Đại Học | Số 16

Viện Đại học Huế

#16“Khi bàn về nghĩa xưa Giao Chỉ, điều trước tiên chúng ta nên lưu ý, là cái tên Tượng Quận. Trong đoạn trên chúng ta đã vạch rõ Tượng Quận gồm có Tam giác chau Bắc Việt và các miền duyên hải Trung phần Việt Nam hiện nay.” — Trần Kính hoà (Chen Chinh-ho), “Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ”, trang 130-152.

 


DCVOnline: Đọc thêm Nguyễn Văn Lục, Tóm lược về sự hình thành của Tạp chí Đại Học, October 22, 2015

4 Comments on “Đại Học | Số 16

  1. GIAO CHỈ
    VÀ TƯỢNG QUẬN

    Thuở ta còn bé tí
    Cách đây bảy mươi năm
    Tức là non thế kỷ
    Từng nghe Giao Chỉ rồi

    Kể từ đó đến nay
    Nó đi vào máu huyết
    Giao Chỉ là quê hương
    Trước Hồng Bàng đã có

    Cũng nghe được giải thích
    Giao chỉ là ngón chân
    Giao nhau vì bám đất
    Khi leo núi leo rừng

    Ngón phải bám cho chắc
    Lâu ngày thành giao nhau
    Giữ quê hương như thế
    Đời sau cứ còn hoài

    Kể từ khi lớn lên
    Lại nghe thêm Tượng Quận
    Kiểu do Tàu đặt tên
    Ngay từ thời Tần Hán

    Giao Chỉ hay Tượng Quận
    Vẫn cứ lớn lên hoài
    Ngàn năm vẫn còn đó
    Mãi mãi cho tới nay

    Bây giờ dãy giang sơn
    Từ Nam ra tới Bắc
    Kể từ mũi Cà Mau
    Tới Nam Quan đâu khác

    Từng phá Tống Bình Chiêm
    Từng đuổi Xiêm đánh Pháp
    Giờ nhìn ra biển Đông
    Non sông riêng một cõi

    Thuở xưa còn thuồng luồng
    Tục vẽ chàm cơ thể
    Dù lặn biển hay sông
    Có gì sợ cá sấu

    Ngày xưa có nhiều voi
    Mới nên tên Tượng Quận
    Bởi người Tàu làm ngang
    Phân ta ra như thế

    Nhưng từ Hai Bà Trưng
    Nước nhà đã độc lập
    Cỡi voi diệt ngoại xâm
    Bà Triệu Ẩu cũng vậy

    Đến thời Lý Thường Kiệt
    Sơn hà Nam đế cư
    Đem quân sang đánh Tống
    Dân Tàu chạy nhứ nhừ

    Sau ba lần Nguyên Mông
    Lại tràn sang xâm lấn
    Đại vương Trần Hưng Đạo
    Ba lần đánh tan tành

    Rồi tới thời Mãn Thanh
    Quân Tàu lại sang nữa
    Hai mươi vạn quân Tàu
    Quang Trung phá một bữa

    Đó chính là Giao Chỉ
    Hay là Tượng Quận xưa
    Nếu nói xa hơn nữa
    Còn oai hơn cả Tàu

    Tàu đã thua Nguyên Mông
    Rồi lại thua giống Mãn
    Song dân Việt oai hùng
    Vẫn bốn lần chiến thắng

    Chuyện xưa nay kể lại
    Cho con cháu xem chơi
    Dân tộc ta là thế
    Nào sợ ai trên đời

    Lịch sử nhiều ngàn năm
    Vẫn luôn luôn tồn tại
    Dẫu Tàu như con voi
    Nhưng mình như con hổ

    Nhiều khi hổ voi đấu
    Hổ vẫn thế thượng phong
    Bởi hổ luôn linh hoạt
    Còn voi chỉ lù đù

    Ví chơi mà lại thật
    Để con cháu tự hào
    Dù lịch sử bi tráng
    Phải giữ nước tầm cao

    Người có khi có lúc
    Sông có khúc có thì
    Nhưng lịch sử luôn một
    Dân ta nào sợ chi

    Trời lúc giông lúc rạng
    Mây đen rồi cũng qua
    Hết mưa trời lại sáng
    Đời ta vẫn bao la

    THƯỢNG NGÀN
    (19/7/17)

  2. BẠO ĐỘNG VÀ LỊCH SỬ : NHÌN TỪ KHÍA CẠNH KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC

    Trong tạp chí Đại Học (Huế) cũ, số 16 (1960), có bài viết của giáo sư Nguyễn Văn Trung là bài viết đến ngày nay người ta vẫn có thể hay cần nên đọc lại. Đó là bài “Bạo động và Lịch sử”. Giáo sư Trung ngày nay hay lâu nay hình như đang sống ở Canada. Và nếu ai đọc lại bài này, nếu đọc ngược từ dưới lên trên, có thể dễ dàng thấy ra liền kết luận hay sáng tỏ ngay được. Ngược lại nếu đọc từ trên xuống dưới, có thể nhầm lẫn giáo sư Trung như là ông Mác con, xa gần là nhằm tôn xưng chủ thuyết Mác. Đọc bài này mới thấy giáo sư Trung hiểu cộng sản hay chủ nghĩa Mác còn nhiều hơn một số người cộng sản thứ thiệt. Nhưng nếu nhìn trong khía cạnh triết học và khoa học bao quát hơn về ý nghĩa của bạo lực trong lịch sử, hình như bài viết của giáo sư Trung ngày nay càng phải được bổ sung nhiều thêm, đó là ý nghĩa và mục đích của chính bài phóng bút ngắn, chớp nhoáng này. Bởi nếu vấn đề chỉ dừng lại trên thuần túy lý thuyết như bài viết của giáo sư Trung mà không đi xa hơn vào thực tế, hóa ra nó chỉ là kiểu lý thuyết suông mà chưa mang tính cách ứng dụng xác thực nào cả. Tôi không giấu từng là học trò của giáo sư Trung tại Đại học Văn khoa Saigon cũ, cách đây trên nửa thế kỷ, nên bài viết này cũng chỉ để thừa nhận bao tính cách hữu ích của vị thầy cũ mà tôi từng thọ giáo, mặc dù trong những giờ lên lớp đó, tôi chưa từng bao giờ được nghe thầy Trung tuyên truyền gì về cộng sản hay tuyên truyền gì về chống cộng sản cả.

    Giờ trở lại ý nghĩa trong thực tại bạo động giữa con người và con người trong lịch sử. Đây là một thực tế không ai có thể phủ nhận được. Nhưng vấn đề đó có phải động lực làm cho lịch sử tiến hóa như Ănghen nói hay không, tức bạo lực là bà đỡ của cách mạng, của lịch sử. Hay như Mác nói, lịch sử của nhân loại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Thế nhưng vấn đề không phải chỉ biết nói suông như vậy, nhưng cần phải giải thích bạo lực bắt nguồn từ đâu, có thể khi nào giải quyết chấm dứt được nó trong xã hội hay không, và làm thế nào để chấm dứt được nó. Mác cho rằng chỉ có cách dùng bạo lực để chấm dứt bạo lực, tức bạo lực cách mạng vô sản như thứ bạo lực sau cùng, và chuyên chính vô sản là cách cuối cùng để chấm dứt mọi sự bạo lực trên thế giới, sau khi đã thực hiện được xã hội không còn tư hữu, không còn giai cấp.

    Ngày nay thì lịch sử thực tế đã chứng minh được tất cả điều Mác đã nói. Nói khác nó chỉ cho thấy ra mọi sự ngu dốt của Mác về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiển. Và cái gì giáo sư Trung đã dùng để chứng minh về mặt lý thuyết cho quan điểm của mình được xây dựng trên quan điểm biện chứng khi ấy, rõ ràng cũng chỉ là thứ biện chứng luận kiểu hình thức thuần túy, kiểu chiết trung ba phải, mà đặc biệt nhất, chính Trần Đức Thảo, một con người rất tiếng tăm, trong từng suốt gần hết cuộc đời mình từng mắc phải. Tức là kiểu lý luận được đặt ra hay xây dựng trên mô thức đề, phản đề, rồi hợp đề hay tổng đề, để xem như kết luận. Quả thật đây chỉ là lối lý luận hoàn toàn hình thức, kiểu lý luận toán học trừu tượng mà ai cũng nhận ra được. Ví dụ nói a là tiền đề, như vậy (-a) sẽ là phản đề, và cuối cùng [- (-a)] sẽ là tổng đề. Kiểu lý luận ngu dốt này chính Mác đã gặp phải, rồi Lênin cũng chỉ chồng dấu như thế, tức cho cộng sản nguyên thủy là tiền đề, tư sản hay tư bản là phản đề, cuối cùng cộng sản “khoa học” là tổng đề, thật chẳng khác gì chỉ ngồi để lý thuyết suông, lý luận suông, để tự sướng, và cuối cùng ngày nay mọi ý nghĩa khách quan đều đã thấy rõ.

