Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7a)

Nguyễn Văn Lục

mmTrước đây, thời Việt Nam Cộng hoà, giáo sư Trương Bửu Lâm đã bày tỏ một mơ ước: Có một nền sử học Quốc Gia. Ông nhận thấy môn sử học ở Việt Nam trong các trường trung học bị coi nhẹ. 

Nhìn lại sử Việt | Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7a)
Jean-Baptiste Chaigneau và chiếu phong quan của Hoàng đế Gia Long , 1802. Nguồn:  Văn khố Chaigneau
Quan đại thần Jean-Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng và chiếu phong quan của Hoàng đế Gia Long , 1802. Nguồn: Văn khố Chaigneau

Thầy giáo không chuyên nghiệp và sử học là môn học để dạy trám chỗ. Ước mơ của ông Trương Bửu Lâm chưa bao giờ thành hiện thực thì xảy ra cảnh mất miền Nam.

Sử học kể từ đó trở thành công cụ tuyên truyền. Nói chung thì sử học Việt Nam hiếm có cơ hội là tiếng nói độc lập. Ngay cả khi độc lập rồi thi cũng là tiếng nói của vua chúa, của kẻ cầm quyền.

Tuy nhiên phải nhìn nhận những nỗ lực cá nhân vẫn có. Những tiếng nói thốt lên từ đáy vực cũng như tiến rên vang bày tỏ khát vọng sự thật vẫn không thiếu.

Những bậc đàn anh đáng kính vẫn là những gương soi cho thê hệ sau như trường hợp sử gia Trần Trọng Kim.

Sau này ở hải ngoại vẫn cần được đánh giá lại đúng mức trong trường hợp nhưng người cầm bút viết sử như Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Phương và Nguyễn Khắc Ngữ. Trong số ấy Nguyễn Khắc Ngữ là thiệt thòi hơn cả vì sách tài liệu của ông it được phổ biến lại thêm yểu mệnh!

Trong thời gian gần đây, nhiều tác giả khác cũng đã lên tiếng! Cùng với sự xuất hiện của ông Nguyễn Quốc Trị là bà Thụy Khuê. Cạnh đó còn có bộ sách nhiều tập của Lê Mạnh Hùng cũng cùng một tham vọng: Nhìn lại Sử Việt.

Như vậy sử Việt là có vấn đề? Đương nhiên rồi. Chẳng những cần nhìn lại mà viết lại nữa!

Hai tập tài liệu của ông Nguyễn Quốc Trị và Lê Mạnh Hùng, tôi chưa có điều kiện đọc hết nên không thể có ý kiến.

Thụy Khuê sau nhiều năm cũng nhận thấy có một nhu cầu viết lại sử nên bà đã viết một tài liệu biên khảo nhan đề Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long, viết năm 2015 và được Diễn Đàn Thế Kỷ cho đăng.

Tập tài liệu khá dầy, giới hạn khoảng thời gian từ năm 1777-1802, gồm chừng 4-5 trăm trang đánh máy và chia ra làm nhiều chương.

Mỗi chương đề cập đến một tác giả, hầu hết là người ngoại quốc, đặc biệt là các thừa sai người Pháp. Hoặc là các sử gia, nhà ngoại giao.

Như Alexis Faure, tác giả cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine, Évêque d’Adran, Paris 1891.

Hay cuốn A voyage to Cochinchina của John Barrow, nhà ngoại giao, Luân Đôn, 1806.

Cuốn khác của Montyon, Exposé Statistique du Tonkin de la Cochinchine, du Cambodge, du Tsiampa, du Laos, par M. M-N sur la Relation de M. de la Bissachère. Mission dans le Tunkin 1811, Luân Đôn

Tiếp theo là cuốn sách của Bissachère, La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère do Charles B. Maybon viết lời giới thiệu, Paris 1920.

Cuốn khác của Maybon, cuốn Histoire moderne du pays d’Annam, 1920.

Nguồn:  Plon-Nourrit et Cie (Paris) 1920
Nguồn: Plon-Nourrit et Cie (Paris) 1920

Và cuối cùng là chương, Học giả Cadière và tập san Đô Thành Hiếu Cổ.

Phần còn lại là mỗi chương, mỗi phê phán một nhân vật người Pháp đã cộng tác với Bá Đa Lộc như Le Brun và Puymanel, De Forcanz và Le Brun, rồi Olivier De Puymanel và Laurent Barisy, Jean Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng.

Cũng cần nói thêm là trong phần mở đầu trước khi vào sách, bà Thụy Khuê đã dành ít trang để giải thich về Nhu cầu viết lại lịch sử thời Pháp thuộc.

Theo bà, sở dĩ có nhu cầu cầu ấy vì các sử gia như Louis Eugène Louvet (1838-1900) với cuốn La Cochinchine Religieuse, Paris, 1885 cũng như cuốn L’Empire d’Annam của Charles Gosselin, Paris, 1904 là những tác giả người thực dân Pháp nên thường có quan điểm bênh vực cho chính sách của thực dân Pháp và thường cực lực lên án các vua quan triều Nguyễn.

Ngoài ra bà còn liệt kê các sử gia Việt Nam kể từ Trương Vĩnh Ký đến Trần Trọng Kim rồi Phan Khoang, Nguyễn Thế Anh, Tạ Chí Đại Trường, Nguyễn Khắc Ngữ. Bà cho rằng những vị này đều sử dụng tài liệu của Pháp nên bà xếp họ vào loại “sử gia thuộc địa”.

Đặc biệt, chương 2, bà Thụy Khuê dành để giới thiệu Bộ sử Nguyễn Văn Tường của ông Nguyễn Quốc Trị mà bà trân trọng viết,

Sách của Nguyễn Quốc Trị. Nguồn: NQT
Sách của Nguyễn Quốc Trị. Nguồn: NQT

Bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị là một công trình nghiên cứu thận trọng và chi tiết, mở đầu cho một khuynh hướng tìm lại và đọc lại lịch sử Việt Nam.”(1)

Cảm tưởng của tôi là bộ sử của Nguyễn Quốc Trị như một chỉ dẫn hay một cảm hứng cho bà Thuỵ Khuê khi viết tài liệu này.

