Bùi Tín (1927-2018)

DCVOnline

Bùi Tín là một trong nhiều tác giả đã gởi bài và trả lời phỏng vấn đăng trên trang báo Đàn Chim Việt/DCVOnline (từ danchimviet.com đến dcvonline.net). Trong số những đề tài quan trọng đối với người Việt trong nước cũng người Việt tị nạn cộng sản ở nước ngoài mà tác giả Bùi Tín thường bình luận là nhân vật Hồ Chí Minh và cuộc thảm sát Mậu Thân ở Huế.

Bùi Tín (1927 – 11 tháng 8, 2018 tại Paris) còn có bút danh Thành Tín là một người Việt bất đồng chính kiến với chế độ Việt Nam hiện tại; từng là đảng viên với hơn 40 năm tham gia Đảng cộng sản Việt Nam và 37 năm góp mặt trong Quân đội Nhân dân (Đại tá là chức vụ sau cùng), ông đã được giao phó những trách nhiệm quan trọng như Phó tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân và báo Nhân Dân, cũng như Tổng Biên tập báo Nhân dân Chủ Nhật. 

Sau chiến tranh, vỡ mộng với chế độ cộng sản, năm 1990 nhân dịp sang Pháp dự hội hàng năm của báo L’Humanité (Nhân Đạo, báo của Đảng Cộng sản Pháp), Bùi Tín quyết định đào nhiệm và xin tị nạn tại Pháp, với lý do là để tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền theo cách của ông. Từ một đảng viên/cán bộ tuyên truyền nhiều bản lĩnh Bùi Tín trở thành một người bình luận săc bén, có ảnh hưởng, chỉ trích chế độ nặng nề. Ông cho rằng đảng Cộng sản đã đánh mất lý tưởng cách mạng, che giấu những sai lầm của Hồ Chí Minh và chỉ núp sau cái bóng của ông Hồ; lãnh đạo đảng thi kiêu ngạo và tham những, thối nát

Bùi Tín là một trong nhiều tác giả đã gởi bài và trả lời phỏng vấn đăng trên trang báo Đàn Chim Việt/DCVOnline (từ danchimviet.com đến dcvonline.net). Trong số những đề tài quan trọng đối với người Việt trong nước cũng người Việt tị nạn cộng sản ở nước ngoài mà tác giả Bùi Tín thường bình luận là nhân vật Hồ Chí Minh và cuộc thảm sát Mậu Thân ở Huế. Nếu theo dõi những phát biểu và ý kiến của ông về hai chủ đề này từ những năm đầu thập niên 1990 đến giai đoạn cuối đời (2018) người đọc/nghe sẽ thấy có một sự thay đổi tiệm tiến trong quan điểm của ông. Nói cách khác, có một “diễn biến hòa bình” rõ rệt trong sự suy nghĩ của tác giả Bùi Tín suốt gần 30 năm sống lưu vong. 

Sinh năm 1927 gần Hà Nội, Bùi Tín là một trong 10 anh chị em, ông có hai con — con gái ở Hà Nội và con trai ở Canada. Ông qua đời ngày 11 tháng 8, 2018, vì suy thận, trong bệnh viện ở ngoại ô Paris vào sáng ngày thứ Bảy. Bạn bè ông cho biết tang lễ sẽ được tổ chức ở Pháp.

Đàn Chim Việt họp mặt với tác giả và thân hữu, 5 tháng 11, 2006, Montreal, Quebec, Canada. Bùi Tín đưng hàng trước, thứ 2 từ bên phải. Nguồn: DCVOnline.

DCVOnline sẽ lần lượt đăng lại hai bài viết của Bùi Tín, “Lịch sử chọn đường vòng” và “Tâm tình với tuổi trẻ về Hồ Chí Minh”

Bài “Lịch sử chọn đường vòng” đã được Đàn Chim Việt (báo giấy) trích và biên tập từ cuốn “Mặt Thật” của tác giả Bùi Tín, Nxb Saigon Press, 1993, đăng trên số 5/2000. Bài viết này đã được chọn đăng lại lần thứ hai, trong Tuyển tập Đàn Chim Việt, DCV Inc. phát hành năm 2006, trang 309-319. Bài “Tâm tình với tuổi trẻ về Hồ Chí Minh” đã đăng trên danchimviet.com nhân ngày 19/05/2006. Bài viết được trích từ một tác phẩm khác của nhà báo Bùi Tín với tựa đề “Tâm tình với tuổi trẻ Việt Nam” do nhà xuất bản Tủ Sách Thời Sự Việt Nam và Thế Giới, 6433 Northanna Drive, Springfield, Virginia, USA phát hành năm 2006.

Bùi Tín (1927 – 11 tháng 8, 2018). Nguồn: LAURENT HUET/AFP

 


Lịch sử chọn đường vòng

Bùi Tín

Ông Hồ Chí Minh được coi là người truyền bá mạnh mẽ chủ nghĩa Mác Lênin, rồi cả chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao ở Việt Nam. Ông làm công việc tuyên truyền, giới thiệu các chủ nghĩa này với tất cả lòng hăng hái, tận tâm, coi đó là cẩm nang, là vũ khí, lý luận và tư tưởng, là chân lý dẫn đến độc lập, giải phóng, hạnh phúc ở Việt nam, ở Đông Dương và ở khắp mọi nơi.

Ông đúng hay sai? Việc ông làm là công hay tội? Hay là ông đúng bao nhiêu phần, sai bao nhiêu phần? Công nhiều hơn tội hay là tội nhiều hơn công? Đây là vấn đề rất rộng lớn, khá phức tạp, không thể có câu trả lời đơn giản, gọn ghẽ được. Đây cũng là vấn đề lịch sử có liên quan đến vận mệnh của đất nước, đến đánh giá quá khứ, hiện tại và nhìn tới tương lai của nước Việt Nam ta.

Đây cũng là vấn đề đang có nhiều chính kiến khác nhau nhất, thậm chí trái ngược nhau nhất. Ở trong nước, việc đánh giá lại ông Hồ Chí Minh là điều cấm kỵ một cách tuyệt đối. Vì ông là chỗ dựa cuối cùng để những người lãnh đạo duy trì con đường “xã hội chủ nghĩa”, “giữ vững ổn định chính trị” có nghĩa là họ không bị mất quyền lãnh đạo.