    Thật ra ý nghĩa bạo động trong lịch sử chỉ là khía cạnh thực tiển của đời sống con người. Điều đó không phải là động lực hay động cơ của lịch sử gì cả như Ănghen chỉ hàm hồ và ngu dốt đã nói. Bạo động chỉ là một yếu tố của lịch sử, nhưng không phải yếu tố duy nhất hay chủ đạo như Ănghen đã mơ hồ hay ngu dốt nhầm lãn, lịch sử phát triển chính là do văn hóa, ý thức con người, hay do nhu cầu đi lên, do bản năng phát triển thúc đẩy, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật trợ lực, không phải chỉ do bạo lực như bản chất tự nhiên của bạo lực mà Ănghen từng đoán mò một cách có ý đồ và dốt nát. Bởi con người có thân xác, đó là công cụ đầu tiên và duy nhất của bạo lực về mặt thân xác. Tuy nhiên công cụ ấy lại do ý thức và ý chí bạo lực trong cá nhân quyết định. Vậy thì nguyên nhân của bạo lực và mục đích của bạo lực chính là ý nghĩa ban sơ nhất mà không phải chỉ thuần là bản chất tự có của bạo lực. Hay nói khác đi nguyên nhân của bạo lực là nguyên do sinh tồn, nguyên do kinh tế, kể cả đôi khi do nguyên do công lý hay chân lý trong đời sống mà con người buộc phải dùng tới bạo lực, tức ý nghĩa tâm lý trong bạo lực, ý nghĩa chiếm hữu và ý nghĩa công tâm, đó là điều thường thấy trong bạo lực, không phải chỉ là ý nghĩa vật chất hay kinh tế thuần túy. Các Mác chỉ là một anh thong manh, mọi sự chỉ du vào kinh tế, vào quyền lợi vật chất, vào đấu tranh giai cấp (tức đấu tranh quyền lợi vật chất thuần túy), nên chỉ là một ý thức cạn hẹp, thiển cận, một nhận thức chủ quan, tầm thường mà không gì khác. Bởi Mác chỉ là người duy vật thuần túy, nên mọi quan điểm của Mác về mọi vấn đề khác nhau thực chất cũng chỉ hẹp hòi, thiển cận mà chẳng gì vượt lên hơn thế.

    Như vậy trong tự nhiên ý nghĩa sinh tồn là ý nghĩa khách quan, thì khi đi vào thế giới loài người, ý nghĩa sinh tồn đó chỉ chuyển hướng, chỉ đổi thay về môi trường nhưng không bao giờ dẹp bỏ, đó là ý nghĩa tại sao con người luôn phải đấu tranh trong xã hội chỉ là điều như thế. Nhưng con người đấu tranh trong xã hội từ đây không còn chỉ là vật chất nữa như trong nhiên giới, mà còn đấu tranh cho công lý, cho chân lý nhận thức, đó chính là yêu cầu phát triển tinh thần và ý thức văn minh, văn hóa của thế giới con người. Như vậy rõ ràng quan điểm thuần túy duy vật, quan điểm thuần túy kinh tế của Mác thực chất chỉ là quan điểm ngu dốt, quan điểm lạc hậu, quan điểm phản động mà thực ra chẳng hề là quan điểm cách mạng chân chính hay cao cả gì hết như chính giáo sư Nguyễn Văn Trung hay ông Trần Đức Thảo từng tưởng tượng.
    Khi phủ nhận ý nghĩa tinh thần khách quan của con người, tức bản chất duy tâm của tinh thần ấy, Mác chỉ quy bản chất tinh thần ấy chỉ là vật chất, hay thuần túy duy vật, đó là cái cốt lõi sai lầm đầu tiên và cũng là tối hậu của Mác, và một học thuyết không căn cơ như học thuyết Mác phải dẫn tới thất bại mọi mặt cũng chẳng có điều gì đáng ngạc nhiên cả. Nên nói khác đi, xã hội cũng chỉ là tập hợp mọi cá nhân con người, cái gì trong cá thể có, cái ấy trong xã hội tất có, hiểu xã hội như là bản thể siêu hình vượt lên cá nhân, vượt ra ngoài cá nhân, kiểu như ý nghĩa giai cấp, ý thức giai cấp, đấu tranh giai cấp theo kiểu huyền thoại, đó chỉ là niềm tin u mê của Mác vào biện chứng luận của Hegel, một ý thức huyền hoặc và một mục đích huyền hoặc để xây dựng một xã hội không giai cấp thật sự chỉ là điều dốt nát, phi thực tế, phản thực tế mà ai cũng có thể thấy được.

    Vậy thì hiện tượng bạo lực hay đấu tranh bạo lực trong con người chỉ là sự kiện thân xác và sự kiện tâm lý cụ thể mà chẳng có gì huyền hoặc kiểu siêu hình như Mác nghĩ cả. Cái nghịch lý lớn nhất của học thuyết Mác là vừa chủ trương duy vật lại vừa mê tín kiểu niềm tin siêu hình theo cách vô lối, một học thuyết chứa đựng điều cốt lõi mâu thuẫn như thế thì còn gì còn nói khoa học, còn nói lý luận khoa học, còn nói tính lô-gích như Mác tự nhận, mà thực chất nó chỉ hoàn toàn phiến diện, độc đoán, nông nỗi, cạn hẹp, và hoàn toàn phi lô-gích tức hoàn toàn ra ngoài mọi ý nghĩa thuần lý mà đầu óc con người có thể nhận thức được. Nên một học thuyết trái lý, mê tín như thế, chỉ có thể dùng bạo hành, bạo lực mới có thể biện minh hay bảo vệ cho nó được, đó là mọi điều gì mà các nước cộng sản cũ đều đã từng làm cho tới khi toàn bộ chúng đều sụp đổ và tan rã mà Liên Xô là nước đã đi đầu tiêu biểu nhất. Dùng bạo lực để chấm dứt bạo lực, đó chỉ là quan niệm ngây thơ, dốt nát, ảo tưởng của Mác, bởi vì không ai dùng nước để cứu lụt, dùng lửa để chửa lửa, dùng chỗ cong để chửa cho chỗ cong nếu không phải đó chỉ là những thứ đầu óc điên khùng hay mê muội.

    Như thế vấn đề con người bạo lực tay đôi với nhau giải quyết đã khó huống gì trở thành ý nghĩa xã hội. Chính người xưa đã nói oán nuôi oán bất tận là như thế. Dĩ trực báo oán hay dĩ đức báo oán đó cũng là cách làm mà người xưa đã biết. Nhưng dĩ trực báo oán thì biết đâu là đích thị trực. Còn dĩ đức báo oán dĩ nhiên cũng đâu có thể loại bỏ được hết mọi bản năng tự nhiên của con người. Như vậy có nghĩa đời chỉ là tương đối, chấp nhận được đối để sống chính là quan điểm nhân văn thiết thực và tích cực nhất. Đó không phải tiêu cực, mềm yếu hay đầu hàng, mà đó chỉ là quan điểm thấy đời là tương đối, mọi việc đều tương đối, thấy cái biến chuyển mới là tuyệt đối và thấy cái gì vượt lên trên hết mọi cái thường tính mới là tuyệt đối. Vậy nên quan điểm độc tài độc đoán, đó chính là quan điểm lạc hậu, nông cạn, quan điểm phi nhân và phi xã hội nhất mà Mác từng phạm phải. Chuyên chính vô sản, cho dù về sau Mác đã rút lại, nhưng đã quá trễ rồi, nó như một mũi gai nhọn đã đâm xì toàn bộ học thuyết được tự mệnh danh là nhân bản, là khoa học của Mác. Học thuyết Mác đã bị xẹp lép ngay khi đưa ra quan niệm chuyên chính vô sản như thế. Nó làm cho học thuyết Mác trở thành học thuyết duy nhất phủ nhận mọi tự do dân chủ của thế giới loài người một cách toàn diện, tuyệt đối, có hệ thống, vừa xuẩn ngốc và cũng vừa mang tính chất phản động, phản khoa học nhất.

    Thật ra giai cấp chỉ là ý nghĩa nhất thời trong xã hội, nó thay đổi theo thời gian, không gian cụ thể, luôn luôn biến chuyển, không cố định bao giờ, bao giờ cũng có và không bao giờ biến mất đi cả. Nói theo quan điểm toán học hay quan điểm thực tiển về xã hội, giai cấp cũng chỉ là một loại cơ cấu, một loại cơ chế, một loại cấu trúc nhất thời nào đó của xã hội. Mọi sự vật cụ thể hay thực tế trên thế gian này không thể có vật nào tồn tại mà không có cấu trúc tự thân của nó, xã hội loài người cũng thế. Nói khác sự vật không cấu trúc thì không tồn tại hay không có sự vật nào phi cấu trúc mà tồn tại, từ hạt nhân nguyên tử cho đến tư duy, trí tuệ của con người cũng vậy, cho dù đây là những dạng hoàn toàn phi vật chất. Thế thì mơ tưởng một xã hội phi giai cấp, không còn giai cấp chỉ là sự mơ hão, một kiểu mơ mộng không thực chất, không thực tế hay chỉ là u mê và điên dại. Nó chỉ nói lên tính cách ảo tưởng đẻ ra từ quan điểm lười biếng, quan điểm tham lam khô ng làm gì cũng hưởng của một số người phi thực tế và phi thực chất thế thôi. Vậy mà chủ nghĩa Mác đầu tiên hấp dẫn được một số người là theo kiểu như thế đó. Nên cái thuốc phiện ru rủ quần chúng của Mác cũng là như thế đó. Học thuyết Mác cho tư sản là phản động, cho tôn giáo là ảo mộng, nhưng chính quan điểm vô sản của Mác mới là quan điểm phản động, và quan điểm xã hội phi giai cấp của Mác mới là quan điểm ảo mộng. Nói chung tính cách ảo mộng hay huyễn tưởng của Mác do vì nó phi thực tế, phi khoa học hay phản khoa học là như thế.