Sau đây, chúng ta thử xem tham vọng viết lại lịch sử của bà có đạt được không?

Vấn đề sử quan và cảm tưởng của một người đọc

Sử quan của người viết sử thường là cớ sự cho sự bất đồng. Tránh được sự bất đồng này là điều khó khăn nhất trong việc nghiên cứu sử học. Nguyên tắc này tỏ ra thích hợp trong trường hợp bà Thụy Khuê

Nhưng người ta lại không thể viết sử mà lại không có quan điểm? Viết không thể không có chủ đích? Viết không thể không có một lối nhìn. Viết là một dự phóng, cho nên viết luôn luôn bao hàm cái dụng ý của người viết. Muốn viết gì và viết cái gì. Tại sao viết và tại sao không viết.

Tôi viết bài này với tư cách một người đọc, nhờ đó tránh được nhiều yêu sách của việc phê bình.

Cảm thức đầu tiên khi đọc tập tài liệu này là khả năng thuyết phục của tác giả Thuỵ Khuê là yếu. Viết như tác giả khó mà thuyết phục ngay cả đối với loại độc giả dễ tính.

Tác giả để lộ ra nhiều sơ xuất, kẽ hở có thể tránh được và không tránh được. Tác giả có lẽ cần xem lại mình trong việc trích dẫn và các dùng tài liệu. Tác giả để lộ ra thái độ khá chủ quan, thiên lệch, một chiều.

Người ta không tìm thấy tính cách tương đối, trung dung, tính cách nhiều mặt của một sự kiện lịch sử để đạt tới một kết luận khách quan hơn.

Chính vì thế, tác giả không kiềm chế được mình, dằn vặt với các nhân vật lịch sử như thể họ còn đang sống, như thể trút hận oán lên họ. Đồng thời, đối với người sống, sử học trở thành cớ sự cho những lời nguyền rủa ác ý. Cảm tưởng của một người đọc là tác giả dùng sử học để trút hận, để dằn vặt người khác.

Người chết và nhất là người sống trở thành nạn nhân về những điều họ không làm, hoặc không biết đến. Nếu nói theo truyền thống văn hóa chửi của người miền Bắc thì đây là cơ hội ‘đào mả’ người khác lên!

Trút hận lên những nhân chứng lịch sử thì ích gì và ta được gì? Một cách nào đó gián tiếp, tác giả hành người đọc. Nhiều lúc chán nản không muốn tiếp tục đọc để tự làm khổ mình, thú thực, nhiều lúc tôi đã muốn “buông”.

Buông được là tự giải phóng mình ra khỏi sự phiền hà, sự khó chịu, sự bực mình không cần thiết. Chắc rằng nhiều bạn đọc khác khi đọc tác giả cũng bắt gặp những cảm giác khó chịu tương tự. Hy vọng như vậy.

Tham vọng viết lại sử của tác giả vì thế không thể thực hiện nổi với lối viết như thế. Nó sẽ trở thành những tiếng kêu trên sa mạc!

Sau đây là  một số nhận xét về nội dung cuốn sách.

Phần Một: Sự phê phán các nhà sử học Việt Nam

Hầu như phần lớn các sử gia đều trở thành đối tượng phê phán của tác giả mà bà gọi chung là “Sử quan thuộc địa”. Sự phê phán ấy bao gồm hầu như bất cứ sử gia Việt Nam nào có tiếng tăm!

Chỉ bốn chữ này thôi tự nó đã là bản án, đã gây tranh cãi ồn ào rồi. Nhưng thế nào thì được gọi là sử quan thuộc địa?

Theo bà Thuỵ Khuê, gọi là sử quan thuộc địa tất cả “những sử đã chép lại những thông tin bịa đặt của giáo sĩ La Bissachère mà không đặt vấn đề”. (Thuỵ Khuê, Chương Trước khi vào sách).

Bà viết tiếp,

“Để hoàn tất những nhiệm vụ này, một số giáo sĩ đôi khi, không phải bẻ cong ngòi bút, mà chỉ viết một nửa sự thật: ví dụ mô tả việc xử tử giáo sĩ một cách cực kỳ dã man, nhưng không nói đến nguyên nhân tại sao họ bị xử tử; không nói đến luật hình ở Việt Nam; dấu kỹ những hoạt động chính trị giúp phe nổi loạn chống lại triều đình với tham vọng một nhà nước thiên đạo hoặc nhà nước Thiên Chúa giáo (Lê Văn Khôi, Lê Duy Lương, Tạ Văn Phụng.) Thậm chí giáo sĩ Louvet còn “dịch” một đoạn dụ rất tàn ác bảo là của vua Tự Đức, trong có câu ‘Những thầy tu người Việt, dù có chịu bước qua thánh giá hay không cũng bị chém làm đôi (…) Những kẻ tàng trữ người Âu trong nhà cũng bị chém ngang thân vứt xuống sông’ không hề tìm thấy ở đâu. Những giáo sĩ này, dường như cố tình đưa bộ mặt ‘dã man’ diệt đạo của vua quan nhà Nguyễn, để giáo hoàng can thiệp, để chính quyền Pháp có ‘chính nghĩa’ đưa quân vào đánh. Nhiệm vụ của họ là vinh thăng sứ mệnh truyền giáo.”

Người viếtế có cảm tưởng có sự gán ghép sử quan thuộc địa vào công việc truyền giáo, công việc giết hại giáo dân.

Đây là một đoạn văn đầy cảm tính, hận oán chưa từng gặp ở bất cứ nhà sử học nào trước đây.

Chính vì thế, những người viết sử từ Trương Vĩnh Ký với cuốn Cours d’histoire annamite, 1875. cũng được xếp loại sử quan thuộc địa. Đọc lại cuốn sử của Trương Vĩnh Ký người ta thấy ngay từ lời nói đầu cho thấy ông là một học giả dù uyên tham nhưng vẫn tỏ ra đầy lòng khiêm cung và từ tốn hết mực. Nhan đề cuốn sách của ông nói là để dùng cho học sinh Nam Kỳ và hy vọng các lớp trẻ nối tiếp công trình của ông một cách đầy đủ hơn. Tuy nhiên, có một chi tiết là Trương Vĩnh Ký không ngần ngại kết án vua Minh Mạng trong vụ án giết vợ và hai con của Hoàng Tử Cảnh. Về điều này, Sử của Trần Trọng Kim đã tránh không đề cập tới.