Họ vin cớ là chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội rồi thì không thể có được con đường nào khác nữa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được đóng đinh vào cương lĩnh Đảng, điều lệ Đảng và Hiến pháp 1992 rồi. Nhà báo Kim Hạnh (Báo Tuổi Trẻ) chỉ giới thiệu về cuốn sách của giáo sư sử học Daniel Hemery, nói rằng hồi trẻ ông Hồ có thể có vợ ở Trung Quốc, đã lập tức bị mất chức tổng biên tập. Ông Bùi Đình Kế, cục trưởng cục lưu trữ quốc gia viết một bài tương tự trên báo Nhân Dân Chủ Nhật cũng bị khiển trách rồi “cho về hưu”. Lập luận của Ban Văn Hoá và Tư Tưởng là: tất cả những chuyện kể trên đều là bịa đặt bậy bạ với ý đồ xấu xa phá hoại đất nước. Ông Hồ được cả thế giới trước sau ngưỡng mộ, nếu không thì sao năm 1990, UNESCO (Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên Hợp Quốc) lại tổ chức kỷ niệm long trọng ở khắp các lục địa, coi ông là một nhà văn hoá kiệt xuất của nhân loại? Họ giấu rất kỹ cuộc tranh luận gay go hồi ấy ở phương Tây về vấn đề này, dạo đó cuối cùng việc tổ chức kỷ niệm ở UNESCO đã diễn ra chiếu lệ, và chỉ có những cuộc kỷ niệm ở Hà Nội, ở La Habana (Cuba), sau đó ở New Delhi (Ấn Độ).

Bộ máy tuyên truyền ở trong nước vẫn giữ nguyên sự đánh giá chính thống về ông Hồ: nhân vật anh hùng, sáng suốt, khai quốc công thần, vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam, mẫu mực về đạo đức, nhà cách mạng tuyệt vời, người Mác Xít Leninít kiên định và sáng tạo, người chiến sỹ quốc tế vô sản kiểu mẫu, nhà lý luận, nhà triết học, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo dục…kiệt xuất của dân tộc, vượt qua tất cả các anh hùng trước đây của dân tộc ta. Theo họ đây là vấn đề không cần, không thể đưa ra bàn cãi…

Ở phía những người quốc gia có ý kiến cực đoan nhất thì sự đánh giá về ông Hồ là hoàn toàn tiêu cực. Đó là một con người đầy thủ đoạn, giả dối, độc ác, tàn bạo, là người đã chủ trương thủ tiêu mọi đối thủ chính trị ở các đảng phái chính trị khác, như Viêt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân… là một nhân viên trung thành phục vụ cho đệ tam quốc tế, là người chịu trách nhiệm chính trong vụ đàn áp văn học Nhân Văn Giai Phẩm, trong những sai lầm của cải cách ruộng đất… Có người còn cho rằng ông đã lấy thơ của người khác nhận là của mình để in tập Thơ Trong Tù (Ngục Trung Nhật Ký). Có người còn tố cáo rằng chính ông Hồ Chí Minh đã mật báo cho mật thám Pháp bắt cụ Phan Bội Châu ở Hương Cảng… Cũng có người còn phỏng đoán một cách tự tin rằng chính ông Hồ Chí Minh đã tự vẽ kiểu lăng Hồ Chí Minh cho bản thân mình để tồn tại mãi với hậu thế như một ông vua!

Tôi nghĩ rằng đánh giá một con người trước hết cần khách quan và công bằng, không nên dự đoán và suy diễn. Cũng cần tước bỏ những huyền thoại được thêu dệt thêm do tệ sùng bái các nhân. Ông Hồ là một con người, không phải là một vị thánh, nên có ưu điểm, có khuyết điểm, có thể có sai lầm nữa, là điều tự nhiên và tất yếu.

Trong Hoa Xuyên Tuyết tôi đã nói lên một vài ý kiến của tôi về ông Hồ. Lập tức ở Hà Nội, bộ máy tuyên truyền được lệnh lên án tôi là “đã dấn thêm một bước trên con đường phản bội vì đã xuyên tạc về bác Hồ”. Hồi ấy tôi mới chỉ nhận xét rằng hồi 1945, mới 55 tuổi, ông tự nhận là cha già dân tộc và xưng bác với đồng bào, trong đó có cả cụ già 70, 80 tuổi, là không ổn. Rằng ông viết về bản thân mình, ký tên là Trần Dân Tiên và T. Lan, tự khen mình là vĩ đại hơn Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, tự nói về mình rằng: “Bác Hồ rất khiêm tốn, người không bao giờ muốn nói đến bản thân mình…” thì thật là mỉa mai đến buồn cười!

Trên báo chí hải ngoại, có người lên án tôi là còn ca ngợi ông Hồ Chí Minh là người yêu nước thì không thể chấp nhận được, dù cho rằng yêu nước theo kiểu của ông ấy. Họ cũng bác bỏ ý kiến của tôi cho rằng ông Hồ đã hy sinh trong cuộc đấu tranh và sống giản dị, rằng tuy dựa vào Liên Xô và Trung Quốc, ông vẫn giữ thái độ tự chủ trong lãnh đạo chiến tranh. Không nghe theo lời Mao và Lâm Bưu khuyên là ở miền nam chỉ nên duy trì chiến tranh du kích, chỉ nên đánh cỡ đại đội, nếu đánh cỡ tiểu đoàn, trung đoàn trở lên sẽ bị hoả lực của không quân và pháo binh Mỹ diệt hết! Ông cũng không nghe theo lời Liên Xô khuyên là nên hạ súng, tìm giải pháp hoà bình vì Việt Nam không thể chống nổi Mỹ về mặt quân sự, như lời nguyên soái Kulikov tư lệnh khối Varsovie nhận xét rằng: Việt Nam mà cứ một mực đánh Mỹ thì đất nước tan tành hết, rồi đến cái quần đùi cũng không có mà mặc! Họ một mực cho rằng ông Hồ bất cứ lúc nào cũng chỉ là tay sai ngoan ngoãn, trung thành và mù quáng của đệ tam quốc tế, của Liên Xô và Trung Quốc, không thể khác được.

Một bài báo trong nước lên án tôi sao lại gọi ông Hồ bằng ông, không gọi bằng bác như mọi người trong nước thường gọi. Còn báo ở nước ngoài thì lại phê phán tôi là sao còn gọi ông Hồ bằng Chủ tịch Hồ Chí Minh! Tôi nghĩ gọi ông Lê Lợi, ông Quang Trung thì có gì là phạm thượng? Thì có gì là sai? Ông Hồ chẳng đã làm chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà từ 1945 đến tận 1969 đó sao?

Đối với đồng bào, tuổi trẻ ở trong nước đã đến lúc cần tìm hiểu về ông Hồ một cách tỉnh táo, khách quan, không a dua, không định kiến, bằng cái đầu có suy nghĩ và đánh giá của chính mỗi người. Cần khắc phục tệ sùng bái cá nhân rất nặng nề của bộ máy tuyên truyền chính thống có khuynh hướng đề cao một cách tuyệt đối ông như thần thánh, nhưng thực tế lại là hạ thấp ông, làm hại uy tín của ông. Mặt khác cũng không thể thoá mạ ông một cách cường điệu, tàn nhẫn và bất công. Nếu quả thật ông có người yêu, có vợ khi còn trẻ thì có gì là xấu? Nếu có cô Biere (Pháp), cô Tuyết Minh (Trung Hoa), cô Vera Vasiliera (Nga)… là bạn, người yêu, là vợ thì cũng là tự nhiên, bình thường, có thể là nét đẹp nữa, vì ông cũng có trái tim như mọi người chứ. Chỉ có kẻ đạo đức giả mới muốn coi ông là thánh.

