thiên Chúa giáo Việt Nam có khuynh hướng nằm trong lĩnh vực cứu trợ xã hội, họ cũng tham gia vào chính trị. Theo Allan Goodman, mặc dù Phật tử chiếm đa số ở Việt Nam, người Thiên Chúa giáo được coi là có tổ chức chính trị tốt hơn[46]. Dù có đồng thuận là người Thiên Chúa giáo là một khối chính trị ít phe phái hơn hơn khối Phật tử[47], thì họ cũng không phải là một phong trào thống nhất. Có rất nhiều phe nhóm cạnh tranh, xuất hiện vào giữa những năm 1960 trong một loạt các chính đảng và khối chính trị trong cơ quan lập pháp của Việt Nam. Một số phe nhóm theo gốc giáo phận, bắt nguồn từ sự trung thành với một linh mục nào đó. Đến năm 1965, có hai phe rất mạnh, cả hai đều chống cộng sản triệt để. Một khối đứng đầu là linh mục Hoàng Quỳnh, người đã lãnh đạo một giáo xứ Thiên Chúa giáo quan trọng tại Phát Diệm ở tỉnh Ninh Bình miền Bắc Việt Nam trước khi di cư vào nam. Phe kia do linh mục Trần Đức Huynh và Mai Ngọc Khuê lãnh đạo, cả hai đã lãnh đạo giáo xứ Bùi Chu tại Nam Định trước năm 1954[48]. Cũng có những phe phái của những người trí thức Thiên Chúa giáo có liên quan đến các tờ báo khác nhau, chẳng hạn như Sống ĐạoHành Trình[49].

(Từ trái) Các Linh mục Hoàng Quỳnh, Trần Đức Huynh, và Mai Ngọc Khuê. DCVOnline tổng hợp

Ngoài ra, như Peter Hansen cho rằng, sự khác biệt về văn hoá khu vực và giáo hội đã tạo ra sự phân chia giữa những người di cư miền Bắc và những người Thiên Chúa giáo sống ở miền Nam Việt Nam trước năm 1954. Hansen cho rằng những người di cư miền Bắc có khuynh hướng chống cộng và hăng hơn[50] Hơn nữa, không phải tất cả người Thiên Chúa giáo và linh mục Thiên Chúa giáo nào cũng chống lại cộng sản hay ủng hộ cuộc chiến tranh. Bà Nguyễn Thị Oanh, người tiên phong về công tác xã hội ở Việt Nam, đã viết trong hồi ký của bà về một số linh mục Thiên Chúa giáo cấp tiến, những người đã làm việc để thay đổi xã hội và là những người không ủng hộ những chính quyền Nam Việt Nam đang tham dự vào chiến tranh. Trong số linh mục cấp tiến đó, bà Nguyễn Thị Oanh đã đề cập đến linh mục Trương Bá Cần, một người di cư miền Bắc[51]. Điều này cho thấy ngay cả trong dân số di cư miền Bắc vẫn có những quan điểm chính trị khác nhau. Bà Trần Thị Liên cũng nhấn mạnh điều này trong một bài báo của bà trong đó bà đã thảo luận ngắn gọn về những người Thiên Chúa giáo nổi bật đối lập với Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính sách của ông. Các đối tượng Thiên Chúa giáo chống đối Tổng thống Diệm phần lớn là giới trí thức liên quan đến Nguyễn Mạnh Hà, cựu Bộ trưởng Kinh tế cho chính quyền lâm thời của Hồ Chí Minh năm 1945. Nhiều người đã cùng đì học tại Paris và Louvain, kể cả Nguyễn Đình Đầu, một trong những những người sáng lập ra tạp chí Sống Đạo. Những trí thức Thiên Chúa giáo này ủng hộ một giải pháp trung lập để chấm dứt chiến tranh và hô hào ủng hộ lập trường hoà giải hơn đối với Phật tử.

Một hệ quả của vai trò chính trị tích cực của người Thiên Chúa giáo Việt Nam là chính phủ Hoa Kỳ đã ráng sức chú ý để biết quan điểm và để giành được sự ủng hộ họ. Trong Hồ sơ chính của Bộ Ngoại giao Mỹ có rất nhiều thông tin liên lạc giữa giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo, đặc biệt là các linh mục hữu khuynh chống cộng với nhiều viên chức khác nhau của của toà Đại sứ. Các cuộc đối thoại đôi khi được giới chức Mỹ khởi xướng, vì muốn thăm dò quan điểm chính trị của người Thiên Chúa giáo. Giới chức Mỹ tìm hiểu quan điểm của các linh mục cấp cao như linh mục Hoàng Quỳnh, và họ cũng đã nói chuyện với các linh mục ít ảnh hưởng hơn trong một cố gắng tìm hiểu những người Thiên Chúa giáo “bình thường”[53]. Đôi khi những cuộc trao đổi này đã xảy ra theo lệnh của các linh mục Thiên Chúa giáo Việt Nam, vì muốn có sự ủng hộ của Hoa Kỳ trong nhiều vấn đề chính trị khác nhau. Một trường hợp xảy ra vào tháng 12 năm 1964, ngay sau khi quân đội bắt giữ một số thành viên của Thượng Hội đồng Quốc gia, một nhóm các nhà lãnh đạo dân sự nổi tiếng, có nhiệm vụ đưa Việt Nam tiến đến một chính phủ dân sự. Linh mục Mai Ngọc Khuê, và linh mục Vũ Đức Trinh đã gặp một viên chức toà Đại sứ Mỹ, Melvin Levine, để tìm hiểu về vị trí của Hoa Kỳ và để xác định mức độ tham gia của Hoa Kỳ liên quan đến vụ tấn công này. Trong khi đó, họ cũng đã cố gắng thuyết phục Levine rằng Viện Hoá Đạo là bình phong cho cộng sản[55].