    Bởi vì tài sản vật chất không bao giờ là mục đích của con người đúng nghĩa, nhưng nó luôn là công cụ thiết yếu cho cuộc sống của con người đúng nghĩa. Vậy mà Mác hô lên chủ nghĩa vô sản, đặc biệt là chủ nghĩa chuyên chính vô sản, đó thật là một kiểu tư duy diên dại mà trong lịch sử loài người trước Mác chưa hề từng có. Vấn đề của Mác ở đây không phải chỉ là vấn đề nhận thức phi lý mà còn cả ý nghĩa thần kinh trong đó. Bởi vì cơ chế xã hội nào cũng do con người tạo thành và do con người điều khiển. Con người lại bản chất không bao giờ thần thánh, vả giai giai cấp vô sản công nghiệp ban đầu cũng lại là giai cấp bị thiệt thòi, bị bất cấp mặt khả năng các phương diện trong xã hội, vậy mà Mác u mê vì mê tín vào biện chứng luận mà thần thánh nó lên, cho là giai cấp tiên phong của phát triển lịch sử, là giai cấp cách mạng của thời đại, quả thật chỉ nói càn, kiểu điếc không sợ súng, phủ nhận mọi đặc điểm khách quan tự nhiên của con người của xã hội, phủ nhận hay coi thường mọi ý nghĩa về giáo dục đào tạo và truyền thống lịch sử tự nhiên mà xã hội không lúc nào không có. Nên nói về những cái phi lý của học thuyết Mác là vô cùng, hay nói về các cái ngu của bản thân Mác thì thật tận mạng.

    Có nghĩa giải quyết mọi vấn đề về lịch sử và xã hội, không thể chỉ giải quyết hời hợt, nông cạn, hay theo thị hiếu, theo cảm tính như Mác đã làm, mà tuyệt đối phải theo tư duy khoa học và tư duy triết học. Tư duy khoa học là phải căn cứ theo tâm lý tức quy luật khách quan tâm lý tự nhiên của con người và xã hội, căn cứ vào cơ chế hoạt động khách quan tự nhiên của xã hội, không được bất chấp, coi thường hay vượt qua vượt ra những thứ đó, dầu trong ý nghĩa, khía cạnh hay mục tiêu nào cũng vậy. Bất chấp chúng tưc là phi khoa học, phản khoa học. Bởi khoa học chính đáng luôn phải dựa vào mọi quy luật khách quan tự nhiên, không bao giờ tạo mới ra chúng hay đi phản ngược lại chúng. Mác muốn làm biến đổi xã hội nhưng lại theo cách đó. Ông ta từng viết các nhà triết học từ xưa nay chỉ ngồi giải thích thế giới, nhưng là phải biến đổi nó. Đó là cách biến đổi phi tự nhiên, phản tự nhiên mà Mác tưởng tượng. Nên quan điểm triết học của Mác thật sự cũng chỉ là quan điểm vô lối, bởi nó ngổ ngáo, chủ quan, thiển cận và lệch lạc. Nên mọi cái hấp dẫn của học thuyết Mác từng một thời thật sự chỉ là những quan điểm gây sốc, nó hoàn toàn không phải chân phương hay thực tế. Mác luôn luôn dùng biện chứng luận để tự khẳng định, tự ngụy biện, tự huyễn tượng, tự ngụy tín là cơ chế tư bản chủ nghĩa phải tự đào mồ chôn nó, và thay thế vào đó bằng cơ chế xã hội lao động trực tiếp, được gọi là xã hội chủ nghĩa, mà thật ra chỉ là kiểu xã hội, kiểu kinh tế kế hoạch hóa máy móc, chủ quan, giả tạo, chẳng mang lại ý nghĩa năng suất hay thực chất hiệu quả nào cả. Xã hội đó là kiểu kỹ luật đồng loạt, kiểu cưỡng chế, kiểu rập khuôn, kiểu trại lính, hay kiểu kiểu trại chăng nuôi khổng lồ, nông trường chăn nuôi khổng lồ, trong đó chỉ có giới được nuôi hay bị nuôi và giới chủ nuôi hay phải nuôi mà không gì khác. Cuối cùng đấu tranh giai cấp mà Mác muốn loại bỏ trở thành đấu tranh giai cấp mới, giới thống trị cũ bị loại bỏ được thay vào giới thống trị mới, những danh từ nhằm chụp mũ cũ được thay vào bằng những danh từ hào nhoáng mới, nhưng nội dung cũng thế hay hoàn toàn phản nội dung cũng thế. Nói chung Mác đã gọt chân lịch sử xã hội cho vừa với chiếc giày tiền chế của mình, đó chỉ là cuộc phiêu lưu hoàn toàn điên khùng của Mác.

    Nói một cách cụ thể, Mác không những không hiểu đúng đắn ý nghĩa giai câp xã hội mà còn không hiểu kinh tế học một cách khách quan, đầy đủ, hay cũng chẳng hiểu ý nghĩa và đặc điểm của xã hội tư sản, xã hội tư bản gì sất. Xã hội tư sản được đi lên theo tiến trình tự nhiên của phát triển khách quan lịch sử, khi thế giới con người từ bỏ thế giơi hoang dã, đó cũng là lúc xã hội loài người bước vào xã hội tư sản. Mác phịa ra xã hội cộng sản nguyên thủy chỉ là sự cưỡng bức danh từ để nói lên điều trái khoáy hoặc không có. Khái niệm hoang dã hay nguyên thủy với khái niệm tài sản là hai khái niệm không cùng nội hàm hay nguyên tắc ý nghĩa thích đương nhau. Nên nói cộng sản nguyên thủy chẳng khác gì nói trong cái không có cái có, chỉ là điều phản lô-gích hay nghịch lô-gích, chỉ phỉnh được người thiếu tư duy lô-gích còn thực chất không phỉnh ai được. Cũng vậy khái niệm cộng sản khoa học cũng chỉ là ý niệm mơ hồ, vì đã có sự can dự của ý chí chủ quan con người thì làm gì còn có khoa học. Nên nói cho cùng ý nghĩa của tư duy lý luận của Mác phần lớn chỉ là ý niệm lý luận già hàm hoặc mê sảng. Đó là thứ ngụy lô-gích nhưng luôn luôn được tự mệnh danh là lô-gích khách quan, là chân lý tuyệt đối đúng, là chân lý tất yếu hay đỉnh cao của trí tuệ loài người.

    Thật ra xã hội tư sản là khách quan, không ai làm ra, chế ra nó theo cách chủ quan cả. Nó là sự tiến hóa tất yếu, khách quan của xã hội loài người. Đến phiên xã hội tư bản cũng thế, cũng không ai chế ra hay ngụy tạo ra cả. Nó phát triển do khoa học kỹ thuật con người phát triển mà đi lên. Không có khoa học kỹ thuật cũng không thể nào có xã hội tư bản, mà khoa học kỹ thuật phát triển là con đường tự nhiên của xã hội loài người, thế thì xã hội tư bản cũng thế, nó không hề giả tạo hay cũng chẳng bao giờ giả tạo. Nó như một cổ xe tiến hóa hoàn toàn tinh vi, tự động, tinh tế, hiệu lực, hiệu quả mà phát triển xã hội loài người qua nhiều ngàn năm tạo ra mới có. Thế mà Mác chẳng khác gì người yêu cầu phải phá bỏ chiếc xe tiện dụng, phá bỏ cổ máy hiệu quả đó để bắt mọi người phải cùng xuống đi bộ. Nếu chẳng hạn, nếu chiếc xe, cổ máy đó còn có gì trục trặc, chưa ổn nơi nào đó, tại sao không sửa chữa nó, không hoàn thiện nó, lại phá bỏ nó đi, đó quả thật là quan điểm khùng điên và phi lý của Mác mà ngày nay thời đại công nghiệp điện tử, thời đại toàn cầu hóa hội nhập, mọi người được nhận ra mọi cái ngu và mọi cái phản động của Mác. Bởi vì Mác chỉ mới nhìn ra được tính cách vi mô mà hề thấy được ý nghĩa vĩ mô của của toàn nền kinh tế xã hội tư bản. Ý nghĩa bóc lột của Mác chỉ là kiểu chẽ sợi tóc làm tư, chỉ nêu ra chỗ phiến diện, đặc thù, chỉ thấy cây mà không thấy rừng, chỉ kiểu bới lông tìm vết mà không hề nhìn được vào cái đại tượng, vào chỗ bao quát. Mác hoàn toàn không hiểu được các yêu cầu về tái đầu tư, tái sản xuất hay sản xuất mở rộng của xí nghiệp tư bản trong toàn nền kinh tế. Không biết tính toán kinh tế chỉ tới chỗ phá sản hay chịu chết. Quy luật thị trường cạnh tranh lành mạnh là nguyên tắc sống còn lành mạnh của xã hội tư bản. Không có nguyên tắc đó xã hội hay kinh tế tư bản phải chết, không cần gi Mác phải nổ lực đào mồ chôn nó vừa nói phao vu lên là nó tự chôn. Mác cũng chẳng hiểu gì về quy tắc thị trường, quy tắc hàng hóa, quy tắc tiền tệ và ngan hàng. Mác chỉ thấy tiền đẻ ra tiền và gào thét đó là hiện tượng bóc lột. Mác không hề thấy tiền tệ là khám phá thông minh và tiện ích nhất trong lịch sử nhân loại. Mác hô hào một xã hội không dùng tiền tệ để tránh bóc lột, không dùng tài sản để tiêu diệt giai cấp, chỉ dùng kinh tế trao đổi trực tiếp để phá bỏ nhà nước và phá bỏ pháp luật, Mác cho đó là xã hội không giai cấp, xã hội không còn thống trị mà lại không thấy rằng thời kỳ quá độ chuyên chính vô sản mà Mác chủ trương lại là thời kỳ thống trị kiểu bất công mút mùa lệ thủy không bao giờ nó tự bỏ đi như Mác đã khờ khạo tiên đoán, quan điểm sai lầm đó trong thực tế quả thật mới chính là tội lỗi hay tội ác của Mác đã từng cố ý hay vô tình gây ra cho nhân loại nhiều mặt trong quá khứ.