Đầu năm 1993, nhà báo Mỹ Sophie Quinn Judge từ Moscow qua Paris để về Hoa Kỳ tìm gặp tôi, kể rằng bà đã được xem một số tài liệu lưu trữ của Quốc Tế Cộng Sản nói về ông Hồ. Bà cho biết Nguyễn Thị Minh Khai từng khai lý lịch của mình rằng chồng tên là “Lin”, tên của Nguyễn Ái Quốc hồi ấy. Hơn nữa bà được xem một bức thư của Hà Huy Tập năm 1935 nói rằng Minh Khai là vợ của Nguyễn Ái Quốc. Những tư liệu lịch sử này cần xác minh thêm…

Đến ngày sinh nhật 19/5/1890 cũng chắc chắn là không đúng. Vậy thì cũng nên xác định lại ngày nào, hoặc năm nào là đúng hoặc gần đúng nhất. Chúng ta được biết khi ông viết đơn xin vào trường thuộc địa hồi 1911 thì ông đã ghi năm sinh là 1892, khi khai ở Sở Cảnh sát Paris ngày 20 tháng 9 năm 1920 thì ông ghi sinh ngày 15 tháng Giêng năm 1894. Đến khi ông khai tại Đại Sứ Quán Liên Xô ở Berlin tháng 6 năm 1923 thì ông lại ghi ngày sinh 15/2/1895; bà Thanh chị cả ông khi khai tại Sở Mật Thám Trung Bộ năm sinh của ông là 1893, còn ông Khiêm anh của ông thì khai đó là năm 1891, trong khi các hương chức xã Kim Liên quê hương ông thì khai rằng ông sinh vào tháng Ba năm Thành Thái thứ Sáu (theo Âm Lịch), nghĩa là tháng Tư năm 1894. 1890 hay 1891? Hay 1892, 1893 hoặc 1894? Hay là 1895? Thật rối mù! 6 năm!

Mà năm nào cũng có chứng cớ. Ngày chết của ông bị các nhà lãnh đo hồi ấy “điều chỉnh” chậm lại một ngày do nhu cầu tuyên truyền, đã được trả lại cho sự thật là ngày 2/9/1969. Họ cứ muốn cưỡng lại sự thật, theo cố tật của họ, để không cho phép ông được chết vào ngày Quốc khánh!

Tôi rất mừng đã góp phần đưa toàn bộ di chúc của ông ra ánh sáng và nhân đó ngày mất của ông được xác định lại. Nhà sử học Trần Quốc Vượng rất thích khám phá những điều mới mẻ trong các chuyến đi “thâm nhập thực tế” mà ông gọi là các chuyến “điền dã” (thăm đồng quê). Ông đã sưu tầm được ở vùng làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An quê ông Hồ nhiều chuyện đáng chú ý. Các bậc cao tuổi trong làng kể lại rằng ông Nguyễn Sinh Huy (sau lấy tên là Nguyễn Sinh Sắc), thân sinh của ông Hồ, không phải thuộc giòng máu mủ của họ Nguyễn Sinh, mà là con của một ông đồ nho, đỗ cử nhân, quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, cùng tỉnh Nghệ An, tên là Hồ Sĩ Tạo. Ông cử Tạo đến nhà họ Hà, ở làng Sài cùng trong xã chung cư với làng Sen (Kim Liên) để học. Nhà này có cô gái tên Hà Thị Hy, đàn hay, múa đẹp, lại ế chồng. Ông cử Tạo đã có vợ con, song trai tài gái sắc ở chung một nhà nên cô Hy có chửa. Ông chủ nhà liền nảy ra “giải pháp” đánh tiếng để gán con gái cho một ông nông dân làng bên goá vợ. Thế là cô Hy trở thành vợ kế của ông nông dân Nguyễn Sinh Nhậm và sinh ra anh Nguyễn Sinh Sắc, về sau là thân sinh của ông Hồ. Họ Nguyễn Sinh phát từ đó, vốn chỉ biết cày ruộng, thất học, cậu bé Nguyễn Sinh Sắc học khá, lại được bố thật là ông cử Tạo kèm cặp gởi gắm nên về sau đỗ phó bảng, làm quan. Nhờ “gien” của đôi trai tài gái sắc ấy mà cậu bé Nguyễn Tất Thành cũng học hành khá sau này.

Việc ông Nguyễn Tất Thành rồi Nguyễn Ái Quốc lấy họ Hồ để trở thành Hồ Chí Minh có thể là do ông nhớ đến nguồn gốc thật của ông chăng? Tất nhiên với thái độ giáo điều, sùng bái cá nhân, những người lãnh đạo bảo thủ hiện nay ở trong nước không thể chấp nhận sự phát hiện mới mẻ của nhà sử học. Ông Trần Quốc Vượng lại có tính bộc trực, có gan nói và viết những điều mình nghĩ, dù những điều ấy không hợp với khẩu vị các nhà lãnh đạo, nên hiện ông bị kềm chặt sau chuyến đi làm việc ở trường đại học Cornell, Hoa Kỳ, vào năm 1991. Họ vẫn mắc bệnh dị ứng sự thật.

Cần trả lại cho mỗi con người cái giá trị đích thật của họ. Tô vẽ người này, bôi nhọ người khác theo yêu cầu chính trị là việc làm không lương thiện. Về ông Hồ, có khá nhiều vấn đề cần xác minh cho thật rõ, thật đúng. Hiện nay tư liệu ở Pháp cũng như những kho lưu trữ ở Moscow đang được mở ra cho các nhà nghiên cứu, cho công chúng… Gần đây nhà sử học Pháp Daniel Hemery đăng trên tạp chí Tiếp cận Châu Á (Approches Asia) số tháng 11 năm 1992 một bài báo dài: Hồ Chí Minh đến năm 1911, với một phụ lục gồm 21 bản tư liệu (thư của Nguyễn Sinh Huy gửi Khâm sứ Trung Kỳ; thư của Nguyễn Tất Thành gửi Khâm sứ trung Kỳ, công văn của Sở Mật thám Trung Kỳ, lời khai của trưởng làng Kim Liên, lời khai các hương chức Kim Liên, lời khai của ông Nguyễn Tất Đạt (anh của ông Hồ), khẩu cung của bà Nguyễn Thị Thanh (chị ông Hồ), ghi chép của Sở Mật thám Nam Bộ, điện của toàn quyền Đông Dương…