Lm Nguyễn Quang lãm, Chủ bút nhật báo Tờ Xây Dựng. Nguồn: François Sully , 1965

Cũng có những trường hợp các linh mục gọi đến nhà các viên chức Hoa Kỳ để bày tỏ mối lo ngại hoặc thậm chí nói cho hả sự thất vọng của họ. Chẳng hạn, linh mục Nguyễn Quang Lãm, Chủ bút báo Xây Dựng, đã đến nhà trọ của nhân viên toà đại sứ Mỹ David Engel [sau này là nhân viên của Hội đồng An ninh Quốc gia và là người thông dịch cho Heny Kissinger trong những cuộc gặp riêng với Lê Đức Thọ ở Paris. – TM] để bày tỏ sự ông không hài lòng về việc tái bổ nhiệm Henry Cabot Lodge làm đại sứ Mỹ tại Việt Nam. Các ví dụ này cho thấy rằng thay vì chỉ là những đối tượng bị Hoa Kỳ thao túng, giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo chống Cộng chủ động tìm cách để giành được sự ủng hộ chính trị của Hoa Kỳ trong những vấn đề mà họ cảm thấy ảnh hưởng đến người Thiên Chúa giáo Việt Nam, như việc tái bổ nhiệm một đại sứ mà họ tin đã có một vai trò trong cuộc lật đổ và sát hại Tổng thống Diệm.

Ngoại giao trong yên lặng không phải là hoạt động duy nhất của người Thiên Chúa giáo Việt Nam. Họ cũng khai thác một cách có hiệu quả ở lĩnh vực công. Các tờ báo và các tạp chí đã phát triển mạnh ở miền Nam Việt Nam. Năm 1954, đã có 13 tờ báo Thiên Chúa giáo lớn ở đây. Một số đã không hoạt động quá một vài năm, và sau đó những tờ báo mới lại xuất hiện[57]. Giữa năm 1954 và 1963, có 17 tờ báo Thiên Chúa giáo xuất hiện và biến mất khỏi miền Nam Việt Nam[58]. Một số trong những tờ báo này có số độc giả lớn. Ví dụ, tờ Xây Dựng đã có lượng phát hành hàng ngày là 30.000 vào năm 1967. Trong số 27 tờ nhật báo ở Nam Việt Nam vào thời điểm đó, chỉ có một số ít có số phát hành lớn hơn[59]. Một nhật báo Thiên Chúa giáo khác, tờ Hòa Bình, có lượng phát hành là 20.000. Cả hai nhật báo Thiên Chúa giáo này đều đưa tin chính trị từ quan điểm Thiên Chúa giáo. Ví dụ, vào mùa hè năm 1964, tờ Xây Dựng kỷ niệm 10 năm di cư miền Bắc. Tờ báo đã công bố các bài tiểu luận và ảnh phản ảnh về cuộc di cư năm 1954 và ý nghĩa mà cuộc di cư này đã thay đổi cuộc sống của gần một triệu người miền bắc.

Ngoài việc sử dụng có hiệu quả các phương tiện truyền thông, người Thiên Chúa giáo Việt Nam cũng đã hành động qua các hội tự nguyện, chẳng hạn như các nhóm thanh niên và phụ nữ. Các nhóm thanh thiếu niên Kitô hoạt động tích cực trong cả hoạt động cứu trợ lẫn trong việc kích động chính trị. Họ thường được kêu gọi đi cứu trợ khẩn cấp cho nạn nhân bão lụt hoặc người tị nạn chiến tranh, như đã nói đến ở trên. Nguồn gốc của các hội đoàn Thiên Chúa giáo nằm trong thời thuộc địa của Pháp dưới ảnh hưởng của Giám mục Hồ Ngọc Cẩn. Thụ phong linh mục năm 1935, linh mục Hồ Ngọc Cẩn là giám mục thứ hai của Việt Nam. Ông là một người cổ động mạnh cho các hội đoàn giáo dân Thiên Chúa giáo, chẳng hạn như Hướng Đạo Thiên Chúa giáo, Tình nguyện viên Giáo hội, Tâm hồn Dũng cảm, Thanh Niên nông nghiệp Thiên Chúa giáo, Thanh niên Thiên Chúa giáo nông thôn, và Công nhân Thanh niên Thiên Chúa giáo[60].

Những người quyết chí ra đi để tìm một đời mới có tự do tín ngưỡng. Nguồn: báo Xây Dựng19-20 tháng 7 năm 1964.

Một nhân vật khác cũng cổ động cho các tổ chức giáo dân là giám mục Lê Hữu Từ, thụ phong linh mục từ năm 1945. Giống như các hội đoàn do giám mục Hồ Ngọc Cẩn đã cổ động, những hội đoàn của giám mục Từ hoạt động ở nhiều phạm vi khác nhau. Một số hội đã tập trung vào các vấn đề tâm linh, trong khi một số khác lại mang tính chất chính trị-xã hội. Trên thực tế, với tư cách là giám mục của Phát Diệm, giám mục Từ đã đảm nhiệm vai trò lãnh đạo dân sự cũng như nhiệm vụ của một người lãnh đạo tinh thần. Ông nổi tiếng vì đã lập một đội quân tự vệ ở Phát Diệm để bảo vệ giáo phận trước những tấn công của Việt Minh trong Chiến tranh Đông Dương đầu tiên. Ban đầu giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam đã ủng hộ Hồ Chí Minh và Việt Minh, đến năm 1946, mối quan hệ giữa Việt Minh và giáo hội Thiên Chúa giáo ngày càng xấu đi vì cả hai bên không còn tin nhau và quan hệ đã trở nên căng thẳng[62]. Cảm thấy bị đe dọa, hàng giáo phẩm Thiên Chúa giáo Việt Nam đã có lập trường chống cộng và khuyến khích giáo dân Việt Nam chống lại chủ nghĩa cộng sản. Do đó, trong Chiến tranh Đông Dương đầu tiên, giáo hội ở đia phận Phát Diệm đã đảm nhiệm vai trò của chính phủ và chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, và lo các hoạt động xã hội cho giáo dân[63]. Khuynh hướng hoạt động liên quan đến các vấn đề dân sự và xã hội của những tu sĩ Thiên Chúa giáo vẫn tiếp diễn ở Nam Việt Nam trong những năm 1960.