    Vậy nói chung lại, sự sai lầm của học thuyết Mác là vô số và những hậu quả các sai lầm đó là vô cùng, không thể nào chỉ trong vài mươi phút hay một bài viết ngắn mà hoàn toàn nói hết. Ở đây cần trở lại chủ đề chính và khoanh lại nơi hai chủ điểm là vấn đề bạo lực trong xã hội cũng như tính thực tế của giai cấp trong xã hội. Đây là ý nghĩa khách quan thực tế không bao giờ loại bỏ được, vì mọi loại bỏ chỉ là ngây thơ và ảo tưởng, nên chỉ có thể cải thiện hay phần nào làm nhẹ nhàng đi được chúng. Giải pháp đó vừa mang tính cách lý thuyết vừa mang tính cách thực tế. Lý thuyết đó là phương pháp khoa học và thực tế đó là ý nghĩa củ kinh tế và giáo dục. Khoa học kinh tế, tài chánh và khoa học xã hội khiến nâng cao mức sống, nâng cao phúc lợi cho nhiều người, nâng cao mức sống tối thiểu mà những người nghèo khổ gặp phải. Phương pháp giáo dục nhằm cải thiện nhận thức, cải thiện cải thiện quan niệm, tâm lý ý thức nơi cá nhân con người. Khoa học pháp luật tạo ra các sự ổn định và công bằng tương đối trong xã hội. Nên nền tảng tự do dân chủ đúng nghĩa và khách quan là yếu tố bắt buộc phải có trong mọi xã hội, trong toàn thể xã hội. Đó là sự giải phóng mọi ẩn ức cho tâm lý cá nhân con người cũng như tâm lý toàn xã hội. Có nghĩa mọi sự độc tài áp chế đều là những ức chế, áp đặt giả tạo cho cá nhân và xã hội, nó chẳng bao giờ mang tính kết quả hay thành công đúng nghĩa. Giống như trói người ta lại để dắt người ta đi theo mình, thực chất chỉ là phi nhân và phản xã hội, chẳng khác gì kẻ vụng múa mà bắt ép người khác phải xem và nhất thiết tán thưởng mình. Cho nên vừa phi khoa học, phản khách quan, nhưng lại vừa chuyên chính, đó là sự tính toán sai lầm, sai trái, phản xã hội và phản nhân văn của Mác. Tội lỗi lớn nhất của Mác là tội hủy diệt nền dân chủ tự do truyền thống và khách quan do lịch sử tạo nên trong lâu dài của cả nền văn minh hàng ngàn năm của nhân loại. Học thuyết Mác đã từng làm chết oan uổng cả trăm triệu người trên toàn thế giới là do những oan khúc đó. Nơi con người luôn có hai loại bạo lực là bạo lực thân xác và bạo lực ý thức. Bạo lực thân xác là bạo lực sinh vật, sinh vật nào cũng có, mà con người cũng chỉ một giống sinh vật. Bạo lực ý thức là bạo lực tinh thần, muốn khống chế người khác phải theo ý mình, đó là đặc trưng duy nhất nơi con người và nơi xã hội loài người. Các chế độ độc tài đều là dạng bạo lực tinh thần. Đó là ý nghĩa tồi tệ nhất mà lịch sử nhân loại từng vướng phải. Tôn giáo cũng là một thứ ý thức hệ nhưng tôn giáo thường không chủ trương bạo lực tinh thần nhưng ngược lại luôn khuyến khích tinh thần tự do. Trái lại ý thức hệ chủ nghĩa Mác là thứ tôn giáo kiểu thế tục chủ trương áp dụng bạo lực tinh thần trong một chế độ độc tài chuyên chính một cách tệ lậu nhất. Đây cũng là khía cạnh tội lỗi hay tội ác trên bình diện nhân loại kể cả lịch sử mà chính Mác đã gây ra nghiêm trọng nhất. Bạo lực vật chất cũng là bạo lực kinh tế, sự cưỡng hành, cưỡng đoạt tài sản nhiều người nhân danh đấu tranh giai cấp một cách lừa dối và giả tạo, sự bạo lưc kinh tế trong quan điểm kinh tế bao cấp, sự bạo lực tinh thần ý thức, như sự bó buộc tuân thủ giả tạo trong chuyên chính, đó chính là những bài học đau thương cho nhiều mảng của nhân loại trong suốt gần trăm năm đều do tư duy sai lầm của Mác mang lại tất cả. Cho nên giải quyết tệ nạn bạo lực trong xã hội lại bằng chính biện pháp bạo lực, tính toán đó Mác tưởng là thông minh, thực tế, hiệu quả và khoa học, nhưng thực chất chỉ là ngu tối, phản nhân văn và phản khách quan khoa học mà chính Mác đã vấp phải một cách đáng chê trách, đáng chê cười và cũng là rất đáng tiếc trong lịch sử nền văn minh của toàn nhân loại cho đến nay nói chung. Tất cả những điều đó mọi người càng ngày càng sáng tỏ ra mà không thể chỉ ngờ nghệch hay ngu muội hoặc hoàn toàn mê tín giống như trước kia được nữa.

    ĐỈNH NGÀN
    (19/7/16)

  3. VẤN ĐỀ CẠNH TRANH SINH TỒN TRONG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

    Cạnh tranh sinh tồn trong thế giới loài vật là sự tự nhiên, bởi vì thế giới loài vật là thế giới sự sống, nó vượt lên tính chất vô cơ của vật chất thường. Thế giới loài người cũng là thế giới sự sống, tức thế giới sinh vật, nhưng con người có nhận thức, có lý trí, con người muốn chủng loại của mình đặc biệt hơn, mang tính nhân giới hơn, đó là điều khiến con người rất quan tâm tính cách canh tranh sinh tồn trong thế giới của mình, muốn loại bỏ nó, nhưng loại bỏ được hay không lại là chuyện khác, hay làm thế nào cho nó được cải thiện hơn, đó là ý nghĩa nhiều học thuyết từ cổ chí kim đã được đưa ra.

    Trong tạp chí Đại Học (Huế) số 16 (1960) trước kia có bài viết của giáo sư Trần Văn Toàn, “Cạnh tranh sinh tồn trong nhân giới”, đây là bài ngày nay cũng còn rất đáng đọc. Bởi trong bài viết này, giáo sư Toàn chủ yếu phân tích các quan điểm học thuyết có liên quan của Hegel và Marx. Quan điểm biện chứng về chủ nô theo quan niệm của Hegel, và quan niệm về đấu tranh giai cấp của Marx. Nói khác đi quan niệm duy tâm, ý thức của Hegel, và quan niệm duy vật, xã hội, hay quan niệm kinh tế của Mác. Kẻ viết bài này cách đây hơn nữa thế kỷ cũng đã từng có những giờ học với giáo sư Trần Văn Toàn tại Đại học Văn Khoa Saigon khi ấy, bây giờ giáo sư Toàn được nghe nói đã qua đời từ lâu rồi tại một nơi nào đó ở Phi châu, và trước khi phóng bút cho bài viết ngắn này, tôi được xin nghiêng mình tưởng niệm lại vị thầy cũ của mình. Mặc dầu bài viết của giáo sư Toàn đọc rất thú vị, có nhiều điều rất bổ ích kể cả đến nay, nhưng phải công nhận bài viết còn rất đặc quẹo tính cách giáo khoa thư chẳng khác gì các bài viết phần nhiều đã có của ông Trần Đức Thảo trước đây, và đó là điều mà mọi người đọc ngày nay cần nên chỉnh đốn lại.

    Bởi đề cập đến ý nghĩa vấn đề cạnh tranh sinh tồn ngày nay người ta không thể còn dừng lại ở quan niệm của Hegel hay Mác cách đây đã vài trăm năm rồi, dừng lại ở các quan điểm triết học thuần túy tư biện nữa, nhưng phải đi vào các quan điểm thực tiển, nhất là triết học khoa học thực tiển và kể cả khoa học triết học thực tiển. Có nghĩa vấn đề cần được xem xét trên góc độ khoa học thực tế cũng như phương pháp luận triết học thực tế, không thể nào còn thỏa mãn với các ý nghĩa chỉ mang tính cách lý luận suông hay chỉ mang tính cách gọi là biện chứng suông như thói quen của số đông người mà nhiều thập niên thậm chí cả trên già nửa thế kỷ trước kia hay vốn có.