Tuy nhiên, những lời kết án của bà Thụy Khuê là vu vơ mà không chỉ rõ Trương Vĩnh Ký là sử quan thuộc địa ở chỗ nào? Bà không đưa ra bất cứ một nhận xét nào đến độ tôi nghi ngờ rằng bà chưa hề có dịp đọc cuốn sách này.

Bà chỉ viết:

“Henri Cordier cho biết cuốn sử đầu tiên mà độc giả Pháp được biết đến về nước Nam là “Cours d’histoire annamite” (Giáo trình lịch sử An Nam) của Trương Vĩnh Ký in năm 1875.”(2)

Người được trích dẫn và nói tới nhiều nhất là Tạ Chí Đại Trường. Tuy thế, từ khi Thuỵ Khuê cho đăng tải tác phẩm “Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long” cho đến cuối đời, sử gia Tạ Chí Đại Trường không hề nhắc đến nó.

Người duy nhất còn lại hiện nay là giáo sư sử học Nguyễn Thế Anh hoặc học trò thân cận của ông, giáo sư Trần Anh Tuấn.

Tôi chú trọng nhiều đến cái chủ đích tại sao bà Thụy Khuê lại viết như thế. Một lối viết sử sô vanh và chậm tiến: vừa Sô vanh dân tộc và nhất là sô vanh tôn giáo.

Sử gia Trần Trọng Kim bị kết án là có sử quan thuộc địa?

Đối với Trần trọng Kim, bà viết chi tiết hơn như sau:

“Trần Trọng Kim tuy có đọc những bộ sử của nhà Nguyễn, nhưng ông vẫn đặt niềm tin trọn vẹn vào tài liệu Pháp. Khi nhận định về những lý do của cuộc xâm lăng, Trần Trọng Kim lấy lại ý kiến các sử gia thuộc địa, cho rằng triều đình Huế không chịu canh tân đất nước, áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng, cấm đạo, diệt đạo nên người Pháp mới đánh Việt Nam, để cứu giáo dân, giáo sĩ và bảo vệ tự do buôn bán.”(3)

Trừ các sử gia miền Bắc thường có thói quen bôi nhọ Trần Trọng Kim, có thể đây cũng là lần đầu tiên ở miền Nam sử gia Trần Trọng Kim được xếp là một sử gia có sử quan thuộc địa.

Có ba điều cần thưa với bà Thụy Khuê.

1. Điều thứ nhất, xếp như thế, một cách gián tiếp coi Trần Trọng Kim như loại tay sai của Pháp. Điều này đụng chạm đến nhân cách và hành trạng trí thức của cụ Trần Trọng Kim. Cụ mặc dầu là người được đào tạo Tây học, nhưng khí tiết nhà nho trọng lễ nghĩa cũng thật rõ ràng. Tôi đã có lần viết một bài nhan đề Trần Trọng Kim, công hay tội với lịch sử? Chỉ cần đọc Một cơn gió bụi của cụ Trần cho thấy nỗi lòng của cụ đối với quốc gia, đất nước. Công thì rất nhiều, tội chỉ vì là một trí thức bất đắc dĩ bị lôi cuốn vào cơn gió bụi chính trị của thời cuộc!

Nếu không giải quyết được công hay tội của một người như Trần Trọng Kim, nếu coi Trần Trọng Kim như một loại người viết với sử quan thuộc địa, xin hỏi bà Thụy Khuê có thể nào nêu tên một vài người viết sử chân chính? Phải chăng đó là Cao Huy Thuần?

Bà nên có quan điểm rành mạch về điều này! Ai là sử gia thuộc địa? Và những ai là sử gia chân chính? Bà có thể nào nêu tên một vài người, theo bà, là sử gia chân chính?

Chúng ta cũng cần minh định một lần nữa một cách dứt khoát, việc giết hại tín đồ Gia tô giáo là một tội phạm mà không thể nhân danh bất cứ cái gì để bào chữa được. Thói thường của một số người viết sử coi người Thiên Chúa giáo theo Tây như một thứ phản quốc nên hình phạt dành cho họ là điều đương nhiên không cần bàn cãi nữa.

Đó là một sai lầm lịch sử kéo dài được rất nhiều người lập đi lập lại rồi.

Thật vậy trường hợp Trần Trọng Kim giống như rất nhiều người trí thức Việt Nam, trong một hoàn cảnh bĩ cực đến tuyệt vọng bị đẩy vào sân khấu chính trị mà bản thân họ không có một chuẩn bị nào cho công việc ấy. Đó là trường hợp của Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Tri Phương và khi ấy họ sẵn sàng dùng cái chết như một võ khí tự vệ để bảo toàn nhân cách của họ!

Những cái chết ấy tự nó là một giá trị miên viễn, nhưng về thực tế thì nó giải quyết được gì? Và mặt khác nó cho thấy chỉ lòng yêu nước thôi chưa đủ, cần có kỹ thuật và võ khí tương xứng.

Vấn đề quan trọng hơn cả là nhận thức được tại sao ta yếu kém, tại sao ta không chống nổi lại người Pháp?

Thành Hà Nội nhìn cái bề ngoài bề thế như thế, tường thành cao cả 30 chục thước. Vậy mà vết tích duy nhất còn ghi dấu để lại là một lỗ đạn đại bác sâu chừng 40 cm! Thành Hà Nội đã thất thủ vào sáng ngày 25 tháng tư năm 1882, vào lúc 11 giờ 15 phút sau hơn ba giờ bị Rivière tấn công.