Tháng 1/1993, ông Hemery đưa tôi xem bài báo nói trên và nói: “tôi là giáo sư về sử, nhà nghiên cứu lịch sử, với thái độ khoa học là tìm ra sự thật, viết lên sự thật.” Ông vừa được tổng thông Mitterand mời tham gia đoàn nhà nước viếng thăm chính thức Việt nam, do sự am hiểu sâu sắc lịch sử Việt Nam của ông. Trở về, ông kể với tôi rằng đã “xông” đến tận nhà thăm nhà văn Dương Thu Hương ở Hà Nội. Bài báo dựa vào những tư liệu xác thực cho thấy: năm 1911, khi anh thanh niên Nguyễn Tất Thành xuống tàu xuất dương, anh chưa nghĩ rằng đó là cuộc đi tìm đường cứu nước, như các nhà viết sử Việt Nam bị ép nói vậy. Bằng cấp anh có trong tay chỉ là bằng Certificat (tiểu học) sau đó anh mới học năm thứ hai bậc trung học, tương đương lớp 9 phổ thông hiện nay. Anh vào trường Dục Thanh, Phan Thiết, làm trợ giáo là do sinh kế trước hết. Bi kịch gia đình đang tác động mnh mẽ đến anh. Ông Nguyễn Sinh Huy vốn nghiện rượi rất nặng khi còn ở Huế, bà Thanh kể rằng hồi ấy cứ lên cơn thèm rượu và say rượu là bà bị ông đánh bằng tay và bằng roi rất tàn nhẫn. Tháng 5/1909, ông được bổ đi Tri huyện Bình Khê ở Bình Định; khi 47 tuổi, nửa năm sau đó, tháng Giêng năm 1910, ông bị thi hành kỷ luật rất nặng do đã đánh anh nông dân Tạ Đức Quang bằng roi và gậy, đến mức làm cho anh này chết! Sở Mật thám mở cuộc điều tra: vụ ngộ sát sảy ra khi ông Sắc say rượu! Hội Đồng Nhiếp chính ở Huế lúc ấy quyết định tước mọi quyền Tri huyện của ông và hạ xuống 4 bậc trong ngành quan lại. Bi kịch này hết sức nặng nề, làm đổ vỡ giấc mộng danh vọng của ông Tri huyện bị thu hồi ấn tín. Ông đi học vài tháng rồi vào Lộc Ninh (Nam Bộ) đi làm “surveillant”, giám thị ở đồn điền cao su, sống ngoài lề của bộ máy cai trị, trong niềm lo âu, tủi nhục và thiếu thốn. Ông đã đệ đơn gửi Khâm sứ Trung kỳ để xin việc, nói rõ ông đang sống trong cảnh túng bần. Anh Nguyễn Tất Thành, vào tháng 12/1912 còn gởi cho Khâm sứ Trung kỳ bức thư yêu cầu thương hại đến hoàn cảnh túng bần của cha anh và “xin ngài Khâm sứ” tìm cho một công việc gì đó ở Huế cho cha anh, dù là thừa biện ở các Bộ hoặc làm Giáo thụ cũng được, với lời lẽ như sau:

“Tôi cầu mong Ngài vui lòng cho cha tôi được nhận một công việc như Thừa biện ở các Bộ, hoặc là Huấn đo hay Giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quí của Ngài.

“Với hy vọng rằng lòng tốt của Ngài sẽ không từ chối lời yêu cầu của một người con chỉ còn biết dựa vào Ngài để làm nghĩa vụ của mình, xin Ngài Khâm sứ nhận những lời chào kính cẩn của người dân con và kẻ tuỳ thuộc chịu ơn của Ngài.”

Ký tên: Paul Tất Thành – New York, ngày 15 tháng 12 năm 1912.

Nguyên văn tiếng Pháp:

“…j’ose même désirer vous prier de bien vouloir lui accorder un emploi comme Thừa biện des Bộ ou Huấn đo, Giáo thụ, àin qu’il puisse se gagner sa vie sous votre haute bien veillance.
“En espérant que votre bonté ne refuserait la demande d’un enfant qui, pour remplir son devoir, n’a l’appui que vous et en attendant votre réponse, veuillez agréer, Monsieur le Resident Supérieur, les respectueuses salutations de votre filial peuple et reconnaissant serviteur.

“Paul Tất Thành – New York le 15 Décembre 1912.”

Cho nên khi xuống tàu xuất dương, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đang ở tâm trạng phẫn chí và bế tắc, việc học dở dang, ông thân sinh bị “đứt gánh” đột nhiên trên đường hoạn lộ, anh ra đi để cứu mình trước hết, tìm việc, tìm nghề và phần nào để giúp gia đình (anh viết thư từ New York đề ngày 3/1/1912 ký tên Paul Tất Thành yêu cầu Khâm sứ Trung kỳ chuyển một số tiền mọn 15 đồng bc Đông Dương đến cha anh, và Toà Khâm sứ đã làm theo nguyện vọng của anh). Vừa đến Pháp, đã nộp đơn xin vào Trường Thuộc Địa (15/9/1911, từ Marseille) và bị từ chối. Bộ Thuộc địa cho rằng: số được nhận vào quá ít, phải dành cho con những quan lại cao cấp bản xứ! Và phải có học vấn khá. Sau đó anh đi làm bồi tàu, có lúc mơ sẽ làm maitre d’hotel (chủ khách sạn hay chủ nhà hàng ăn). Trong đơn từ, anh dùng những công thức như: “xin Ngài nhận ở đây sự biểu hiện lòng trung thành của một kẻ tôi thuộc…”, có lúc còn tự nhận là người hàm ơn “công khai hoá của Mẫu quốc”… Phải đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918, tư tưởng chính trị của Nguyễn Tất Thành mới hình thành rõ nét, sau khi tiếp xúc với những người thuộc Đảng Xã Hội, sau đó là Đảng Cộng sản Pháp.

Những người viết sử ở Hà Nội theo sự chỉ đạo của đảng, đã tô vẽ ông Nguyễn Sinh Sắc thành một nhân vật cách mạng kiên cường chống thực dân Pháp nên bị mất chức, là cố tình bịa đặt sai sự thật. Việc nêu lên chuyện anh Nguyễn Tất Thành vì thấy cách mạ ng bị bế tắc do chủ trương Đông Du và cải lương thất bại nên ra đi để tìm đường cứu nước là cố nói lấy được nhằm tô vẽ lãnh tụ đã giác ngộ cách mạng từ lúc còn rất trẻ, cũng là việc sai sự thật lịch sử. Việc nói ông ra đi ở bến Nhà Rồng rồi lập nhà kỷ niệm tại đó, cũng là việc làm khiên cưỡng vì hồi ấy nhà thương chính chưa được xây dựng và tàu thường cập bến ở dưới xa nơi đó.

Đã đến lúc phải trả về cho lịch sử những nét chân thật của nó, không thêm bớt, vẽ vời, trái với khoa học và rất có hại, người ta sẽ nghi ngờ cả những điều có thật.