    Có nghĩa cạnh tranh trong thế giới sinh học hay trong xã hội loài người là hoàn toàn có thật, vì nó hoàn toàn khách quan và thực tế. Người ta không thể phủ nhận nó cũng không thể quay lưng lại nó, nên vấn đề có thể thoát ra khỏi nó được hay không hoặc cải thiện cho tốt đẹp hơn đối với nó như thế nào vừa là ý nghĩa thực hành cũng như cả ý nghĩa lý thuyết. Ý nghĩa lý thuyết là ý nghĩa khoa học bao quát, và ý nghĩa thực hành là ý nghĩa thực tế hay thực nghiệm. Như vậy cũng có nghĩa các quan niệm ý thức hệ như của Mác hay của Hegel trước đây thực chất đã quá lỗi thời rồi, vì nó hầu như chỉ mang tính chất tư biện và chủ quan, phiến diện.

    Thật vậy vấn đề cạnh tranh trong xã hội loài người thực chất được xây dựng hay đặt nền tảng trên hai yếu tố, yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Vì nếu chỉ cần thiếu một trong hai yếu tố này, ý nghĩa cạnh tranh sinh tồn cũng không được đặt ra hay không thể đặt ra trong thực tế. Vả chăng cạnh tranh cũng không phải chỉ mang ý nghĩa sinh học, tức tồn tại sinh học mà còn là ý nghĩa tâm lý, hay sự thôi thúc tâm lý. Giáo sư Toàn đã đưa ra quan điểm ba vòng tròn rất hay và rất chính xác. Nhưng ba vòng tròn đó đều chỉ chung ý nghĩa môi trường tồn tại hay ý nghĩa phạm vi của tâm lý chủ thể nói chung trong thực tế. Chính môi trường là yếu tố quyết định hay nền tảng của cạnh tranh, cũng như yếu tố tâm lý là mục tiêu hay động lực của sự cạnh tranh. Rõ ràng cả hai yếu tố này đều mang tính cách sử tính hay tính cách biến chuyển qua không gian hoặc thời gian chuyển biến của nó. Có nghĩa chẳng có giới hạn hay phạm vi bó hẹp nào cả, cũng chẳng có phạm trù xác định nào cả, như phạm trù giai cấp mà Mác đã từng tuyên bố.

    Như vậy ý nghĩa thân tộc, ngay cả trong phạm vi gia đình cũng chưa hẳn đã triệt tiêu được tính cạnh tranh trong thế giới xã hội loài người. Các ví dụ mà giáo sư Toàn đưa ra thật ra chỉ mang tính cách biểu kiến. Bởi vì vấn đề chính yếu là bản thân cá nhân con người mà không đâu khác. Bản năng sinh tồn, bản năng truyền chủng, đó là lý do hay động lực chính của ý nghĩa cạnh tranh sinh tồn mà không gì khác. Cá thể sinh vật đều luôn muốn sống, đều luôn muốn được tồn tại, đều luôn muốn giữ mãi tính cách truyền nòi của riêng mình, đó chính là vấn đề không bao giờ được lẫn lộn. Tính cách hay động lực của cạnh tranh sinh tồn là nằm ở đây mà không phải nằm ở nơi nào khác. Nhưng cái đó thậm chí cũng không phải do bản thân cá nhân quyết định, mà nó như một thứ bản năng siêu bản thân, bị thức đẩy một cách tự nhiên, mà ngay cả chính cá thể đó nhiều khi cũng không thể vượt qua hay cản lại được. Ví dụ như tình mẫu tử, đó như là mối dây ràng buộc sâu xa nhất vốn làm nền tảng cho mọi liên quan khác mà con người hay ngay cả trong giới sinh vật cũng không sao tách rời nó được.

    Kế đến yếu tố môi trường là ý nghĩa nền tảng mang tính quyết định không kém. Cá thể cạnh tranh nhau vì môi trường hạn chế, tức không gian sinh tồn và phát triển ở mặt nào đó bị hạn hẹp. Nếu không có mọi sự hạn hẹp nào đó, ý nghĩa cạnh tranh tất cũng không có. Trong loài vật đó là môi trường sống tự nhiên. Trong xx hội loài người đó là ý nghĩa xã hội, ý nghĩa kinh tế, ý nghĩa tâm lý. Ba ý nghĩa này đều luôn gắn kết nhau, hay ý nghĩa tâm lý và ý nghĩa vật chất nhiều khi không thể tách rời nhau, mà cùng tác động hỗ tương và đều đòi hỏi nhau mà có. Yêu cầu được nhìn nhận, tức được người khác hay xã hội, cộng đồng thừa nhận, đó là ý nghĩa chính yếu trong cuộc sống con người. Nhưng đây không phải chỉ là tâm lý hoàn toàn trừu tượng như biện chứng chủ nô mà Hegel từng vạch ra, trái lại nó vẫn đi liền theo những yếu tố vật chất chung quanh, làm nền, hay hỗ trợ hoặc quyết định cho nó mà mọi người đều biết. Như vậy nếu thuần là yếu tố biện chứng kiểu thuần duy tâm như Hegel nêu ra, hay yếu tố biện chứng thuần kinh tế, vật chất, hay thuần giai cấp như Mác phát biểu đều sai lầm hay phiến diện.

    Có nghĩa yếu tố tâm lý cá nhân và yếu tố tâm lý xã hội như hai thành tố luôn gắn kết vào nhau không thể tách rời nhau được, và mọi ý nghĩa cạnh tranh sinh tồn trong xã hội loài người không chỉ thuần là sinh học hay kinh tế mà cả ý nghĩa tâm lý cũng là điều không thể phủ nhận được. Sự phiến diện của Mác là chỉ xoáy quanh ý nghĩa kinh tế, vật chất, hay chỉ xoáy quanh trục kinh tế hoặc giai cấp, mà không hề nhìn xa hơn kinh tế, tức chỉ nhìn máy móc, cạn hẹp, cứng nhắc, cố chấp về kinh tế, về giai cấp kinh tế mà không nhìn rộng rãi ra được bối cảnh toàn bộ của kinh tế hay nguồn gốc chính yếu của kinh tế từ đâu mà có. Nói cách khác, ý nghĩa kinh tế của xã hội con người không thể nào chỉ quy hẹp vào cá nhân hay giai cấp, mà đó chính là toàn thể cơ chế chung cua toàn xã hội cũng như sự phát triển của lịch sử. Nói cách dễ hiểu, nếu không có phát triển khoa học kỹ thuật mọi loại qua thời gian và không gian cho dù bất cứ ở đâu và trong trường hợp thế nào, cũng không thể phát triển ra kinh tế, không thể làm cho con người tách khỏi được thế giới sinh vật, chính là điều luôn luôn cần lưu tâm tới.

    Như vậy quan điểm đấu tranh giai cấp của Mác thực sự chỉ là quan điểm chủ quan, phiến diện, cạn hẹp hay thậm chí huyền hoặc và mê tín, vì nó không tiêu biểu cho cái gì thực tế hay cụ thể cả.
    Bởi mọi sự giành giật thuần túy về kinh tế thực chất chỉ làm bế tắt và tiêu diệt kinh tế, không hề tạo ra gì mới cho tồn tại hay phát triển kinh tế. Bởi kinh tế là yêu cầu đáp ứng cho nhu cầu của toàn xã hội, mà nhu cầu xã hội thì luôn luôn phát triển và thay đổi, thế nên kinh tế không bao giờ thỏa mãn kiểu cứng nhắc hay máy móc như Mác tiên liệu, đó là quan điểm ấu trĩ và chủ quan, nông cạn trong quan điểm kinh tế xã hội của Mác. Thật ra sự phát triển kinh tế xã hội không bao giờ có trung tâm nào cứng nhắc, bất định cả, nó thay đổi theo hoàn cảnh lịch sử tùy theo thời kỳ hay giai đoạn, có nghĩa yếu tố khoa học kỹ thuật là không có sự hạn chế nào nhất định về không gian và thời gian, hay yếu tố xã hội phát triển gắn liền vào tính cách tự do dân chủ, tính cách tự phát hay ngãu nhiên nói chung mà không theo một quy tắc lịch sử nào hoàn toàn cứng nhắc như Mác tiên liệu qua quan niệm máy móc về các hình thái xã hội kiểu biện chứng luận mang tính cách huyền hoặc, siêu hình mà Mác tuyên bố và mọi người đã biết.