Vết đại bác trên cổng Bắc thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: 25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières "Surprise" et "Fanfare"; nghĩa là Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền "Surprise" và "Fanfare".
Vết đại bác trên cổng Bắc cổ thành Hà Nội do pháo thuyền của Pháp bắn vào. Nguyên văn biển đá bằng tiếng Pháp: 25 avril 1882: Bombarde de la citadelle par les canonnières “Surprise” et “Fanfare”; nghĩa là Ngày 25/04/1882: Vết bắn phá thành của các pháo thuyền “Surprise” và “Fanfare”. Nguồn: Wikipedia.

 

Không thể đổ trách nhiệm đó cho ai được để chạy tội!

Trần Trọng Kim chỉ hơn và khác các vị trên vì ông được đào luyện theo Tây học, cái nhìn của ông về lịch sử rõ ràng và phân biệt đâu là phải trái. Hiểu biết được sức mạnh của địch và sự yếu kém của ta.

Nói ra cái lẽ phải trái ấy mà ông bị coi là người theo Tây?

2. Điều thứ hai, sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, đã là sách giáo khoa của nhiều thế hệ học sinh , mặc dầu đã trải qua hơn một thế kỷ thử thách của thời gian, vậy mà vẫn còn được nhiều tác giả trân trọng đọc, sử dụng và quy chiếu vì hai lý do sau đây:

Nguồn: Tân Việt.
Nguồn: Tân Việt.
  • Sách sử ấy về mặt tài liệu tuy còn thiếu sót nhiều vì điều kiện chưa cho phép tiếp cận nhiều tài liệu còn được lưu trữ. Nhưng bù lại, cuốn sách cố bảo đảm tính chân thực của tài liệu trong sự cẩn trọng và chừng mực nhờ đó vẫn giữ được sự tin cẩn của người đọc.
  • Điều thứ hai quan trọng không kém, sử gia Trần Trọng Kim có một quan điểm sử học tương đối khách quan và vô tư. Vì thế, vốn có khi tiết của một nhà nho, nhưng lại được đào tạo có bài bản, nhưng trong hơn 100 trang chót của cuốn sách, ông vẫn thẳng tay phê bình khá nặng nề bằng lý luận sắc bén vua quan nhà Nguyễn là sai lầm trong việc giết hại Gia Tô giáo cũng như chính sách ngoại giao cứng rắn với phương Tây.

Đáng lẽ đến giờ phút này của lịch sử thì mọi người phải hiểu chuyện và đừng đổ tội quanh để bào chữa cho triều đình nhà Nguyễn.

Vậy mà vẫn có một số người tự nhận có ăn học – ăn học đến nơi đến chốn – vẫn chưa nhận ra được sự thật!

Giết hại người theo Gia Tô giáo tự nó không giải quyết được gì mà chỉ làm cho tình trạng thêm trầm trọng và là cái cớ chính đáng cho người Pháp vào Việt Nam.

Phải chăng vì thế mà bà Thụy Khuê thẳng thừng xếp Trần Trọng Kim vào loại tác giả viết theo quan điểm thực dân của giáo sĩ và quân đội viễn chinh?

3/ Điểm thứ ba, để biện minh cho quan điểm của mình, bà đề cao các sách sử nhà Nguyễn như

“Đại Nam Thực Lục, Đại Nam liệt truyện, Khâm định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, v.v. Nhờ thế mà ta biết được những gì đã xảy ra trong nội bộ triều Nguyễn, những bàn luận giữa vua và các đại thần về chính sách đối phó với ngoại xâm… Cũng nhờ đó mà ta có thể gột rửa nhãn hiệu ‘bạo chúa’, ‘ Néron Annam’ mà các thừa sai đã gán cho vua Minh Mạng từ hơn 100 năm nay.”(4).

Xin thưa với bà Thụy Khuê là tôi đồng ý một phần nhỏ với bà là các sách sử triều Nguyễn đều do các vị đại thần uy tín đứng chủ trì – như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành, v.v. Thời gian kéo dài trong nhiều năm nhất là phần Chính Biên. Nhưng các vị đại thần ấy viết một câu một chữ cũng phải đắn đo, suy nghĩ vì nếu không cẩn trọng thì cái đầu trên cổ cũng không còn. Có sử quan nào không viết tốt cho triều đại họ đang phục vụ và ban phát bổng lộc, áo mũ, cân đai cho họ?

Trong hoàn cảnh viết như thế thì sự trung thực được bao nhiêu phần? Đó là thứ sử của triều Nguyễn không phải sử Việt viết về người Việt. Chỉ là những câu chuyện của vua quan mà không có câu chuyện của người dân Việt.

Vậy, thưa bà Thụy Khuê, bà tìm được sự thật gì trong hàng ngàn trang sách sử ấy?

Tôi xin phép dở tập II, Đại Nam Liệt Truyện viết về Bá Đa Lộc để thấy các nhà chép sử một cách có hệ thống đã tìm cách đánh tụt giá vai trò của ông trong sự xây dựng kinh đô nhà Nguyễn như thế nào.

Tại sao các sử gia triều Nguyễn đã cố tình coi nhẹ công lao của Bá Đa Lộc? Chẳng lẽ bà Thụy Khuê ngây thơ đến không biết rằng càng tránh né không nhắc đến công lao của Bá Đa Lộc, việc thống nhất đất nước càng thêm có chính nghĩa, càng thêm sáng tỏ.

Việc bà Thụy Khuê tìm đủ mọi chứng liệu làm thế nào chứng tỏ được tài năng của Nguyễn Ánh Gia Long, bất chấp thực tế lịch sử buộc tôi một lần nữa xếp bà vào trường hợp những tác giả theo Sô Vanh chủ nghĩa.

“Năm Canh Tý (1780), Thế Tổ Cao Hoàng Đế lên ngôi vương ở Gia Định, Đa Lộc đến yết kiến xin cố sức giúp việc, vua nhận lời. Ở Tây 4 năm, người Tây Dương không chịu giúp. Năm Kỷ Dậu lấy lại Gia Định, bèn đưa Hoàng Tử Cảnh về. Khi đã trở về, vua cho là có công trèo non vượt biển riêng ưu đãi thêm làm Đạt mệnh điều chế tần thủy bộ viện binh, giam mục Thượng sư.”(5)

Chỉ một đoạn văn trích ngắn trên đây cho thấy sử quan triều Nguyễn đã cố tình lái câu chuyện và xóa trắng công lao của Bá Đa Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh như thế nào?