Một vấn đề rất lớn về ông Hồ Chí Minh: ông là người yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc hay là một người cộng sản? Theo tôi ông vốn là một người yêu nước. Ngay cả khi ông chọn Quốc tế Ba cũng là do lòng yêu nước, ông từng nói: Quốc tế Hai, Quốc tế Hai rưỡi hay Quốc tế Ba? Tôi theo Quốc tế Ba vì chỉ có Quốc tế Ba mới có lập trường rõ ràng là ủng hộ việc giải phóng các nước thuộc địa. Về sau dần dà ông trở nên cán bộ của Quốc tế cộng sản Ba, ông bị ảnh hưởng lớn của Stalin và Mao Trạch Đông, đích của ông là giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước và đích cao hơn nữa là cách mạng vô sản ở Đông Dương, ở Châu Á và toàn thế giới.

Công lao của ông trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là rõ ràng. Khó ai có thể bác bỏ hay phủ nhận được. Ông từng bị tù, bị truy nã, ông từng hy sinh tận tuỵ cho sự nghiệp ấy. Ông có nếp sống giản dị dù là Chủ tịch nước, ông không hề giành cho ông những đặc lợi. Ông đã góp phần quan trọng, có thể nói là công đầu để nước Việt Nam độc lập được sự tôn trọng của thế giới. (Có người sẽ cãi lại là độc lập gì? Chỉ là tay sai cho Nga Xô và Trung cộng! Đó là một ý kiến cần chú ý, nhưng theo tôi không thể vì thế mà phủ nhận nền độc lập của nước ta được.)

Bi kịch của cả dân tộc, cũng là của ông Hồ là chính ông đã đi đầu trong việc đưa chủ nghĩa Mác Lênin, nhất là chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao vào Việt Nam, trong đó chủ nghĩa Stalin là đậm nhất! Vì chủ nghĩa Mác Lênin được đưa vào rất ít khi bằng những tác phẩm của Mác và Lênin mà đã ít nhiều đã bị Stalin hoá rồi, thông qua cách giải thích, tóm tắt, giới thiệu của Stalin (Lịch sử đảng Cộng Sản Bôn-sê-vích Liên Xô; những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác với vấn đề dân tộc, chủ nghĩa Mác với vấn đề ngôn ngữ…) và một loạt sách giáo khoa được biên soạn trong thời kỳ Stalin. Tai hoạ của Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH) hiện thực, dù cho ở Liên Xô hay Đông Âu, ở Trung Quốc hay Việt nam, Cuba, Triều Tiên… đều từ đó mà ra. Cho rằng cứ thay đổi quan hệ sản xuất là sẽ có CNXH, hợp tác hoá vội vàng, đưa vào quốc doanh mọi cơ sở, ngành nghề, thủ tiêu quyền tư hữu, quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh, công nghiệp hoá gấp gáp, lấy công nghiệp nặng làm trung tâm, chỉ đạo thô bạo đời sống văn học, coi hiện thực XHCN là bút pháp duy nhất… đều là học theo Stalin cả.

Cho đến đảng độc quyền lãnh đạo, không cho phe phái xuất hiện trong đảng, giữ một khối thống nhất nguyên khối (monolithique) đều mang nhãn hiệu Stalin (thời Lênin, còn cho phép tồn tại các nhóm, các phe phái đa số, thiểu số trong đảng, có tỷ lệ khác nhau trong đảng). Và cái tệ đảng là nhà nước, đồng nhất với nhà nước, đảng là luật pháp, coi thường luật pháp, đất nước không có trường luật đúng nghĩa , không có Bộ tư pháp độc lập… đều là từ Stalin và Mao mà ra. Rồi cái tệ sùng bái các nhân dẫn đến đảng và chính quyền là của một nhóm lãnh đạo, là của một nhóm lãnh tụ duy nhất, sự chuyên quyền độc đoán ngự trị, việc trấn áp, bắt bớ lan tràn cũng là theo Stalin và Mao mà ra. Rồi học theo Trung Quốc trong nhảy vọt lu bù, trong cái cách ruộng đất, trong đàn áp văn nghệ sỹ và trí thức qua vụ Nhân văn giai phẩm đều là do mù quáng tuân theo tư tưởng Mao Trạch Đông. Cùng với Ban lãnh đạo Đảng cộng sản, ông Hồ chịu trách nhiệm chính về những thất bại nặng nề trong xây dựng CNXH hiện thực. Dù cho ông có thiện chí, có mong muốn tốt đi nữa, nhưng thực tế đã dẫn đến những khổ ải của nhân dân, sự đổ vỡ của nền kinh tế, sự lạc hậu triền miên của xã hội, tình trạng nghèo đói và bất công của số đông… Đó là những vấn đề manh nha từ khi ông còn sống, và ngày càng nặng nề, trầm trọng thêm từ khi thống nhất đất nước năm 1975 đến nay.

Còn hiện nay, những người lãnh đạo đang lập nên cơ quan nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh để quảng cáo cho tư tưởng này, làm cơ sở cho sự “đổi mới”! Vẫn là kiểu làm khiên cưỡng, gán ép, tô vẽ rất có hại. Chính họ trước đây cho rằng tư tưởng Mao Trạch Đông là đủ. Chỉ có tác phong Hồ Chí Minh thôi. Họ chỉ định ông Phạm Văn Đồng, ông Võ Nguyên Giáp… tham gia làm cái việc tán tụng lạc lõng này! Vì thực ra ông Hồ Chí Minh ít có chính kiến riêng về đường lối chính trị.

Đến tinh thần dân tộc trong tiếp thu chủ nghĩa Mác Lê Nin như ông Tito ở Nam Tư, ông Hồ cũng không có. Ông tuyệt đối tin tưởng vào đường lối và kinh nghiệm của Liên Xô, không một chút phê phán, với thái độ giáo điều. Ông chỉ có ưu điểm là trong chỉ đạo chiến tranh cùng với một số người lãnh đạo khác trong đảng không mù quáng theo lời khuyên của Mao là chỉ nên tiến hành chiến tranh du kích ở miền Nam và cũng không theo sức ép của Liên Xô là phải ngừng chiến tranh để tìm một giải pháp thương lượng nhằm chung sống hoà bình bằng mọi giá, còn trong xây dựng, ông hoàn toàn buông lỏng, không chút tự chủ. Kết luận trên đây rất quan trọng, nó nhắc nhở cho những ai sẽ cầm quyền ở nước ta là chớ có đi theo mù quáng chủ thuyết này hay chủ thuyết khác, coi chế độ ở đây hay ở nơi kia là mẫu mực để noi theo! Ta phải tìm hiểu kỹ mọi kinh nghiệm để tạo nên một chế độ thích hợp nhất với ta, với biện pháp, chính sách, đường đi nước bước của ta, có tính đến sự hoà nhập thế giới. Đó là kinh nghiệm đau xót nhất, từ thực tế mấy chục năm qua, phải làm mở to mắt bất cứ ai sẽ cầm quyền ở nước ta.