    Nói chung lại, vấn đề cạnh tranh sinh tồn trong xã hội loài người là vấn đề mang tính cách lịch sử, tức thay đổi, chuyển hướng theo thời gian, hoàn cảnh và sự phát triển của khoa học kỹ thuật để nhằm giải quyết nó. Đây là ý nghĩa thực tế mà không hề mang ý nghĩa ý thức hệ mơ hồ, huyễn tưởng nào cả. Nó không bao giờ mất đi mà chỉ biến chuyển màu sắc theo với mọi phát triển đi lên của kinh tế và xã hội. Yếu tố văn hóa, yếu tố khoa học kỹ thuật là con đường cải thiện và giải phóng duy nhất về nó mà không hề là chiều hướng đấu tranh giai cấp theo kiểu huyễn hoặc mà Mác đã mơ hồ tưởng tượng. Bởi sự cạnh tranh nơi ý thức con người luôn luôn là ý nghĩa tất yếu. Nhưng sự cạnh tranh đó không phải chỉ luôn luôn tiêu cực mà có khi mang ý nghĩa cần thiết và tích cực. Thiên nhiên không phải chỉ luôn luôn mù quáng mà luôn có cái lý tiềm ẩn của nó. Nếu quan niệm thuần túy duy tâm tư biện của Hegel có phần nào phi lý, quan niệm duy vật kiểu mù quáng mơ hồ của Mác cũng chẳng phải mang tính cách hữu lý hay sáng tỏ gì. Nói khác đi Mác chỉ nhìn vấn đề theo cách võ đoán, máy móc và phiến diện, tính chất bất chấp lịch sử khách quan và bất chấp trí tuệ con người nơi quân điểm của Mác là như thế. Xã hội tư bản chủ nghia thật ra nó không thể và cũng không bao giờ dẫy chết như Mác mù quáng tiên liệu nhưng nó sẽ hoàn toàn thích nghi và phát triển tự nhiên theo mọi phát triển của lịch sử khách quan. Lịch sư khách quan đó có lịch sử tự nhiên cũng như lịch sử phát triển của trí tuệ con người, đó là điều Mác không bao giờ nghĩ tới, vì Mác chỉ đồng hóa trí tuệ với vật chất thuần túy, đó chính là chỗ nông cạn mang tính cách thiên tài thật sự và hết sức tự nhiên mà Mác đã từng thể hiện qua chính mọi khía cạnh trong toàn bộ hệ thống lý thuyết của ông ta.

    ĐẠI NGÀN
    (19/7/16)

  4. HỮU THẦN HAY VÔ THẦN ?
    DUY TÂM HAY DUY VẬT ?

    Trong tạp chí Đại Học (Huế) số 16 (1960) vừa được ông Nguyễn Văn Lục số hóa và đưa lên báo mạng DCVonline.net có ba bài viết dễ được chú ý, bài của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên nói về ý niệm Thượng đế trong Kytô giáo, bài của linh mục Trần Thái Đỉnh nói về triết học Phật Thích Ca, bài của cố giáo sư Nguyễn Đăng Thục có nhan đề “Trò ảo hóa”. Tôi đã đọc lược hết lại cả ba bài này, nhận thấy khá thú vị, và cũng nghĩ rằng hẳn có nhiều người Việt Nam ngày nay không rành lắm về các khía cạnh triết học liên quan đến những chủ đề đó, do vậy mới có nhã ý viết ra bài phóng bút ngắn, chớp nhoáng này, coi như làm một việc công quả, để mọi người lưu ý.

    Trước hết phải nói đây là những chủ đề muôn thuở của nhân loại, bởi vì nó cứ còn mãi, cho dù người ta có thể lý giải hay cảm nhận chúng bằng nhiều cách khác nhau, nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ tát cạn được, và do thế cũng chẳng bao giờ kết thúc. Bởi vì nếu kết thúc được cũng chẳng còn vấn đề gì để phải nói trong ý nghĩa cuộc đời này nữa.

    Đây là những vấn đề đã có ngay từ đầu, tức từ thời cổ đại, hay ngay cả kể từ lúc đầu tiên khi con người xuất hiện trên trái đất. Kêt từ đó nó không những thuộc Đây là những vấn đề đã có ngay từ đầu, tức từ thời cổ đại, hay ngay cả kể từ lúc đầu tiên khi con người xuất hiện trên trái đất. Kêt từ đó nó không những thuộc lãnh vực nhận thức, lãnh vực triết học, mà cả lãnh vực niềm tin, tức lãnh vực tôn giáo. Thật ra, ngay cả chính triết học cũng là khởi đầu cho tôn giáo, hoặc giả ngay triết học cũng khởi đầu cho cả khoa học, nhưng triết học thì cứ còn đó, riêng tôn giáo và khoa học lại tách ra thành những ý nghĩa khác.

    Có thể nói ngay, hữu thần là niềm tin vào một đấng Thượng đế, một đấng sáng tạo đầu tiên ra vũ trụ vạn vật. Niềm tin đó có thể có trong triết học hay tôn giáo theo nhiều dạng khác nhau. Vô thần trái lại không tin tưởng vào một đấng thần linh nào cả, cho rằng vũ trụ tự có, hay nói cho cùng vũ trụ thuần túy chỉ là tồn tại vật chất.

    Duy tâm tin vào sự tồn tại tinh thần, của ý thức riêng của con người. Duy vật trái lại phủ nhận hay không tin vào bất kỳ tồn tại nào khác ngoài sự tồn tại của duy nhất vật chất. Điều đó cũng có nghĩa hữu thần thì hay gắn với tính chất duy tâm, còn ngược lại vô thần thì chắc chắn buộc phải gắn với ý nghĩa duy vật.

    Nhưng thật ra duy là gì ? Duy chỉ là thái độ, quan điểm, chủ trương nhằm hướng tới cái gì đó, cho rằng chỉ có cái đó mới là thật. Duy như vậy cũng chỉ là lòng tin, là niềm tin thuần túy của ý thức mà không gì khác. Duy cũng chưa hẳn đã hoàn toàn là chân lý khách quan hay chưa hoàn toan là ý nghĩa hoặc giá trị khoa học. Bởi vậy thái độ dùng duy này để phủ nhận duy kia cũng là hoàn toàn tuyệt đối đúng đắn.lãnh vực nhận thức, lãnh vực triết học, mà cả lãnh vực niềm tin, tức lãnh vực tôn giáo. Thật ra, ngay cả chính triết học cũng là khởi đầu cho tôn giáo, hoặc giả ngay triết học cũng khởi đầu cho cả khoa học, nhưng triết học thì cứ còn đó, riêng tôn giáo và khoa học lại tách ra thành những ý nghĩa khác.

    Có thể nói ngay, hữu thần là niềm tin vào một đấng Thượng đế, một đấng sáng tạo đầu tiên ra vũ trụ vạn vật. Niềm tin đó có thể có trong triết học hay tôn giáo theo nhiều dạng khác nhau. Vô thần trái lại không tin tưởng vào một đấng thần linh nào cả, cho rằng vũ trụ tự có, hay nói cho cùng vũ trụ thuần túy chỉ là tồn tại vật chất.

    Duy tâm tin vào sự tồn tại tinh thần, của ý thức riêng của con người. Duy vật trái lại phủ nhận hay không tin vào bất kỳ tồn tại nào khác ngoài sự tồn tại của duy nhất vật chất. Điều đó cũng có nghĩa hữu thần thì hay gắn với tính chất duy tâm, còn ngược lại vô thần thì chắc chắn buộc phải gắn với ý nghĩa duy vật.

    Nhưng thật ra duy là gì ? Duy chỉ là thái độ, quan điểm, chủ trương nhằm hướng tới cái gì đó, cho rằng chỉ có cái đó mới là thật. Duy như vậy cũng chỉ là lòng tin, là niềm tin thuần túy của ý thức mà không gì khác. Duy cũng chưa hẳn đã hoàn toàn là chân lý khách quan hay chưa hoàn toan là ý nghĩa hoặc giá trị khoa học. Bởi vậy thái độ dùng duy này để phủ nhận duy kia cũng là hoàn toàn tuyệt đối đúng đắn.

    Thế nhưng nếu không tin vào bá kỳ điều gì cả, vào hướng nào cả, phỉ chăng lại chỉ là thuyết hoài nghi chủ nghĩa ? Như không tin vào sự vật là có thật, không tin vào thế giới vật chất hay vật chất là có thật, điều đó vẫn có thể được. Nhưng như vậy lại không thể không tin vào chính sự hoài nghi của mình, nghĩa là chủ thể đang hoài nghi bắt buộc phải có, đó là điều không thể nào phủ nhận được, vì phủ nhận liền trở thành phi lý, thành mâu thuẫn, thành nghịch lý. Tức mọi sự phủ nhận đều có thể có được, chỉ trừ ra chính sự phủ nhận đó, nếu không tất cả chỉ trở thành vô nghĩa. Sự bác khước chính quan điểm hoài nghi là vậy, và sự không phủ nhận được ý nghĩa của duy tâm chính là vậy. Vì cho dầu vật chất không có thì chính cái tâm ta vẫn phải có hay không thể không có, như thé cái tâm chính là khởi điểm, là cái trụ, là năng lực đo được mọi vật, giống như Protagoras, vị hiền triết Hy lạp nổi danh khi xưa đã nói, con người là thước đo muôn vật.

    Giờ lại tiến lên thêm một bước, không có thân xác ta cũng không thể có tâm của ta. Thân xác là công cụ thiết yếu không thể không có, không thể phủ nhận, nó làm nền cho cái tâm cắm lên đó, nhưng nó không bao giờ thay thế được cho cái tâm, bởi thân xác mà chết đi cái tâm cũng không còn hay không thể nào hoạt động được. Nhưng xác thân là vật chất, tuy vậy không phải là vật chất đơn thuần, vì vật chất đơn thuần không hề có sự sống, nhưng thân xác thì ngược lại, thân xác có sự sống. Vậy vật chất cũng không thể thay thế được cho sự sống, dù nếu không có vật chất cũng không thể có sự sống. Vật chất là công cụ tối cần, công cụ thiết yếu cho sự sống, nhưng vật chất vẫn không thể thay thế cho sự sống, vật chất hoàn toàn khác với sự sống. Bởi vật chất luôn hữu hình, cụ thể, còn sự sống luôn vô hinh, trừu tượng. Đó là điều phân biệt nền tảng nhất mà không thể ai có cách gì để phủ nhận.