Vào giữa những năm 1960, đã có một số nhóm thanh niên Thiên Chúa giáo, nhiều nhóm trong số đó đặt cơ sở ở các trường đại học. Liên đoàn Sinh viên Công giáo [CSF] là một trong những hội có ảnh hưởng lớn. Chủ tịch của CSF là một sinh viên đại học chống cộng sản triệt để, Trần Ngọc Báu. Liên đoàn CSF gồm ba tổ chức nhỏ hơn: Đoàn Học sinh Công giáo (Thanh Sinh Công), Hiệp Hội Thánh Mẫu Sinh Viên, và Đạo Binh Đức Mẹ Sinh Viên. CSF còn có khoảng 500 sinh viên đại học ở Sài Gòn[64] Cũng có các hội đoàn liên kết với các phong trào Thiên Chúa giáo Quốc tế, chẳng hạn như Hiệp hội Công nhân Thanh niên Công giáo[65].

Năm 1974, Tổng Liên đoàn Sinh Viên Công giáo Việt Nam được thành lập với ông Nguyễn Văn Cường là Tổng Thư ký. Mục tiêu của tổ chức này là để phối hợp nhiều tổ chức thanh thiếu niên Thiên Chúa giáo và để đẩy mạnh việc mở rộng các hoạt động của họ. Lễ khai mạc của tổ chức này diễn ra với sự có mặt của nhiều người trong chính phủ cũng như giới lãnh đạo giáo hội, trong đó có Tổng Giám mục Sài Gòn, Nguyễn Văn Bình[66]. Tổ chức này có chi nhánh thành lập tại Huế, Nha Trang và Đà Lạt. Hoạt động của họ  gồm những sinh hoạt xã hội và công tác từ thiện; ví dụ, nhóm Đà Lạt đã tổ chức một dự án làm việc tại bệnh viện Tiểu Khu ở Đà Lạt. Sinh viên đã giúp lau chùi  và sửa chữa bệnh viện này. Tại Sài Gòn, họ tổ chức các buổi thuyết trình và các sinh hoạt xã hội[67].

Một số hội đoàn thanh niên đã xuất bản các tạp chí của riêng họ, như Thông CảmHiện Diện. Thành lập năm 1956, với Chủ tịch CSF Trần Ngọc Báu là Chủ bút. Tờ Thông Cảm tập trung nhiều hơn về chính trị-xã hội hơn là các vấn đề tâm linh. Dù có thông báo về các hoạt động tôn giáo và giáo dân Thiên Chúa, tạp chí này đã khao khát trở thành tiếng nói của sinh viên nói chung. Do Nguyễn Trần Quý làm chủ bút, tờ Hiện Diện được bốn hội sinh viên Thiên Chúa giáo đồng phát hành ở các trường đại học Huế, Đà Lạt, Sài Gòn và Cần Thơ từ năm 1970-1971. Các bài báo ở Hiện Diện thảo luận về giáo dục, vai trò của sinh viên trong xã hội, các phong trào học sinh ở Việt Nam và trên toàn thế giới, cũng như có một diễn đàn về thơ và văn xuôi. Tạp chí này có một quan điểm bảo thủ về chính trị, cách xa các nhóm sinh viên cấp tiến hơn, đặc biệt là Tổng hội Sinh viên Đại học. Trong một bài báo, Hiện Diện đã phỏng vấn một đoàn Thanh Niên Hoa Kỳ cho Công lý Hoà bình, có trụ sở tại Washington, D.C.; họ là những người muốn hòa bình “thực sự” cho Việt Nam, nhưng không phải hoà bình với bất cứ giá nào. Nói cách khác, Thanh Niên Hoa Kỳ cho Công lý Hoà bình không ủng hộ một nền hòa bình trong đó cộng sản cai trị miền Nam Việt Nam. Điểm đáng chú ý là Tổng hội Sinh viên Đại học Sài Gòn không gặp nhóm sinh viên Hoa Kỳ này[68].

Mặc dù có lập trường bảo thủ, nhưng Hiện Diện không phải là một cơ quan của chính quyền miền Nam. Trên thực tế, năm 1971, Hiện Diện bị phạt vì vi phạm luật kiểm duyệt và bị tạm thời đóng cửa[69]. Bài viết vi phạm là một bài bình luận triết lý của linh mục Nguyễn Văn Thành ở Huế, thảo luận vấn đề người Việt Nam có nên phản đối chủ nghĩa cộng sản hay không. Bài báo của linh mục Thành có lẽ đã vượt qua lằn ranh được chấp nhận khi ông cho rằng Marx đã có những hiểu biết có giá trị và chống lại chủ nghĩa cộng sản bằng súng và đạn không có hiệu quả. Hơn nữa, linh mục Thành cho rằng những lựa chọn giữa theo và chống chủ nghĩa cộng sản là quá hẹp và không thực tế[70]. Quan điểm phê phán và cởi mở này rõ ràng không được chính sách kiểm duyệt của chính phủ bỏ qua.