Cách mạng Việt Nam từ mấy chục năm trước đây có thể đi theo một con đường khác với con đường đã trải qua hay không? Đây là một giả thuyết của một số người. Con đường mà Thái Lan, Indonesia, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Singapore đã đi rất khác ta. Vậy mà họ đạt đến độc lập, phát triển thịnh vượng, tuy rằng đối với họ đang có vấn đề dân chủ được đặt ra. Chuyện đã qua rồi rất khó đặt vấn đề trở lại với chữ “nếu”.

Để mở rộng đường suy nghĩ, xin trích vài đoạn dưới đây từ bức thư của cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh gởi cho anh thanh niên Nguyễn Ái Quốc ngày 18/02/1922. Lúc này cụ Phan Chu Trinh vừa 50 tuổi, hoạt động ở Marseille. Cụ từng bị tù ở Côn Đảo từ 1908 -1911, ra khỏi tù cụ sang Pháp, viết cuốn sách Đông Dương Chính Trị Luận nêu rõ đường lối đấu tranh không bạo động, tố cáo chế độ thực dân hà khắc và hệ thống quan lại tham nhũng trước dư luận Pháp. Cụ chủ trương đường lối đấu tranh lấy văn hoa, giáo dục, dân trí làm nền tảng lâu dài, theo phương châm: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, có nghĩa là mở mang sự hiểu biết của đông đảo nhân dân, làm cho khí thế khí phách của nhân dân phấn chấn lên và làm cho cuộc sống được cải thiện (hậu đây có nghĩa là làm cho dày, cho hậu, cho hùng hậu, chứ không phải là cuối cùng là dân sinh, như một số sách dịch nhầm). Chủ trương này bị NAQ cho là thủ cựu.

Bức thư có đoạn viết:

“Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan (là Phan Văn Trường, luật sư nổi tiếng về trình độ hiểu biết và lòng yêu nước hồi ấy) đàm đạo nhiều việc; mãi tới bây giờ anh cũng không ưa gì cái phương pháp Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi lại không thích cái phương pháp Ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội (ngồi ở nước ngoài kéo người tài từ trong nước ra, đợi thời cơ để trở về gấp) của anh, và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hoà mà anh đã nói với Phan là tôi là hạng hủ nho thủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tý nào cả… Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế, tôi nói thế chẳng hề dám ví anh là kẻ Tử mã lục thạch (bốn chữ này nhà học giả Hoàng Xuân hãn có ý kiến dịch là “Ngựa non háu đá”, theo cách nói ví von hóm hỉnh thường thấy ở cụ Phan Tây Hồ).”

Bức thư còn viết thêm:

“Từ xưa đến nay, từ Á sang Âu, chưa có một người nào làm cái việc như anh. Anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới dăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp Ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội; cứ như cái phương pháp ấy thời anh viết bài đăng báo trương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi!… Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài tài năng của anh khác gì công dã tràng!”

Cần nhớ rằng cụ Phan Chu Trinh cùng một lứa thi cử với Nguyễn Sinh Huy, thân sinh của Nguyễn Ái Quốc. Cụ Phan cũng đỗ phó bảng. Cụ hơn Nguyễn Ái Quốc 22, 23 tuổi. Trong lá thư trên, rõ ràng cụ phê phán Nguyễn Ái Quốc về phương pháp cách mạng. Tuy cụ không chấp gì việc Nguyễn Ái Quốc nhận xét cụ là bảo thủ, là thủ cựu, là hủ nho và cải lương, cụ vẫn một mực can ngăn Nguyễn Ái Quốc chớ chủ quan cho phương pháp của mình là đúng. Cụ còn phê phán Nguyễn là xưa nay, từ Á sang Âu, chưa ai làm cái việc như Nguyễn làm. Cái cách làm ấy chỉ phí công! Cụ còn ví von nói, ngựa non háu đá! Cụ một mực khẳng định con đường của cụ: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh là con đường đúng đắn cần theo.

Con đường của cụ Phan chủ trương gần giống như con đường của các ông Gandhi và Nehru ở ấn Độ. Đó là con đường bất bạo động, con đường nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân, mở mang học vấn, cổ động tinh thần đấu tranh, đồng thời tranh thủ các thế lực dân chủ và tiến bộ ở chính quốc. Cụ rất ưa dùng hình ảnh đông tay vỗ nên bộp , nghĩa là giác ngộ đồng bào, hướng dẫn đông đảo đồng bào đồng tâm đấu tranh, nhiều người cùng vỗ tay sẽ tạo nên cảnh hưởng ứng rộng lớn, có uy lực buộc kẻ thù nhượng bộ.

Nhiều nhà trí thức có lý khi đạt vấn đề rằng: nếu như hồi ấy đường lối đấu tranh đại loại như của cụ Phan đề xướng được chấp nhận và thành hiện thực thì đất nước ta rất cỏ thể đã khác hẳn hiện nay, vừa có độc lập thống nhất, có dân chủ và phát triển, có thể tránh được chiến tranh, và tránh bị cỗ máy nghiền mà chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao đã đưa đến thông qua đảng cộng sản với biết bao hậu quả nặng nề mà chưa biết đến bao giờ mới khắc phục được…

(Trích từ “Mặt Thật”. Nhà xuất bản Turin Press 1994).

Đôi lời kết của người dẫn chuyện

Thật đáng tiếc là lịch sử vẫn hay đi đường vòng. Đáng tiếc hơn nữa là những dự cảm xấu của cụ Phan Chu Trinh về con đường “Cách Mệnh” mà Nguyễn Ái Quốc theo đuổi đã trở thành hiện thực. Con đường đó không những chỉ phí công (công dã tràng!) mà còn phí máu của nhân dân (hơn 3 triệu người chết, hàng chục triệu người bị thương, đất nước tan hoang bại hoại, nhân dân vừa được giải phóng khỏi ách ngoại xâm liền bị bắt trở lại làm nô lệ cho chính một nhóm “đồng bào ưu tú” cùng máu đỏ da vàng, nhân danh đảng và tư tưởng Mác-Lenin ngoại lai… Một phần tư thế kỷ đã trôi qua sau chiến tranh mà đất nước vẫn không ngóc đầu lên được…). Trong bối cảnh như thế việc xem xét lại tư tưởng của các nhà ái quốc tiền bối là viêïc làm có ý nghĩa trong việc gạn đục khơi trong, tìm hiểu, thảo luận thẳng thắn.. đặng góp phần tìm ra đường đi nước bước hợp lý cho dân tộc trong tương lai, tránh được những sai lầm của tiền nhân, đưa dân tộc ra khỏi vũng lầy hiện nay.