    Hơn thế nữa, nếu không có sự sống cũng không có ý thức của ta, không có cái tâm của ta. Có nghĩa giữa sự sống và cái tâm là cùng bản chất còn vật chất và sinh thể thì cùng bản chất mà lại khác nhau cấp độ tồn tại hay hiện hữu vậy thôi. Điều đó có nghĩa duy tâm bao giờ cũng có lý hơn duy vật, vì duy tâm có suy đoán, có nhận thức, có lý luận, còn duy vật chỉ là cảm nhận thuần túy, cám tính đơn giản thuần túy. Bởi có những cái ta thấy có chưa chắc đã có, ngược lại có những cái ta không thấy có chưa chắc đã không có. Câu chuyện sợi dây thừng và con rắn trong kinh Phật, hay chuyện ảo ảnh trong sa mạc là điều phần nhiều mọi người đều biết.

    Đến đây chúng ta hãy tiến sâu thêm vào lãnh vực khoa học thực nghiệm. Thật sự vật chất trên thế gian này đều cấu tạo duy nhất bởi các nguyên tử, đó là điều ngày nay không ai có thể phủ nhận. Nhưng mỗi nguyên tử đều là một cấu trúc, giữa là hạt nhân cũng có cấu trúc riêng của nó, bên ngoài là những vòng quay của các hạt điện tử bao quanh, có nghĩa cũng là dạng cấu trúc. Có nghĩa mọi sự vật tồn tại đều không thể không có cấu trúc, trừ ra những hạt cơ bản trong hạt nhân cùng những điện tử là những dạng thuần túy năng lượng. Ngày nay người ta còn biến những hạt cơ bản có thể biến đổi lẫn nhau, có nghĩa vật chất nói cho cùng là cấu trúc năng lượng, nhưng năng lượng là cái gì không ai cụ thể hóa ra được. Năng lượng là cái gì đó có thật, nhưng nó lại không có hình dáng, có nghĩa cái có thật cũng chưa chắc là cái chúng ta có thể nhìn thấy được. Nhưng tinh thần, ý thức có phải năng lượng hay không ? Đó cũng là dạng năng lượng, nhưng nhất thiết không phải năng lượng kiểu vật chất, năng lượng vật chất không nhận thức được cũng không tự nhận thức được, trong khi đó năng lượng tinh thần nhận thức được mọi vật đồng thời cũng tự nhận thức nó được. Tinh thần hay ý thức nói chung mang tính chủ thể, trái lại vật chất không bao giờ mang tính chủ thể. Cái tôi hay cái ngã (ego) nơi mỗi người, đó là cái tôi tinh thần, cái tôi ý thức, không bao giờ là cái tôi thân xác, mặc dầu thân xác mới là cái nhìn thấy được và mới là điều phân biệt trước tiên được. Thế nhưng con người không những khác nhau về thân xác lại còn khác nhau về ý thức, đấy cái tâm và cái vật đều khác nhau kiểu như thế.

    Thật ra thân xác và giác quan là cửa ngõ đầu tiên để con người nhận thức thế giới. Thân xác là công cụ mang giác quan, còn giác quan là con đường dẫn sự vật ngoại giới vào với ý thức hay tinh thần nhận biết của con người. Chính con người hay ý thức con người sử dụng giác quan mà không phải ngược lại. Có nghĩa chỉ ông chủ mới sử dụng đồ vật mình có, không phải đồ vật sử dụng được ông chủ. Đấy tính cách duy vật và duy tâm cũng khác nhau như thế. Vật chỉ là dụng cụ thiết yếu của tâm nhưng vật không bao giờ là ông chủ được của tâm. Tâm có thể sai khiến được vật, nhưng vật chỉ có thể ảnh hưởng, tác động vào tâm nhưng tuyệt đối vật không thể nào sai khiến được tâm, chỉ đơn giản vật không bao giờ là chủ thể cả. Không phải chủ thể thì lấy gì sai khiến được người khác, đó chỉ là chân lý hoàn toàn đơn giản.

    Giờ lại tiến lên thêm một bước, không có thân xác ta cũng không thể có tâm của ta. Thân xác là công cụ thiết yếu không thể không có, không thể phủ nhận, nó làm nền cho cái tâm cắm lên đó, nhưng nó không bao giờ thay thế được cho cái tâm, bởi thân xác mà chết đi cái tâm cũng không còn hay không thể nào hoạt động được. Nhưng xác thân là vật chất, tuy vậy không phải là vật chất đơn thuần, vì vật chất đơn thuần không hề có sự sống, nhưng thân xác thì ngược lại, thân xác có sự sống. Vậy vật chất cũng không thể thay thế được cho sự sống, dù nếu không có vật chất cũng không thể có sự sống. Vật chất là công cụ tối cần, công cụ thiết yếu cho sự sống, nhưng vật chất vẫn không thể thay thế cho sự sống, vật chất hoàn toàn khác với sự sống. Bởi vật chất luôn hữu hình, cụ thể, còn sự sống luôn vô hinh, trừu tượng. Đó là điều phân biệt nền tảng nhất mà không thể ai có cách gì để phủ nhận.

    Hơn thế nữa, nếu không có sự sống cũng không có ý thức của ta, không có cái tâm của ta. Có nghĩa giữa sự sống và cái tâm là cùng bản chất còn vật chất và sinh thể thì cùng bản chất mà lại khác nhau cấp độ tồn tại hay hiện hữu vậy thôi. Điều đó có nghĩa duy tâm bao giờ cũng có lý hơn duy vật, vì duy tâm có suy đoán, có nhận thức, có lý luận, còn duy vật chỉ là cảm nhận thuần túy, cám tính đơn giản thuần túy. Bởi có những cái ta thấy có chưa chắc đã có, ngược lại có những cái ta không thấy có chưa chắc đã không có. Câu chuyện sợi dây thừng và con rắn trong kinh Phật, hay chuyện ảo ảnh trong sa mạc là điều phần nhiều mọi người đều biết.

    Đến đây chúng ta hãy tiến sâu thêm vào lãnh vực khoa học thực nghiệm. Thật sự vật chất trên thế gian này đều cấu tạo duy nhất bởi các nguyên tử, đó là điều ngày nay không ai có thể phủ nhận. Nhưng mỗi nguyên tử đều là một cấu trúc, giữa là hạt nhân cũng có cấu trúc riêng của nó, bên ngoài là những vòng quay của các hạt điện tử bao quanh, có nghĩa cũng là dạng cấu trúc. Có nghĩa mọi sự vật tồn tại đều không thể không có cấu trúc, trừ ra những hạt cơ bản trong hạt nhân cùng những điện tử là những dạng thuần túy năng lượng. Ngày nay người ta còn biến những hạt cơ bản có thể biến đổi lẫn nhau, có nghĩa vật chất nói cho cùng là cấu trúc năng lượng, nhưng năng lượng là cái gì không ai cụ thể hóa ra được. Năng lượng là cái gì đó có thật, nhưng nó lại không có hình dáng, có nghĩa cái có thật cũng chưa chắc là cái chúng ta có thể nhìn thấy được. Nhưng tinh thần, ý thức có phải năng lượng hay không ? Đó cũng là dạng năng lượng, nhưng nhất thiết không phải năng lượng kiểu vật chất, năng lượng vật chất không nhận thức được cũng không tự nhận thức được, trong khi đó năng lượng tinh thần nhận thức được mọi vật đồng thời cũng tự nhận thức nó được. Tinh thần hay ý thức nói chung mang tính chủ thể, trái lại vật chất không bao giờ mang tính chủ thể. Cái tôi hay cái ngã (ego) nơi mỗi người, đó là cái tôi tinh thần, cái tôi ý thức, không bao giờ là cái tôi thân xác, mặc dầu thân xác mới là cái nhìn thấy được và mới là điều phân biệt trước tiên được. Thế nhưng con người không những khác nhau về thân xác lại còn khác nhau về ý thức, đấy cái tâm và cái vật đều khác nhau kiểu như thế.

    Thật ra thân xác và giác quan là cửa ngõ đầu tiên để con người nhận thức thế giới. Thân xác là công cụ mang giác quan, còn giác quan là con đường dẫn sự vật ngoại giới vào với ý thức hay tinh thần nhận biết của con người. Chính con người hay ý thức con người sử dụng giác quan mà không phải ngược lại. Có nghĩa chỉ ông chủ mới sử dụng đồ vật mình có, không phải đồ vật sử dụng được ông chủ. Đấy tính cách duy vật và duy tâm cũng khác nhau như thế. Vật chỉ là dụng cụ thiết yếu của tâm nhưng vật không bao giờ là ông chủ được của tâm. Tâm có thể sai khiến được vật, nhưng vật chỉ có thể ảnh hưởng, tác động vào tâm nhưng tuyệt đối vật không thể nào sai khiến được tâm, chỉ đơn giản vật không bao giờ là chủ thể cả. Không phải chủ thể thì lấy gì sai khiến được người khác, đó chỉ là chân lý hoàn toàn đơn giản.