Ngoài các phương tiện truyền thông báo chí và hội tự nguyện, người Thiên Chúa giáo Việt Nam cũng đã xuống đường. Không để các đối thủ tôn giáo khác qua mặt, Phật tử, Kitô hữu đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh và biểu tình chính trị vào giữa những năm 1960. Vào tháng 1 năm 1964, CSF đã tổ chức hai cuộc biểu tình để phản đối việc Pháp ủng hộ chủ nghĩa trung lập như là một cách để chấm dứt cuộc nội chiến. Năm 1963, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đề nghị một cách giải quyết hòa bình ở Việt Nam, bắt đầu với việc rút quân Mỹ khỏi Nam Việt Nam. Vấn đề trung lập nổi lên vào tháng 1 năm 1964, khi tin đồn xoay quanh các thành viên của chính quyền của Tướng Minh đang cân nhắc đề nghị hòa bình của de Gaulle[71]. Đối với CSF, chủ nghĩa trung lập là một cách nói trại đi chủ trương để cộng sản chiếm miền Nam. Chủ tịch CSF Trần Ngọc Bầu đã nói chuyện với bí thư thứ nhất của toà Đại sứ Hoa Kỳ rằng nhiều người Thiên Chúa giáo cảm thấy rằng Tướng Dương Văn Minh và chính phủ của ông ta yếu, vô hiệu và sẽ không thể chống lại Bắc Việt[72].

Miền Nam Việt Nam là một hộp bùi nhùi vào năm 1964-1965 khi các cuộc đảo chính và chỉnh lý xẩy ra liên tiếp, chính phủ đến và đi chỉ trong vài tháng. Nhiều cuộc xuống đường và các cuộc biểu tình đã xảy ra ở các thành phố lớn là bằng chứng của sự thất vọng của người dân với sự bất ổn chính trị. Sau khi chính quyền của Tướng Minh bị lật đổ vào tháng 1 năm 1964, Tướng Nguyễn Khánh lên nắm quyền. Để xoa dịu giới lãnh đạo Phật giáo bất mãn – nhóm người đã cáo buộc Khánh vẫn còn giữ những người ủng hộ Tổng thống Diệm trong chính phủ của ông và các chính sách phân biệt đối xử với Phật tử – Tướng Khánh đã có một số hành động làm cho giáo dân tức giận[73]. Việc đầu tiên là xử tử ông Ngô Đình Cẩn, một trong những người em của Tổng thống Diệm vì đã là “lãnh chúa miền Trung”. Khánh cũng đã khởi tố Thiếu tá Đặng Sĩ, người đã ra lệnh cho quân đội miền Nam mở cuộc tấn công vào những người biểu tình Phật giáo vào tháng 5 năm 1963 [tại đài phát thanh Huế]. Vì Thiếu tá Sỹ là một người Thiên Chúa giáo, điều này làm cho người Thiên Chúa giáo và báo chí Thiên Chúa giáo chê trách chính phủ đã nối giáo cho khối Phật tử hung hăng. Tờ báo Xây Dựng tố cáo chính phủ đã đem Sỹ ra làm vật tế thần và cho rằng điều này tương tự như vụ Dreyfus ở Pháp[74] [Vụ Dreyfus là một cuộc xung đột chính trị-xã hội nghiêm trọng trong nền Đệ tam Cộng hòa Pháp vào cuối thế kỷ 19, xoay quanh cáo buộc tội phản quốc đối với đại úy Alfred Dreyfus, một người Pháp gốc Alsace theo Do Thái giáo. Cuối cùng Alfred Dreyfus được tuyên bố vô tội. – TM] Thách đố người Thiên Chúa giáo Việt Nam hơn nữa là quyết định của Khánh về việc bãi bỏ Nghị Định 10, trong đó xếp loại Phật giáo là một hiệp hội và không phải là một tôn giáo, một đạo luật mà các Phật tử cảm thấy đúng là một phân biệt đối xử với họ.

Để đáp lại những sự nhượng bộ của Tướng Khánh với Phật giáo và được sự khích lệ của hàng giáo phẩm Thiên Chúa giáo, có khoảng 35.000 người Thiên Chúa giáo đã tham dự cuộc biểu tình vào ngày 7 tháng 6 năm 1964 tại Sài Gòn[75] Theo một bản báo cáo của Đại sứ quán Hoa Kỳ, người biểu tình đã mang theo cả biểu ngữ tiếng Anh và tiếng Việt với khẩu hiệu như: Phản đối chủ nghĩa trung lập và chủ nghĩa cộng sản; Sẵn sàng chiến đấu cho quốc gia và Giáo hội; những yêu cầu Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ phải kiên quyết trong nỗ lực chống Cộng[76]. Cũng có những biểu ngữ chống Đại sứ Lodge, nhưng giới chức Mỹ cho đó là hành động của “những người khích động quần chúng”[77]. Các cuộc biểu tình và phản đối của cộng đồng Thiên Chúa giáo đã đạt được một số kết quả; đặc biệt, chính quyền miền Nam đã âm thầm hứa với người Thiên Chúa giáo rằng Sỹ sẽ được ân xá sau một thời gian yên ắng[78].

Sinh viên xuống đường trong một cuộc biểu tình chống Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam ở Saigon, năm 1965. Nguồn: Associated Press

Ngày 7 tháng 6, Cuộc xuống đường của giáo dân. Báo Xây Dựng, 9 tháng 6 năm 1964

Vào cuối mùa hè năm 1964, nhiều cuộc biểu tình nổ ra ở Nam Việt Nam vì Khánh đã cố gắng dùng vụ Vịnh Bắc Việt để tiến tới chế độ độc tài. Ngày 17 tháng 8, Khánh ban hành một hiến pháp mới, cho ông ta trở thành Tổng thống Nam Việt Nam. Điều này dẫn đến những cuộc biểu tình lớn; lần này Phật tử và sinh viên dẫn đầu. Tại thời điểm này, nhiều nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo ủng hộ hiến pháp mới của Tướng Khánh[79]. Linh mục Vũ Đức Trinh đã hoan nghênh nỗ lực của Tướng Khánh để giành lấy nhiều quyền lực hơn và kêu gọi chính phủ và Hoa Kỳ dùng sự kiện Vịnh Bắc Việt để có một chính sách cứng rắn chống lại Bắc Việt[80].