Có chỗ nào cho thấy, Bá Đa Lộc “xin yết kiến, xin cố sức giúp việc”?

Trong bài “Bác cái thuyết “Nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII”” của Phan Khôi đăng báo năm 1928, tác giả viết,

“Việc nầy quan hệ với nước Nam nhiều hơn, cho nên phải lấy sử sách của người Nam chép ra làm chủ yếu.

Sách Đại Nam chánh biên liệt truyện về truyện Bá Đa Lộc chép rằng:

“Năm Giáp Thìn (1784), mùa thu, vua (Gia Long) lấy quân Xiêm về đánh Gia Định, bị thua. Vua lại trở qua nước Xiêm, sai người sang Chơn Bôn vời Bá Đa Lộc về phò Hoàng tử Cảnh qua Tây cầu viện. Ở Tây bốn năm, người Tây không có thể giúp được; năm Kỷ Dậu (1789) khi vua đã lấy lại Gia Định rồi, Bá Đa Lộc bèn đem Hoàng tử Cảnh trở về.”

(Xem Đại Nam chánh biên liệt truyện cuốn 28, tờ 8).

Sách Quốc triều chánh biên toát yếu, về năm Quý Mão (1783) vào năm vua Cao hoàng tức vị tại Gia Định được bốn năm, chép rằng:

“Vua nghe Bá Đa Lộc ở Chơn Bôn (đất Xiêm), sai người đi mời về. Bá Đa Lộc là người nước Pháp, thường đi truyền đạo trong các xứ Chơn Lạp và Gia Định, đã từng đến yết kiến vua, vua lấy khách lễ mà đãi. Lúc đó mời đến, vua bảo rằng: Vận nước ta đương hồi khốn khó, giặc giã chưa yên, thầy cũng vẫn biết ; bây giờ thầy có thể vì ta đi sứ bên nước Tây, nói với họ đem binh qua giúp ta không? Bá Đa Lộc bằng lòng xin đi, và hỏi lấy gì làm con tin. Vua đáp rằng: Con trai ta là Cảnh, lên bốn tuổi, nay ta đem nó mà phó cho thầy, thầy hãy giữ gìn lấy nó, đường sá xa xuôi, nếu gặp sự ruổi ro gì thì bảo hộ nó một chút. Bá Đa Lộc vâng lời.

Vua cùng bà phi gạt lệ mà đưa đi. Vua có sai phó vệ uý là Phạm Văn Nhân và Cai cơ là Nguyễn Văn Liêm đi với.””

(Nguồn:  Phan Khôi, “Bác cái thuyết “Nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII””, Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, s.720 (15.5.1928) ; s.721 (19.5.1928), viet-studies.info đăng lại.)

Cùng quan điểm “bác cái thuyết ‘Nước Pháp giúp nước Nam’” nhưng Phan Khôi trích dẫn “khác” với Thuỵ Khuê.

Trong bao nhiêu năm trời đi theo Gia Long, lúc vào sinh ra tử, sách vở Tây Phương như Alex Faure đã dành hẳn một cuốn sách nhan đề: “Mgr Pigneau de Béhaine, Évéque D’Adran”, Paris, 1801. Bà Thụy Khuê cũng hằn học với cuốn sách này.

Trong cuốn Vua Gia Long, J.B. Dronet, xuất bản tại Hồng Kông, năm 1913, người viết đưa ra hai bản – một của Đại Nam Liệt Truyện để so sánh tìm hiểu xem cái nào là thật, cái nào là che dấu? Đây là lối trình bày rất chân thật, nhưng vụng về của lối văn thời bấy giờ:

“Đời ấy đã lâu năm, chúa trị đàng trong, chúa trị đàng ngoài hay đánh nhau, rồi kế đến giặc Tây Sơn nổi lên, nó đã hạ được nhiều tỉnh đàng trong; đến sau ông Thái Đức (Nguyễn Nhạc) lại hạ được tỉnh Phũ Xuân (Thành Huế), là kinh đô chúa Nguyễn, giết chúa Nguyễn cùng các con cái người nữa, chỉ còn độc một ông Nguyễn Ánh thoát khỏi được mà thôi; ông này không chết, song túng cực mọi đàng, của gì cũng không còn nữa, không có ai giúp đỡ, không biết tin cậy vào đâu…”

Sau này, tác giả Ngô Bắc có đưa lên mạng một bản tương tự mà theo tác giả Ngô Bắc tìm thấy được ở thư viện đại học Nornthern Illinois University.

“Vậy đang khi ông Nguyễn Ánh còn ở trong thuyền mà trốn ẩn trong bụi lau khóm lác, tình cờ gặp một thầy cuả bản cuốc, tên là Phê rô, cũng chạy giặc ra trốn ở đấy. Khi ông Nguyễn Ánh biết tỏ người ấy là thầy giảng đạo, thì mới tỏ mình ra cùng xin người cứu giúp mình: tức thì thầy cả ấy đem ông Nguyễn Ánh vào nhà Đức thầy Phê rô ở tỉnh Hà Tiên. Chẳng may khi ấy Đức thầy Phê Rô sang Cao Miên, bấy giờ thầy cả gởi tờ cho Đức Thầy Phê Rô được hay, và nhứt diện tìm nơi kín đáo trong rừng cho ông Nguyễn Ánh ẩn trú cùng tư cấp lương thực cho người đủ dùng trong hai ba tháng giời.”(6)

Bà Thụy Khuê có thể vô tình không đọc đoạn văn này chăng?

Để gián tiếp trả lời bà Thụy Khuê, tác giả Nguyễn Duy Chính, một tác giả chuyên khảo về đời Tây Sơn, đã cho đăng một bài biên khảo của ông nhan đề “Sự đóng góp của Giám Mục Pigneau de Béhaine vào công cuộc cải cách ở Gia Định.”.