Để làm rõ hơn nữa con đường, chủ trương cách mạng duy tân của cụ Phan và các đồng chí của cụ, chủ trương cách mạng bạo động tai hại của Nguyễn Ái Quốc… cũng như tinh thần yêu nước, cách mạng và dũng khí của thế hệ cha anh ấy, xin dẫn thêm ở đây một tài liệu mới tìm thấy ở Kho lưu trữ Quốc gia Pháp (đường France Bourgeois, Paris): Báo cáo của Mật thám (của Édouard, một người việt hợp tác với Pháp, trà trộn trong giới Việt kiều yêu nước. Ký hiệu lưu trữ: F7-13405) ghi lại khá chi tiết một cuộc trao đổi giữa Nguyễn ái Quốc, Phan Chu Trinh và mấy người khác tối 19/12/1919 tại Paris, 6 Villa des Gobelins, phản ánh nhận thức và quan điểm rất khác nhau của hai người.

Dưới đây là toàn văn:

BÁO CÁO MẬT

“Ngày hôm qua, thứ sáu, hồi 9 giờ tối, tôi gặp Nguyễn Ái Quốc ở nhà anh ta, 6 Villa des Gobelins. Ở đó tôi đã gặp Khánh Ký, Lê Văn Sao. Sau khi nói chuyện với Quốc khoảng nửa giờ, tôi vui mừng thấy Phan Chu Trinh bước vào; ông ta từ Bordeaux về mà không báo trước cho các bạn…

Trao đổi với Phan Chu Trinh, Khánh Ký về tình hình chính trị ở VN, Nguyễn Ái Quốc nhận xét:

“Các bác nhiều tuổi hơn và từng trải hơn tôi, cả hai báo tin rằng dân An Nam sẽ có thể xin và nhận được cái gì đó ở chính phủ. Một nền giáo dục! Hẳn là các bác sẽ nói như vậy. Đồng bào ta đã từng đòi hỏi điều đó từ 60 năm nay, và họ đã nhận được gì? Quả là quá ít. Về sự tham gia của người An Nam vào việc quản lý xứ sở! Người ta sẽ nói với các bác rằng các người chưa có đủ trình độ sử dụng quyền đó. Thế đấy! Thế đấy! Vậy thì các bác còn yêu cầu gì nữa? Tại sao hai mươi triệu đồng bào chúng ta không làm gì cả để buộc chính phủ phải trả lại cho chúng ta quyền làm người. Chúng ta là người, chúng ta phải được đối xử như con người. Tất cả những ai không muốn coi chúng ta như đồng loại với họ, bình đẳng với họ, đều là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta không thể chung sống với họ trên cùng một trái đất”

Phan Chu Trinh tiếp lời:

“Anh Quốc, cho phép tôi lưu ý anh rằng anh còn rất trẻ, người ta thấy rõ là anh còn sôi nổi quá. Anh muốn hai mươi triệu đồng bào ta phải làm gì khi trong tay không có vũ khí để chống lại vũ khí khủng khiếp của người Âu. Tại sao chúng ta lại tụ sát vô ích để chẳng đi đến một kết qủa nào cả. Phải chăng tốt hơn là chúng ta đòi hỏi một cách mềm mỏng nhưng rất kiên quyết với lòng kiên nhẫn, nhất là những quyền mà phẩm cách con người cho phép chúng ta đòi hỏi. Việc đầu tiên mà chúng ta đòi hỏi ở chính phủ là một nền giáo dục mạnh mẽ nâng lên trình độ cao nhất (bao gồm nền giáo dục sơ đẳng bắt buộc), vì chỉ riêng giáo dục đã có thể cho phép chúng ta vươn lên nhanh chóng ngang trình độ văn minh của các dân tộc Tây phương. Tấm gương Nhật Bản còn đó để làm hậu thuẫn cho chúng ta… Tại sao họ có thể đạt tới trình độ hùng cường đó để đặt nước Nhật ngang hàng với những cường quốc lớn nhất ở châu Âu? Thật là đơn giản, vì những người cầm đầu nước họ đã làm những việc mà họ cho là ích lợi để đẩy họ đi tới một cách tích cực trên bước đường tiến bộ. Và biện pháp họ dùng chủ yếu là phát triển nền giáo dục của dân chúng và khai hoá xã hội bằng tự do báo chí.

“Nhờ giáo dục, cùng với tự do báo chí như ở Pháp, yêu cầu chính phủ bảo hộ giúp chúng ta cải tiến càng nhanh càng tốt cách thức cai trị trên toàn cõi An Nam. Tại sao người ta lại không thể làm cho Trung Kỳ và Bắc kỳ những gì họ đã làm cho Nam Kỳ? Nghĩa là tuyên bố có thể áp dụng trong xứ đạo luật hình của Pháp có sửa đổi, tuyên bố chế độ phân quyền để cứu vớt dân chúng ra khỏi sự lộng hành và lạm quyền do sự chuyên chế của quan lại và viên chức Pháp mà họ là nạn nhân, cải tổ thôn xã làm sao ngăn ngừa được các hào lý lộng hành và lạm quyền trên lưng người dân, cuối cùng là thay thế tất cả các quan lại già bằng những người trẻ từng được tiếp thu học vấn trong các nhà trường Pháp, đồng thời lại biết chữ nho. Muốn có thể chuyển đổi tư tưởng của ất nhiên nhà vua và triều đình cũng như các quan lại chắc hẳn là sẽ phản đối những cải cách đề ra. Nhưng dân chúng thì không phải như vậy, và chính dân chúng mới cần chính phủ dân chủ của nước Pháp quan tâm hơn, chứ không phải là những người cầm đầu trong nước. Chính phủ cần hỏi ý kiến dân chúng về vấn đề này. Nếu người ta bảo rằng dân An Nam từ chối mọi cải cách thì tôi xin tự mình đi khắp nước trong một năm để tổ chức những cuộc nói chuyện, diễn thuyết về vấn đề này. Sau một năm, nếu người ta còn thấy những chướng ngại do dân chúng cản trở việc cải cách, thì tôi sẽ xin lấy đầu tôi ra để đánh cuộc”.