Làn sóng phản đối do Phật giáo dẫn đầu cũng gây căng thẳng giữa hai cộng đồng tôn giáo, đưa đến cuộc bạo động vào tháng Tám giữa các sinh viên Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Vào ngày 21 tháng 8, thanh niên Thiên Chúa giáo đốt trụ sở của một hội sinh viên Phật giáo. Trong cuộc trả đũa, ngày 24 tháng 8, một nhóm 10.000 Phật tử tấn công và đốt cháy một ngôi làng Thiên Chúa giáo ở ngoại ô Đà Nẵng[81]. Để dập tắt cơn giận, Khánh đã từ chức, nhưng ông vẫn có ảnh hưởng, góp phần vào sự chỉ đạo của chính phủ mới dưới quyền Thủ tướng Trần Văn Hương.

(Từ trái) Lm Hồ Văn Vui, PTT Nguyễn Lưu Viên, Cựu Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Xuân Oánh tại tang lễ ông Trần Văn Văn, 13/12/1966. Nguồn: Francois Sully.

Nhiệm kỳ của Thủ tướng Hương kéo dài đến tháng Giêng năm 1965, và Phan Huy Quát đã trở thành Thủ tướng dân sự mới vào tháng Hai. Với kế hoạch mở cuộc hoà đàm với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (NLF) của Thủ tướng Quát, giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo cùng với những người chống cộng sản đồng tình khác lại một lần nữa tấn công chính phủ này. Giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo cũng cáo buộc rằng Thủ tướng Quát chống lại Thiên Chúa giáo vì một số quyết định của ông. Chẳng hạn, Thủ tướng Quát bác bỏ vị tổng đốc Sài Gòn ủng hộ Thiên Chúa giáo, vị tư lệnh Hải quân người Thiên Chúa giáo, và một số sĩ quan Thiên Chúa giáo. Thủ tướng Quát cũng bổ nhiệm một số nhân vật vào nội các mà người Thiên Chúa giáo không chấp thuận[82]. Vào mùa hè năm 1965, những người Thiên Chúa giáo năng nổ, do hai linh mục Hoàng Hoàng Quỳnh và Hồ Văn Vui lãnh đạo, đã vận động chống lại Thủ tướng Quát[83]. Linh mục Mai Ngọc Khuê nói với giới ngoại giao ở Toà Đại sứ Mỹ rằng người Thiên Chúa giáo sẽ không chấp nhận bất cứ nhượng bộ nào ít hơn việc loại bỏ ông Quát khỏi chức vụ Thủ tướng[84]. Linh mục Vũ Đức Trinh được trích dẫn như sau, “Sự thù địch của Thiên Chúa giáo đối với Quát vượt quá sự hòa giải; Quát đã phải đi.”[85] Dường như giới lãnh đạo Kitô giáo đã thiết lập một quỹ đặc biệt để hỗ trợ các chi tiêu liên quan đến tốn phí cho cuộc đấu tranh sắp tới. Cuộc chạm trán dữ dội đã tránh được vì Tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ lật đổ chính phủ ông Quát vào tháng Sáu[86].

Sự khích động về chính trị của khối Thiên Chúa giáo tiếp tục bất cứ khi nào người Thiên Chúa giáo cảm thấy lợi ích của họ bị đe dọa. Vào mùa hè năm 1965, người Thiên Chúa giáo đã tổ chức các cuộc biểu tình chống lại Đại sứ Lodge, vừa được tái bổ nhiệm làm đại sứ Mỹ tại Việt Nam[87]. Vào mùa xuân năm 1966, người Thiên Chúa giáo lại tổ chức các cuộc biểu tình với quần chúng chống lại những gì họ tin là “sự đầu hàng cho trước tối hậu thư của Phật giáo” [88]. Giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo hiểu rõ về khả năng làm mất ổn định chính phủ khi họ huy động, sử dụng tất cả các nguồn lực họ đã có trong tay, kể cả những liên hệ với giới chức Mỹ và sự hỗ trợ từ các tổ chức Thiên Chúa giáo và hàng giáo phẩm của Hoa Kỳ.

Sau năm 1966, tình hình chính trị dường như tương đối ít biến động. Sự đàn áp tàn bạo của Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương Nguyễn Cao Kỳ đối với các cuộc biểu tình Phật giáo ở Huế và Đà Nẵng vào mùa xuân năm 1966 đã thành công trong việc dập tắt phong trào phản kháng Phật giáo. Tuy không dập tắt được sự chống đối của Phật giáo[89], nó đã chấm dứt được một số cuộc biểu tình nhiều ấn tượng trên đường phố của năm trước. Mức độ các cuộc biểu tình của giáo dân Thiên Chúa dường như cũng giảm đi. Các cuộc bầu cử tiếp theo và sự hình thành nền Cộng hòa thứ hai [1967-1975] đã mở ngỏ cho một số đối lập chính trị. Vào mùa thu năm 1966, các cuộc bầu cử đã được tổ chức để bầu Quốc hội Lập hiến, và năm tiếp theo là các cuộc bầu cử Thượng và Hạ viện, và cuộc bầu cử Tổng thống đã diễn ra[90]. Trong khi những cuộc bầu cử này đầy những vấn đề và vẫn là vấn đề tranh cãi là liệu cơ quan lập pháp có thực sự có quyền lực hay không thì các cuộc bầu cử đó đã chấm dứt những cuộc đảo chính chính lý kéo dài trong giai đoạn 1963-1965.