Tiếp đến Phan Khoang, Nguyễn Thế Anh, Đào Đăng Vỹ, Nguyễn Khắc Ngữ và nhất là Tạ Chí Đại Trường. Tất cả không trừ đều rập theo “sử quan thuộc địa” để xác định công lao của Bá Đa Lộc và những ‘sĩ quan’ Pháp trong việc giúp Gia Long dựng lại cơ đồ.

Có thể trích dẫn quan điểm của bà Thuỵ Khuê về tình hình sử học của ta trong nhận xét sau đây của bà:

“Về phần người Việt, sau hơn thế kỷ bị Pháp đô hộ, đã mất gần hết bản tính tự cường về tư tưởng, trở thành ỉ lại, cái gì người ngoài, người Âu, nhất là người Pháp làm, đều hơn ta cả. Đó là lý do giải thích, đã không có lấy một bài viết nào đả phá những sự sự bịa đặt thô thiển của những ngòi bút thực nào khả dĩ có thể thay thế được cuốn sử của Trần Trọng Kim.

Và đó cũng là cái nhục tinh thần của một đất nước;”(7)

Sự bênh vực gián tiếp cho Minh Mạng nhằm rửa sạch vết nhơ bạo chúa đặt bà vào một hoàn cảnh khó xử. Một cách nào đó, bà gián tiếp tán thành chính sách cấm đạo của vua quan triều Nguyễn mà tất cả các sử gia nêu trên đều đồng loạt lên án.

Bà từng cho rằng đã trên 50 năm sống ở nước Pháp, hiểu được nước Pháp, mà một nguyên tắc căn bản là quyền tự do tín ngưỡng đã bị vua quan nhà Nguyễn chà đạp, biến thành luật pháp quốc gia để từ đó giết hại hàng trăm ngàn người dân vô tội bằng những hình phạt dã man nhất dành cho con người như cho voi giầy, xé xác!

Đó là một thứ tội ác mà không có một thứ lời bào chữa nào có thể chấp nhận được.

Quan điểm nhìn lịch sử của bà về việc bênh vực vua quan triều Nguyễn là một quan điểm nhìn lạc hậu, cực đoan, phản lại mọi lý tưởng về quyền tự do con người ở thế kỷ 21.

Bà thử nghĩ xem, các nhà truyền giáo đã thất bại tại xứ Xiêm La vì những người phật tử ở nơi đấy trung thành với nhà vua của họ đồng thời cảm thấy Phật giáo là đủ cho họ và không cần một tín ngưỡng ngoại lai nào khác!

Tại sao ở Việt Nam thì có hiện tượng trái ngược?

Bà thử làm một so sánh giữa các vua Xiêm La và Vua Việt Nam xem thử như thế nào?

Chỉ về đường thê thiếp, các vua kể từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị tổng cộng có hơn 200 thê thiếp và hơn 200 dòng con. Riêng Minh Mạng là người chiếm kỷ lục và nổi danh về đường tình dục hủ hóa. Trong một dịp hạn hán nghĩ là điềm không lành, ông đã cho về quê 100 cung phi. Cứ giả dụ ông có 300 cung phi, sáng một đứa con gái, tuổi đáng con, chiều một đứa, tuổi đáng cháu thì sức đâu để điều hành đất nước?

Xét về mặt y khoa, dâm dục quá độ như thế thì khả năng truyền giống sẽ đưa tới hậu quả nghiêm trọng như thế nào? Tuổi thọ trung bình của các công chúa là không quá 21 tuổi. Trong hơn 200 công chúa và hoàng tử trên đều giao cho các hoàng tôn trông coi, nuôi nấng và trong suốt gần trăm năm nhà Nguyễn không có lấy nổi một vài người có đủ năng lực, tài đức kế vị ngôi báu.

Trong một bài viết khác của tôi nhan đề Tấm vải bọc điều, tôi nhận thấy Gia Long có 13 hoàng tử, 18 hoàng nữ, cộng chung 31 người. Minh Mạng nhiều hơn, có 74 hoàng tử, 64 hoàng nữ, cộng chung 142 người. Thiệu Trị có 29 hoàng tử, 53 hoàng nữ, cộng chung 64 người. Cả ba nhà vua, số con cộng lại là 233, cộng với ba người con nuôi của Tự Đức là 236.

Trong số 236 người này đều được ăn học đến nơi đến chốn, liệu có được vài ba người có khả năng làm vua có tài có đức?

Không có. Vì thế mới có cảnh xoán ngôi đoạt vị xẩy ra.

Người cuối cùng là Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, được ăn học đàng hoàng, cũng là hình ảnh mục nát của cả một dòng họ.(8)

Sử gia Tạ Chí Đại Trường

Trong số các sử gia nêu trên, bà Thụy Khuê dành sự phê phán nặng nề nhất đối với Tạ Chí Đại Trường.

Bà viết,

“Thực kinh hoàng, khi thấy một người viết sử Việt Nam, không những đã phụ họa sự sai lầm của Lavoué, thêm thắt vào để xuyên tạc lịch sử đến như vậy. (9) (Trích dẫn Tạ Chí Đại Trường trong Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, trang 298-290).

Nguồn: Nhã Nam
Nguồn: Nhã Nam

Chỗ khác, bà viết,

“Nhưng đáng buồn hơn cả là sự vinh thăng Bá Đa Lộc làm chủ soái của Tạ Chi Đại Trường, ông viết,

‘Vào gần nửa đêm một ngày nào đó, ông (Nguyễn Ánh) đi tìm Bá Đa Lộc để hỏi ý kiến. Ông này phân vân giữa Đỗ Thành Nhân và Nguyễn Ánh, cả hai người ông đều có ý giữ liên lạc, để lợi dụng truyền đạo, nên trả lời thoái thác một cách khôn ngoan. Ánh khóc về, vẫn không bỏ ý định giành lại quyền bính.’ (Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến, trang 99).

Ở một đoạn khác Tạ Chí Đại Trường viết, ‘Từ đầu tháng 3-1783, Bá Đa Lộc dã phải hội bàn với Nguyễn Ánh về việc tránh Tây Sơn.’

Bà kết luận,

“Không cần dẫn thêm, chúng ta đã thấy tinh thần Ste-Croix trải dài trong cuốn Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam của Tạ Chí Đại Trường, thông qua Faure, Maybon, Taboulet…”(10)

(Còn tiếp phần 7b, 7c)

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ.