“Có thể để phản đối những cải cách nêu ra, người ta lại viện dẫn lý do chính phủ Pháp thấy không thể áp dụng trong một sứ bảo hộ chế độ trực trị của Nam Kỳ. Về sự phản đối này, tôi xin trả lời rằng không phải là việc áp dụng chế độ trực trị vào Trung Kỳ và Bắc Kỳ, mà là những cải cách đề ra sẽ không thay đổi hiện tình gì hết nếu như các chức năng cai trị và tư pháp vẫn tiếp tục để cho người An Nam đảm nhận. Trong mỗi tỉnh hoặc trong nhiều tỉnh hợp lại, người ta thích có một quan chức người Pháp đứng đầu bộ máy cai trị, với tư cách là người Thanh tra-Cố vấn, có nhiệm vụ dìu dắt quan chức An Nam trong việc quản lý công việc của mình. Như vậy sẽ giảm bớt quan chức người Pháp và người ta sẽ có thể trả lương cho họ tốt hơn và tuyển dụng họ cẩn thận hơn. Chỉ trong những điều kiện như vậy họ mới có thể được ưu đãi hơn quan chức An Nam. Còn đối với những người này (quan chức An Nam), phải trả lương khá cho họ để họ có thể giữ được tính liêm khiết và trung thực trong khi thực hiện chức năng của mình. Lương bổng chết đói mà người ta cấp cho họ buộc họ phải tiếp tục ngửa tay nhận quà cáp của kẻ bị trị. Đó là một gánh nặng thực sư đang tàn hại xứ sở và phải khẩn cấp xoá bỏ nó đi. Phương thuốc duy nhất để chữa ung nhọt này là phải tăng lương bổng trên quy mô lớn, làm sao có thể cho phép các đương sự giữ được vị trí của họ một cách thoả đáng, nuôi sống những gia đình thường là rất đông và có chút ít dành dụm cho những ngày già. Ngược lại sẽ cần phải trừng phạt thật nghiêm khắc những kẻ thiếu sót trong chức vụ với việc nhận quà cáp của kẻ bị trị. Ngoài điều đó, sẽ cần thiết phải thông báo rộng rãi cho dân chúng biết rằng họ không phải biếu xén gì hết cho các đại diện của nhà chức trách đã được chính phủ trả lương để làm việc cho dân không lấy tiền.

“Cuối cùng, đây là những cải cách cần thực hiện khẩn cấp nhất. Tôi không phải là nhà tiên tri. Nhưng tôi dám khẳng định rằng nếu chính phủ Pháp không thay đổi chính sách trong xứ và không tiến hành các cải cách này, thì dân chúng Đông Dương… đã mệt mỏi vì chế độ hiện hành, chắc chắn sẽ phải dùng bạo lực để buộc nhà đương cục cao cấp phải thay đổi cách cai trị trong xứ. Tôi không hề mong ước có sự cố khốn nạn đó. Nhưng tôi tiên đoán điều đó. Máu sẽ chảy. Dân An Nam sẽ chết, tôi cầm chắc điều đó. Tôi sẽ đau xót về điều đó nếu tôi còn sống đến ngày ấy, trái lại chắc hẳn tôi sẽ vui mừng được trông thấy một cuộc đổi thay có lợi cho dân chúng…”

Nguyễn Ái Quốc lưu ý rằng:

“Dân An Nam đã chờ đợi những thay đổi từ 60 năm nay. Chính phủ không làm được gì đáng kể cho họ thoả mãn. Nếu trong dân chúng có kẻ nào lên tiếng bày tỏ với nhà đương cục cao cấp những yêu cầu và nỗi thống khổ của họ và để kêu xin những phương thuốc chống đỡ nỗi khổ đau họ phải gánh chịu, thì người ta trả lời họ bằng những nhà tù, bằng lưu đày và tử hình. Nếu bác luôn tin cậy vào sự quan tâm của chính phủ để cải tiến mọi tình trạng hiện nay thì bác sẽ phải đợi đến muôn đời. Người ta không muốn đối xử với chúng ta như những con người thì thật là vô ích khi phải sống hèn hạ và bị lăng nhục trên trái đất này. Chừng nào người ta tước mất của chúng ta quyền công dân và chính trị thì người ta vẫn tiếp tục coi chúng ta như kẻ thù, như nô lệ. Trong trường hợp đó, làm sao chúng ta có thể yêu mến và tin cậy những kẻ khing bỉ chúng ta và coi chúng ta như thù địch?… Tôi đã không có lý khi tôi tố cáo tình trạng này chăng?”

Đến đây ông Phan Chu Trinh đề nghị dừng câu chuyện, đồng hồ vừa điểm 11 giờ đêm. Lê Văn Sao im lặng theo dõi câu chuyện mà không tham gia. Còn Khánh Ký thì ủng hộ những ý kiến của Phan Chu Trinh và phản bác những ý kiến của NAQ mà ông cho là quá khích, bạo động và không thể thực hiện được. Ông ta tán thành các chủ trương hoà giải…

Tôi từ biệt nhóm của Quốc hồi 11h15”

Paris, ngày 20 tháng chạp, 1919 – Ký tên: Édouard

Tư liệu trên đây thêm tư liệu cho phép ta nghĩ rằng: Phan Chu Trinh trước sau như một vẫn tin vào khả năng “đề huề” với Pháp. Điều này khá nhất quán ở Cụ từ ngày gặp Phan Bội Châu ở Nhật (1906) cho đến ngày ở Pháp về Sài Gòn diễn thuyết (1925).

Xin trích thêm một đoạn trong chương mở đầu cuốn sách Hồ Chí Minh, đồng chí của chúng ta (Ho Chi Minh, notre camarade – Introduction historique de Charles Fourniau, Editions Sociales, Paris, 1970.) Khi tác giả gặp Hồ Chí Minh lần cuối ở Hà Nội:

“Trong lần gặp cuối cùng mà Chủ tịch HCM dành cho tôi, ông chỉ nói xa xôi về quan hệ với Phan Chu Trinh, giải thích rằng ở Paris ông đã thảo và phát truyền đơn, vì – theo ông nó – những người Việt Nam yêu nước có tiếng tăm hồi đó ở Paris không dám làm việc ấy. Ông không nhắc gì đến Phan Chu Trinh…”

Lịch sử thường hay chọn… đường vòng. Lịch sử đã chọn Nguyễn Ái Quốc, không chọn Phan Chu Trinh… để đến nay sau gần một thế kỷ tranh đấu, bạo lực với bao nhiêu xương máu, đổ vỡ, mất mát… những người Việt yêu nước lại đang phải chấp nhận mọi sự đàn áp, bắt bớ, chụp mũ v.v. của chính “đồng bào” mình, của chính “chính phủ mình”, của chính “đảng mình”… để nói lại và đòi lại những điều mà cụ Phan đã nói ở trên.

May mắn thay cho những dân tộc khác, mà gần nhất là các nước trong khối ASEAN, ở đó lịch sử đã chọn con đường “cải lương” như của cụ Phan, của Gandhi,…. Nhờ thế họ đã tránh được chiến tranh mà vẫn lần lượt giành được độc lập để xây dựng đất nước phồn thịnh, để giờ đây họ có thể trở thành những ông chủ đầu tư vào Việt Nam, để có thể “cố vấn”, dạy bảo, mạt sát …, không ít trường hợp “thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” hay thậm chí bắt người Việt chui qua háng (tại nhà máy giày Nike, Đồng Nai chẳng hạn!) và cả Việt Nam ào ạt đưa người đi làm thuê cho họ với đồng lương rẻ mạt và điều kiện vô cùng kham khổ; cũng như xuất khẩu hàng chục ngàn phụ nữ qua xứ họ làm nô lệ tình dục hoặc làm kiếp tôi tớ, con ở…

Có phải chỉ vì họ thông minh hơn người Việt ta không?

2018 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: Tuyển tập Đàn Chim Việt, DCV Inc. phát hành năm 2006, trang 309-319.