TNS Nguyễn Gia Hiến, thủ lãnh LL Đại Đoàn Kết trong cuộc tuần hành trên Đại lộ Thống Nhất ngày 5/11/1968. Nguồn: Francois Sully

Các chính khách Thiên Chúa giáo chắc chắn đã tận dụng cơ hội của các cuộc bầu cử để khẳng định mình bằng cách đưa ra ứng cử viên riêng của họ. Như đã đề cập trước đó, người Thiên Chúa giáo không thống nhất trong quan điểm chính trị của họ. Vào năm 1967, có hai đảng chính trị Thiên Chúa giáo cạnh tranh ảnh hưởng là Lực lượng Đại Đoàn kết và Khối Công dân Thiên Chúa giáo[91]. Hai bên đã thành công trong việc bầu được 13 dân biểu ở Hạ viện năm 1967[92]. Ngoài ra, 17 vị dân biểu Thiên Chúa giáo khác đã được bầu vào Hạ viện qua các tổ chức Thiên Chúa giáo địa phương, chứ không phải là ở cấp quốc gia. Ở Hạ viện, các đại diện Thiên Chúa giáo có khuynh hướng liên minh với các khối bảo thủ. Khối Độc Lập mà Goodman mô tả là “phe bảo thủ nhất và ổn định nhất”, gồm phần chính là những người Thiên Chúa giáo miền Bắc của Lực Lượng Đại Đoàn Kết và Khối Công Dân Thiên Chúa giáo[93]. Có ảnh hưởng mạnh vào năm 1965, khối Độc lập chống lại chủ nghĩa cộng sản và phản đối bất cứ nỗ lực nào muốn thương lượng với MTDTGPMN (NFL) và Bắc Việt Nam. Khối Độc lập cũng phản đối mạnh, chống lại bất kỳ nỗ lực nào để nối lại tình hữu nghị với Phật tử[94].

Giáo dân ủng hộ Tộng thống Nguyễn Văn Thiệu, 5/11/1968. Nguồn: Francois Sully

Trong khi giới bảo thủ chính trị và người ôn hòa có thể thi đua để tạo thay đổi qua những cuộc bầu cử, giới hoạt động cấp tiến hơn vẫn cố gắng để nói lên mối quan tâm của họ bằng những phương tiện khác nhau. Các bài viết đối lập từ cả người Thiên Chúa giáo và người không phải là giáo dân tiếp tục né tránh bị kiểm duyệt và sách nhiễu của chính phủ. Vào đầu những năm 1970, một số tài liệu Thiên Chúa giáo đã áp dụng một lập trường quan trọng hơn về chiến tranh và các chính sách của Mỹ[95]. Trong khi chủ nghĩa chống Mỹ trỗi dậy trong khối những người không cộng sản vào cuối những năm 1960, thì vào năm 1970, nó trở nên phổ biến hơn. Việc Mỹ sử dụng thuốc khai quang miền Nam Việt Nam đã trở thành một vấn đề nóng trong làng báo Việt Nam. Các tờ báo Thiên Chúa giáo như Tin SángHòa Bình, cùng với các tờ báo thế tục, bắt đầu tập trung vào vấn đề này để bày tỏ sự phản đối tổng quát chống lại Hoa Kỳ[96].

Chính phủ Mỹ không phải là mục tiêu duy nhất bị chỉ trích vào những năm 1970. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, cầm quyền trong giai đoạn 1967-1975 cũng được giới truyền thông soi kỹ. Một số soi rọi đến từ các bài báo Thiên Chúa giáo. Một tạp chí Thiên Chúa giáo đối lập nổi tiếng Đối Diện, thành lập vào năm 1970, đã chỉ trích Tổng thống Thiệu nặng nề. Do linh mục Dòng Chúa Cứu Thế và giáo sư triết học Nguyễn Ngọc Lan phát hành, tờ Đối Diện kêu gọi hòa bình và tập trung vào các vấn đề như vi phạm nhân quyền trong nhà tù, tham nhũng của chính phủ và buôn lậu ma túy trong giới lãnh đạo quân đội[97]. Đến năm 1972, tờ Đối Diện bị chính phủ đóng cửa, và linh mục Chân Tín đã bị bắt nhiều lần. Mặc những sách nhiễu đó, linh mục Chân Tin vẫn tiếp tục chú ý đến những vi phạm trong hệ thống nhà tù bằng cách đẩy mạnh “Ban Cải Thiện Chế Độ Lao tù” ở miền Nam[98].

Năm 1974, Tổng thống Thiệu phải đối phó với sự phản đối của một linh mục Thiên Chúa giáo Dòng Chúa Cứu Thế khác, linh mục Trần Hữu Thanh, người dãn đầu phong trào chống tham nhũng chống lại Tổng thống Thiệu[99]. Linh mục Thanh tố cáo ông Thiệu “chống cộng đồi truỵ vì mục đích cá nhân và tham nhũng”[100]. Ông cáo buộc vợ của Tổng thống Thiệu, bà Nguyễn Thị Mai Anh, đứng đầu một tổ chức từ thiện của phụ nữ, lạm dụng quỹ từ thiện. Thiệu trả lời những lời cáo buộc này bằng cách đóng ba tờ báo đăng bản cáo trạng linh mục Thanh. Vì linh mục Thanh là một người chống Cộng triệt để và có quan hệ với trường Võ bị của Việt Nam Cộng hòa, thách thức của ông đối với Tổng thống Thiệu quả rất đáng sợ – ông Thiệu không thể đơn giản bác bỏ linh muc Thanh như là một người bị lạc hướng vì tuyên truyền của cộng sản. Phong trào Chống Tham nhũng của linh mục Thanh cùng với những hành động của Tổng thống Thiệu và tình hình chiến tranh tàn phá đã góp phần vào việc làm Tổng thống Thiệu mất sự ủng hộ của Thiên Chúa giáo vào năm 1974. Tuy nhiên, mất sự ủng hộ này không còn nhiều ý nghĩa vào thời điểm đó vì Nam Việt Nam đã nhanh chóng sụp đổ và chiến thắng của phe cộng sản chỉ còn là vấn đề thời gian.