(1) Thụy Khuê, “Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long”, chương 2, Bộ sử Nguyễn Văn Tường.
(2) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 1.
(3) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 1.
(4) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 1.
(5) Đại Nam Liệt truyện, tập 2, Quốc sử quán triều Nguyễn, trang 505-506.
(6) Bản của Ngô Bắc, trích trang đầu.
(7) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 9.
(8) Về các công chua nhà Nguyễn, xem Đại Nam liệt truyện, Nhị quyển, trang 171 trở đi.
(9) Thụy Khê, Ibid, chương 10, Bài Introduction của Ste-Croix.
(10) Thuỵ Khuê, Ibid., Chương 10.

1 Comment on “Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7a)

  1. KHOA HỌC LỊCH SỬ VÀ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

    Chính trị khi đã trôi qua, đi vào quá khứ, nó đã thành lịch sử, và không còn bao giờ có thể quay trở lại được nữa. Trong khi đó sử học là sự ghi chép lại xác thực mọi điều gì cốt lõi nhất đã xảy trong chính trị giờ đây đã không còn nữa để mọi thế hệ tương lai về sau này còn được biết tới.

    Như thế rõ ràng sử học đích thực phải là ngành khoa học mà không thể nào chỉ kiểu viết vu vơ, không căn cứ, hoặc tệ hơn nữa chỉ chủ quan hay còn xuyên tạc. Bởi ý nghĩa của khoa học luôn luôn là sự chính xác, tính hệ thống, sự khách quan, điều xác đáng, xác thực, để con người có thể căn cứ vào đó mà xử lý có hiệu quả về mọi sự việc. Ý nghĩa của khoa học không chỉ thuần lý, tức hợp lý trí, mà còn thực nghiệm, tức căn cứ vào dữ kiện có thật, và sử học cũng như mọi ngành khoa học khác đều không thể ra ngoài điều đó.

    Có nghĩa người viết sử phải là người trí thức, người nghiên cứu chuyên sâu về các ý nghĩa và sự kiện lịch sử, viết theo khách quan và đúng đắn, không thể viết theo kiểu tùy tiện, cảm tính kiểu ít học, tay ngang hoặc bình dân. Những người viết sử nước ta trong sử quán đời nhà Nguyễn, hay sau này như Trần Trọng Kim thời Pháp thuộc, chính là những nhà sử học theo sở trường và khuynh hướng bác học cũng như trí thức đó. Càng về sau càng khó tìm thấy được những sử gia chân chính như thế, còn người viết sử mọi loại trong thời hiện tại, họ chỉ như những công cụ của chính trị, bị chính trị kìm hãm hoặc sai khiến, chẳng còn có giá trị hay ý nghĩa nào đáng nói.

    Nói khác đi, khi chính trị không còn là một khoa học khách quan thì sử học cũng chẳng còn là ý nghĩa hay giá trị khách quan nào hết. Bởi khi chính trị đã trở nên một ý thức hệ, tức cũng chẳng khác gì ý thức hệ tôn giáo nữa, thì làm gì nó còn là khoa học, và sử học ghi chép điều gì về nó hay trong vòng kiềm tỏa của nó có là sao mà còn khách quan và khoa học. Bởi tôn giáo chỉ căn cứ vào đức tin, không cần gì kiểm chứng, và cũng không thể nào kiểm chứng được. Chính trị kiểu ý thức hệ cũng hoàn tòan y như thế. Nó đi theo hệ tư tưởng của một cá nhân tùy tiện đặt ra, có khi chẳng có gì khách quan hay khoa học, rồi được phong thánh y như một vị giáo chủ, các tín đồ về sau chỉ nhắm mắt theo đó, tức chính trị bị tôn giáo hóa tự nó, nó đâu thể còn khách quan gì nữa.

    Bởi ý nghĩa và giá trị của khoa học là luôn luôn căn cứ vào những sự kiện khách quan có thật. Khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội mà trong đó sử học chỉ là một bộ phận thì cũng như thế. Nhà khoa học chân chính không thể nào bịa ra sự thật, không thể xuyên tạc hay bóp méo sự thật, thế thì nhà sử học cũng thế. Vậy nhưng trong những cơ chế xã hội độc tài, hay kiểu xã hội ý thức hệ, tất cả đều trở thành phải theo những giáo điều tiền chế, có còn gì là những sự kiện khách quan, tự nhiên, cũng phải bóp méo mọi sự kiện khách quan tự nhiên để phù hợp theo nó, thế thì không những chỉ tiêu diệt sử học trong hiện tại mà còn tiêu diệt cả sử học trong quá khứ như những điều đã xảy ra trong khách quan thực sự.

    Trong lịch sử nước Tàu thời xưa, đã từng có vị sử quan thà để bị giết liền ba thế hệ trong gia đình mình nhưng không chịu bẻ cong ngòi bút, đó là gương sáng ngàn đời còn để lại cho những người viết sử chân chính. Điều đó ngày nay không ai làm được, cả ở Trung Quốc hay ở Việt Nam cũng vậy. Đó là lỗi của hai đàng, đàng người cầm quyền và đàng người phải xu phụ nói theo kẻ cầm quyền. Khoa học không có thì sử học cũng không có, lịch sử đích thực cũng không còn có nữa, mà đều chỉ là những màn kịch, những vở diễn, những nhân vật giả tạo, cuối cùng cũng đều là những người ghi chép giả tạo, đó chính là sự xuyên tạc lịch sử, sự phá phách lịch sử, để chạy theo mọi quyền lợi thiển cận, sai trái trước mắt của cá nhân hay tập thể, chính điều oái oăm của lịch sử ngày nay là như thế.