Linh Mục Trần Hữu Thanh quet lửa châm thuốc lá bên cạnh cựu Phó TT NGuyễn Cao Kỳ trong buổi họp báo, Mar 27,1975, yêu cầu TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức trong khi quân CSVN đang tiến về miền Nam. Nguồn: AP Wirephoto

Kết luận

Bài biên khảo  ngắn này viết tổng quát vê một số hoạt động xã hội và chính trị của người Thiên Chúa giáo ở miền Nam Việt Nam cho thấy người Thiên Chúa giáo ở đây có tổ chức và chủ động trong việc cố gắng gây ảnh hưởng đến các sự kiện xã hội và chính trị thời đó. Nhiều dòng tu Thiên Chúa giáo và các thiện nguyện viên đã làm việc lặng lẽ để cứu trợ nhân đạo trong chiến tranh; trong nỗ lực này họ đã làm việc nhiệt tình với các cơ quan chính phủ nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ để có được quỹ và sự giúp đỡ về mặt tổ chức. Các tổ chức tôn giáo này cũng hợp tác chặt chẽ với chính phủ Việt Nam Cộng hoà để giúp trẻ mồ côi và người tị nạn. Khi lệ thuộc vào nhà nước và chính phủ và những cơ quan nước ngoài, người Thiên Chúa giáo Việt Nam đã hiểu rõ về các hệ lụy tiêu cực về mặt chính trị trong mối quan hệ của họ. Cũng giống như nhiều người Việt Nam không cộng sản, các tổ chức cứu trợ Thiên Chúa giáo không có nhiều lựa chọn và phải chấp nhận viện trợ nước ngoài và của nhà nước. Trên thực tế, các tổ chức từ thiện của Thiên Chúa giáo Việt Nam đã cố gắng hết sức để thu hút viện trợ của chính phủ và viện trợ nước ngoài vì cứu trợ trong chiến tranh đã được coi là quan trọng trong việc xây dựng và duy trì một miền Nam không cộng sản. Do đó, Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam đã khuyến khích các hoạt động nhân đạo trong khối giáo dân và lên khung nó không chỉ là nhiệm vụ tôn giáo mà còn là trách nhiệm yêu nước của công dân.

Giáo dân và tu sĩ Thiên Chúa giáo cũng không ngại tham gia vào chính trị. Giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo sử dụng báo chí, các hội đoàn tự nguyện, và các cuộc biểu tình công khai để khẳng định lập trường của họ trong lĩnh vực công. Trong những năm 1964-1966, người Thiên Chúa giáo xuống đường biểu lộ mối quan tâm của họ về sự cái trị không hiệu quả, phản đối những chính sách được cho là chống lại Thiên Chúa giáo, và thái độ mềm mỏng đối với chủ nghĩa cộng sản của chính phủ miền Nam. Trong giai đoạn 1966-1967, người Thiên Chúa giáo đã tham gia rất nhiều vào chính trị bầu cử, để bảo đảm người Thiên Chúa giáo có đại diện ở Thượng và Hạ viện. Họ tiếp tục làm việc đằng sau hậu trường và dưới ánh đèn sân khấu để bảo vệ những gì họ cho là quan tâm của Thiên Chúa giáo. Vì nhiều người trong giới lãnh đạo Kitô giáo tích cực chống lại cộng sản và là những người ủng hộ chiến tranh, giáo dân Thiên Chúa như một khối đã trở thành những con rối của Hoa Kỳ và các chính phủ miền Nam. Tuy nhiên, như luận văn này cho thấy rằng, trong những người Thiên Chúa giáo có nhiều quan điểm khác nhau, kể cả những người ủng hộ một giải pháp chính trị và trung lập để chấm dứt chiến tranh. Luận văn này cũng cho thấy mặc dù cùng chia sẻ những mục tiêu và quan điểm chính trị tương tự với chính phủ Hoa Kỳ, giới lãnh đạo và phong trào Thiên Chúa giáo chống cộng sản không phải là những công cụ bị động, bị chính phủ nước ngoài thao túng. Ngược lại, họ là những người vận động linh hoạt và những chính trị gia đã bỏ nhiều công sức để tạo ra liên minh chiến lược hầu đạt được mục tiêu chính trị mà họ đã xác định: duy trì một miền Nam không cộng sản và không tạo ra sự lệ thuộc vào quyền lực thuộc địa mới của Mỹ.

Hết.

Tác giả Van Nguyen-Marshall là Phó Giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Trent, Peterborough, ON, Canada. Bà đã viết và đăng về từ thiện và lòng nhân đức tại Việt Nam thời thuộc địa và đã nghiên cứu về căn cước và đời sống hội đoàn của tầng lớp trung lưu tại Nam Việt Nam trong những năm 1960-1970.

© 2017 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: Van Nguyen-Marshall, “Tools of Empire? Vietnamese Catholics in South Vietnam”. Un article de la revue Journal of the Canadian Historical Association. Volume 20, Numéro 2, 2009, p. 138–159. All rights reserved / Tous droits réservés © The Canadian Historical Association / La Société historique du Canada, 2010.
DCVOnline minh hoạ.

Đọc thêm: Hòa Giang Đỗ Hữu Nghiêm, “Chung quanh nhà nguyện Mai khôi. Nhân kỷ niệm 195-2005”.

[46]Allan E. Goodman, Politics in War: The Bases of Political Community in South Vietnam [Cambridge, MA: Harvard University Press, 1973], 61.
[47]Ibid., 61. See also Herring, 132–3.
[48]Confidential US State Department Central Files [hereafter SDCF], reel 26, 2pp, Melvin Levine, Embassy Officer, Memorandum of Conversation with Hoang Ngoc Khan, Saigon, 22 April 1965.
[49]Ibid.
[50]Hansen, 290–2.
[51]Nguyen Thi Oanh, “Hoi ky cong tac xa hoi” [memoir of social work], Ho Chi Minh City, unpublished, 2003, 20–1. I would like to thank Ann Marie Leshkowich for sharing this valuable memoir with me.
[52]Tran Thi Lien, “Les Catholiques Vietnamiens dans la République du Vietnam,” 65–9.
[53]In a recorded conversation with Father Doan Thanh Dien, Lundy noted that while Dien was just a parish priest with little influence, he might be more representative of the Catholic population. SDCF, reel 14, 2pp, W. A. Lundy, Memorandum of Conversation with Father Doan Thanh Dien, Honai, Bien Hoa, 29 October 1964.
[54]Topmiller, 24–6.
[55]SDCF, reel 44, 4pp, Melvin Levine, Memorandum of Conversation with Fathers Mai Ngoc Khue and Vu Duc Trinh, Saigon, 22 December 1964.
[56]Ibid., reel 55, 2pp, Memorandum of Conversation with Father Nguyen Quang Lam, publisher of Xay Dung, 19 July 1965.
[57]Hansen, ftn. 26, 9.
[58]Duong Kieu Linh, “Bao chi Sai Gon thoi ky 1954–1963,” [Ph.D. diss., The University of Social Sciences and Humanities, Ho Chi Minh City, 1999], 223–4. In this dissertation the author listed 18 Catholic dailies, but one of them is actually a Buddhist monthly entitled Vietnamese Buddhism. A special thanks to Nu-Anh Tran for sending me a copy of this dissertation.
[59]Huynh Kim Thoai, “Hien trang bao chi Viet Nam” [The Situation of Vietnamese Newspapers and Journals], [M.A. thesis, National Institute of Administration, Saigon, 1967], 147.
[60]Charles Keith, “Annam Uplifted: The First Vietnamese Catholic Bishops and the Birth of a National Church, 1919–1945,” Journal of Vietnamese Studies 3, no. 2, [2008]: 149.
[61]Hansen, 70.
[62]Chu, 158.
[63]Ibid.
[64]SDCF, reel 29, 3pp, Barney Taylor [First Secretary of Embassy] to the US Ambassador in VN, “Catholic Student Leader’s Activities and Views on Neutralism,” Saigon, 15 January 1964.
[65]Nguyen Tran Quy, “Hien trang cac tap the thanh nien Viet Nam” [The situation of youth associations in Vietnam], [M.A. thesis, National Institute of Administration, Saigon, 1969], 15.
[66]B?an Tin [Bulletin of the General League of Catholic University Students] 2 [1974]: 1.
[67]Ibid., 5.
[68]Hien Dien 3 [15 September 1970]: 6–8.
[69]“Hien Dien bi bat” [Hien Dien was caught], ibid., 11 [June 1971]: 6–11.
[70]Nguyen Van Thanh, “Chong cong hay khong?” [To oppose or not to oppose communism?], ibid., 10 [May 1971]: 17–23.
[71]Herring, 121 and 133.
[72]SDCF, reel 29, 3pp, Barney Taylor [First Secretary] of the US Ambassador in Vietnam, “Catholic Student Leader’s Activities and Views on Neutralism,” Saigon, 15 January 1964.
[73]Topmiller, 17–18.
[74]Xay Dung [2 June 1964], 1 and 4; [4 June 1964], 1 and 4.
[75]Topmiller, 18.
[76]SDCF, reel 36, 1p, US Embassy Telegram, 7 June 1964. The telegram also reported that 50,000 protesters took part.
[77]Ibid.
[78]Ibid., reel 36, 2pp, Melvin Manfull, Counselor of Embassy for Political Affairs, conversation with Father Hoang Quynh, Saigon, 17 July 1964.
[79]See “Y kien chung toi,” Xay Dung editorial [20 August 1964], 1.
[80]SDCF, reel 30, 3pp, Charles Floweree, Embassy Officer, Memorandum of Conversation with Father Vu Duc Trinh, Northern Refugee Catholic priest and author. Saigon, 19 August 1964.
[81]Hansen, 291; Topmiller, 19.
[82]Robert Shaplen, The Lost Revolution [New York: Harper & Row, 1965], 343–5.
[83]Thanh V. Nguyen, “Vietnamese Buddhist Movements for Peace and Social Transformations, 1963–66,” [Ph.D. diss., Saybrook Graduate School and Research Center, San Francisco, 2006].
[84]SDCF, reel 29, 2pp, Telegram from Embassy in Saigon to the State Dept., 5 June 1965, #4069.
[85]Ibid., Telegram from Embassy in Saigon to the State Dept., 5 June 1965, #4071.
[86]Ibid.
[87]Ibid., reel 26, 3pp, Melvin Levine, Memorandum of Conversation with Father Vu Duc Trinh, 20 July 1965.
[88]Topmiller, 62.
[89]Ibid., 147–50.
[90]Goodman, 38–47.
[91]Ibid.
[92]Ibid.
[93]Ibid., 153.
[94]Ibid., 155.
[95]Neil Jamieson, Understanding Vietnam [Berkeley: University of California Press, 1995], 338–44.
[96]Ibid.
[97]Ton That Manh Tuong, “Chan Tin: A Non-Violent Struggle for Human Rights in Vietnam,” Viet Nam Generation Journal Online, 5 [March 1994]: 1–4, <http://www2.iath.virginia.edu/sixties/HTML_docs/Texts/Scholarly/Tuong_Chan_Tin_bio.html>[viewed 26 January 2010].
[98]Ibid; William Turley, The Second Indochina War: A Short Political and Military History, 1954–1975 [Boulder, CO: Westview Press, 1986], 168.
[99]Phillip Davidson, Vietnam at War: The History 1946–1975 [New York and Oxford: Oxford University Press, 1988], 751.
[100]Dennis Duncanson, Government and Revolution in Vietnam [New York and London: Oxford University Press, 1968], 167.