    Thật ra lịch sử đích thực là những điều gì đã, đang, hay sẽ xảy ra trong thực tế. Đó là một hệ thống toàn bộ, tổng thể, mà không phải chỉ thành phần cục bộ nào có thể tách rời hay hoàn toàn độc lập. Như lịch sử chủng loài không thể ra ngoài lịch sử trái đất, lịch sử đất nước không thể ra ngoài lịch sử thế giới, lịch sử mỗi địa phương không thể tách rời lịch sử cả nước v.v… và v.v… Nên ý nghĩa của Nguyễn Ánh đi cầu viện quân Xiêm và nước Pháp, ý nghĩa của thực dân Pháp sang xâm lược nước ta cũng đều là những sự kiện cục bộ địa phương được lồng vào trong khung cảnh chung của toàn cầu lúc đó. Rồi sau này khi ông Hồ Chí Minh lên cầm quyền, cũng không tách rời được phong trào cộng sản quốc tế đang lên lúc đó, ngay cả như hiện nay ý nghĩa đổi mới hoặc hội nhập thị trường toàn cầu hóa cũng không ra ngoài chính bối cảnh chung của thế giới hiện tại.

    Do vậy, người viết sử cũng phải chính là người làm khoa học, mà không phải chỉ kiểu viết sử theo cách ngẫu hứng, tài tử, theo chủ quan hay theo cảm tính, mang tính nhất thời, đơn côi, hoặc lạc lỏng tách biệt.
    Có nghĩa người viết sử trong tính cách người là khoa học cũng phải biết nhìn được sự kiện trong nguyên nhân và trong kết quả. Nhìn vào nguyên nhân để ghi chép, thẩm định, đánh giá những gì đi theo sau đó. Nhìn vào kết quả những điều gì đã xảy ra, đã có, để tìm ngược lại sự truy vấn, thẩm định, đánh giá về những điều gì đã là nguyên nhân của những cái đó. Xử lý dữ kiện hiện tại đang có, sử lý dữ kiện quá khứ đã qua, hay tiến trình ngược lại, người viết sử không những giúp tiên đoán được cho các dữ kiện tương lai sẽ xảy đến cũng là như vậy. Tức ý nghĩa hay công dụng của sử học, không những giúp hiểu ra quá khứ mà còn giúp tiên liệu được tương lai vẫn hoàn toàn luôn luôn bổ ích.

    Đó cũng là lý do tại sao ngay trong thời đại phong kiến quân chủ ngày xưa con người cũng đã biết quý và biết sợ sử học. Các triều đại luôn luôn có đặt ra cơ quan chép sử gọi là sử quán. Sử quan là người có các đức tính đạo đức tiêu biểu phù hợp để chọn vào làm trong sử quán. Nên việc cưỡng bức sử quan phải viết theo điều gì vua quan muốn vẫn chỉ là điều ít thấy. Hoặc như Khổng tử viết ra Kinh Xuân Thu đều khiến các thế lực phong kiến khắp nước Tàu lúc đó đều phải sợ. Khổng tử không những là nhà tư tưởng vĩ đại mà còn là nhà sử gia vĩ đại là như vậy.

    Do vậy cách mạng cũng không thể nào trái khoa học cũng như trái lịch sử. Bởi mọi cuộc cách mạng là đều do ý chí, ý muốn con người làm ra, trong khi đó lịch sử là điều gì vượt lên trên tất cả mọi người, nó là sự kiện bao trùm nhất, nên bắt buộc nó cũng phải tự nhiên và khách quan nhất. Ví như người ta có thể lội qua một khúc sông, có thể đắp đập ngăn bờ một đoạn sông, nhưng không ai có thể chủ động ngăn dòng, chuyển hướng được một con sông từ đầu đến cuối. Cho nên cách mạng theo kiểu làm lại tất tật từ đầu tiên chinh chỉ là điều ngố hay điều chủ quan trịch thượng ngốc nghếch mà chính bản thân Mác đã vấp phải. Những khẩu hiệu như thay vì giải thích thế giới phải là biến đổi thế giới, thay vì phải thích nghi để cải thiện lịch sử thì phá tung và đảo lộn lại lịch sử, đó đều là những quan điểm nông nỗi, võ đoán, nguy hiểm và tệ hại của Mác. Nó tạo nên một cơ chế độc tài giả tạo, phản hiệu quả, phản nhân văn, phản khoa học và phản khách quan mà ai cũng có thể nhận ra được. Sử dụng độc tài để nhằm mưu cầu tự do cho nhân loại, đó chỉ là quan điểm mê sảng, vì không ai lấy lửa để dập lửa, lấy nước để ngăn nước, lấy sự khống chế để thực hiện tự do, đó chính là sự ngu dốt vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới loài người mà Mác đã đề xướng. Dùng thành phần ngu dốt để nhằm giải phóng sự thông minh cho toàn nhân loại, đó quả thật cũng chính là sự ngu dốt của Mác. Đấy khoa học và phản khoa học chỉ khác nhau là như thế.

    Nên nói chung lại, khoa học về lịch sử và khoa học về chính trị là khoa học về con người, về xã hội, mà không phải khoa học về sự vật hay về sự kiện. Sự kiện nhân văn và sự kiện vật chất hoàn toàn khác nhau là như thế. Sự kiện nhân văn luôn mang tính cách ý nghĩa hay giá trị đạo đức. Sự kiện vật chất chỉ hoàn toàn mang tính cách vật lý thuần túy. Nhầm lẫn giữa duy vật và duy tâm đó là lầm lẫn khủng khiếp nhất của Mác. Quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đó thực chất là sự làm vật hóa con người, ý thức và xã hội mà Mác chủ trương. Và khi con người bị vật hóa toàn diện nó cũng không còn con người nữa mà đã hoàn toàn rơi xuống thành hàng sự vật hay hàng động vật. Nhưng sử học khoa học không phải chỉ nhìn vào sự kiện lịch sử mà còn phải nhìn vào ý thức con người qua những sự kiện đó. Vua Minh Mạng có cả ba trăm cung tần đó là ý nghĩa phi nhân của thời đại phong kiến, bởi vì những phi tần ấy đã trở thành nhưng vật hi sinh cho nhà vua mà không còn ý nghĩa con người gì nữa. Nên nói chung mọi chế độ độc tài trong xã hội loài người đều là phi nhân theo kiểu này hay kiểu khác là chỉ hoàn toàn như vậy.

    NON NGÀN
    (02/5/16)