    Và nếu vật không phải là chủ thể thì nó cũng không bao giờ tự sáng tạo ra nó được, lý do việc làm ra cái gì, sáng tạo ra cái gì, dầu từ hư vô cũng bắt buộc phải có một chủ thể trước hết. Nhưng con người và mọi loài vật không bao giờ là chủ thể tối cao, vậy phải có một chủ thể tối cao nào đó được gọi là Thượng đế, tức đấng sáng tạo duy nhất và cao nhất đối với toàn thể vũ trụ. Đó có thể là ý nghĩa duy nhất của mọi quan điểm độc thần giáo nơi mọi tôn giáo độc thần như Kytô giáo, Do thái giáo, Hồi giáo, là ba tôn giáo lớn nhất mà mọi người đều biết. Nhưng trong ý nghĩa đó thì đạo Phật hay Phật giáo lại hoàn toàn khác. Phật giáo duy tâm là đích thị rồi, nhưng Phật giáo không hề là độc thần giáo như kiểu các tôn giáo khác. Phật tin vào cái lý huyền vi của vũ trụ, đó là lý thuyết luân hồi và nghiệp báo. Đó không phải Thượng đế mang kiểu bản vị, tức kiểu nhân cách, kiểu chủ thể như trên đã nói. Nhưng Thượng đế ở đây chỉ là cái lý của càn khôn, nó cũng chẳng khác gì ý niệm Trời, ý niệm Thái cực của Khổng giáo. Tuy vậy đạo Phật lại giống với cái huyền ẩn đạo Lão hơn là Trời mang tính cách bản vị siêu hình như trong Nho giáo. Đó chính là điều mà đạo Phật gần như kiểu một triết học hơn là một tôn giáo hay đạo giáo mà mọi người thường thấy. Phật chủ trương diệt dục tức là diệt cái vô minh, diệt cái sắc sắc không không ở đời để nhằm giải thoát. Giải thoát của đạo Phật là tự giải thoát lấy mà không hề giống với ý niệm cứu rỗi nơi Kytô giáo. Cứu rỗi thì phải có tội tổ tông và phải có đấng cứu thế. Còn cái đó nơi đạo Phật chỉ là do nghiệp báo và do luật luân hồi.

    Tức Phật tin có tiền kiếp, còn Kytô giáo lại tin Thượng đế ba ngôi. Thượng đế ba ngôi là Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh thần. Chúa Cha là đấng tự có. Chúa Con (Jesus) là ý niệm sai phái từ Chúa Cha để xuống cứu rỗi thế gian. Còn Thánh thần cũng là sự hiện hữu tâm linh khác, đồng bản chất, tự thể nhưng không thể đồng nhất hay đồng hóa vào hai cái trên. Tất nhiên tôn giáo nào cũng có những giáo lý, những quan niệm huyền vi phức tạp của nó, ta không đi sâu vào mọi chi tiết. Ở đây chỉ nói quan niệm Chúa ba ngôi trong Kytô giáo là quan niệm duy tâm siêu việt, còn quan niệm luân hồi nghiệp báo trong đạo Phật là quan niệm duy tâm tự thể nhưng phi bản ngã, phi chủ thể, hay là siêu chủ thể. Phật bài xích cái ngã, vì cho tự ngã là gắn liền với vô minh. Cho nên thoát ngã, vô ngã, đó là yêu cầu hay con đương giải thoát duy nhất mà đạo Phật chủ trương. Giải thoát có nghĩa là đạt tới niết bàn, không còn khổ đau ham muốn hay luân hồi nữa, tức hòa mình vào bản thể tối cao, không còn là chúng sinh nữa mà trở về lại cõi chân như ban sơ và huyền nhiệm. Nói chung mọi tôn giáo đều có cái thể giống nhau nhưng có cái dụng khác nhau. Dụng như những con đường dẫn đi, cuối cùng đường nào cũng tới La mã, bởi La mã mới chính là cái đích tối hậu mà không phải chỉ những con đường. Trong kinh Phật có nói người qua sông rồi thì phải bỏ thuyền lại, đó là một ẩn dụ rất hay, qua sông tức đáo bỉ ngạn, là rời bỏ tất cả quá khứ để đi đến một nơi mới. Nơi đó là tuyệt đối giải thoát hay niết bàn cũng vậy. Điều này cũng chẳng khác gì với Thượng đế tối cao của Kytô giáo, tức là kiểu hòa nhập vào một Đại Ngã siêu tuyệt, siêu việt, vượt lên trên hết cả mọi điều trần tục của thế gian thế thôi.

    Trong khi đó trái ngược lại tất cả mọi tôn giáo, Mác hoàn toàn là người duy vật vô thần. Mác cho rằng vật chất tự biện chứng mà làm nên tất cả. Nhưng ý nghĩa tự biện chứng ấy Mác lại lấy từ quan điểm duy tâm của Hegel. Tinh thần tự biện chứng còn có lý. Nhưng Mác cho vật chất tự biện chứng thì chẳng khác gì lại duy tâm hóa vật chất, là điều thái thậm vô lý hay phi lý mà Mác đã vấp phải. Đó là lý thuyết duy vật biện chứng của Mác. Từ trên nền tảng duy vật biện chứng đó, Mác xây nên thượng tầng kiến trúc của nó là duy vật lịch sử. Nhưng nếu hạ tầng không ổn làm sao mà thượng tầng vững chắc được. Nên toàn bộ học thuyết Mác phải lung lay là thế. Mác cho rằng mọi tôn giáo đều là thế giới tưởng tượng, thế giới hư ảo, là thuốc phiện phỉnh gạt, ru ngủ quần chúng. Nhưng trong toàn thế giới duy vật và vô thần của Mác thì cũng còn điều gì đáng nói nữa. Như vậy lại rơi vào một thuốc phiện ru ngủ khác, vì nó chẳng có nền tảng khoa học hay triết học khách quan cao sâu gì hết, nó chỉ toàn là cảm tính, niềm tin đơn giản thiển cận, chỉ tin vào những gi mắt mình nhìn thấy thế thôi. Nơi chung lại học thuyết Mác chỉ là học thuyết ức đoán, nó không mang cơ sở nào bền vững hay hữu lý nào từ đầu. Nó chỉ như một niềm tin hoàn toàn cảm tính và thị hiếu mà chẳng có lý lẽ gì căn cơ hay xác đáng cả.

    Sự thật mọi cái gì con người cảm thấy bằng giác quan chẳng có cơ sở nào bảo đảm là chân lý tuyệt đối hay sau cùng cả. Bởi vì độ tin cậy của giác quan hầu như chỉ tương đối và hoàn toàn hạn chế. Chẳng hạn vật chất là cái chúng ta luôn thấy có thật qua khả năng của giác quan, nhưng suy luận cho cùng nó cũng chẳng là cái gì cả. Bởi vì nó chỉ được biết qua bộ máy của giác quan còn ý nghĩa thật sự của nó thế nào thì chẳng làm sao xác định hết. Như không gian chúng ta đang sống chẳng hạn, muôn đời nó vẫn có đấy, nó chứa luôn hết mọi vật, từ mọi cái nhỏ nhất đến mọi cái to nhất trong vũ trụ này, nhưng bản chất nó là cái gì cũng chẳng ai biết cả. Cho dầu nó là không gian phẳng ba chiều kiểu Euclide cổ điển hay không gian cong nhiều chiều kiểu vật lý học hiện đại quan niệm cũng vậy. Có người như Kant phủ nhận sự hiện hữu của nó, cho đó là do cảm tính nhận thức của ý thức con người vậy thôi, nhưng điều đó thật khó tin được. Thật ra không gian mới có thật còn thời gian không có thật. Bởi không gian thì tự nó không phụ thuộc vào bất cứ vật gì có trong nó cả. Ngược lại thời gian chỉ đi theo mọi sự biến thiên của sự vật và cũng đi theo với ý niệm nhận thức về sự tiếp diễn của ý thức ta. Thời gian tự nó không tồn tại khách quan mà chỉ tồn tại theo sự nhận thức của chủ thể. Vạn vật luôn biến chuyển là cái có thật, chính điều đó gây cho ta mọi ảo tưởng về thời gian mà không gì khác. Trong khi đó chính không gian mới tồn tại thật, vì giả dụ không có mọi vật, không có thời gian thì nó vẫn cứ có. Vì nếu nó không có thì cũng không thể có bất cứ vật gì hiện hữu được trong nó cả. Như vậy rõ ràng còn có nhiều vấn đề mà tới nay con người còn chưa lý giải được. Thế nhưng Mác lại dùng thuyết duy vật vô thần để áp đặt lên tất cả, buộc mọi người phải tin là như thế, cho là như thế, quả thật là một ý nghĩa thô bạo, rỗng tuếch, nông cạn, ngỗ ngáo theo cách một mình một chợ, hoàn toàn chủ quan và độc tài thì thật hoàn toàn phi lý và ấu trĩ kiểu cả vú lấp miệng em, thật khó có thể chấp nhận được. Người Việt ta xưa có câu sống gửi thác về, điều đó đã cho thấy cõi đời chỉ là tạm bợ và về đâu mới là ý nghĩa tột cùng nhất. Đó là một quan điểm duy tâm rất đúng đắn, bởi nó vượt lên được thế giới tồn tại vật chất không thể phủ nhận được để hướng về một đích điểm siêu việt nào đó mà cũng chưa ai có thể chứng minh được. Mọi cái không thể dùng cảm quan bác khước được đó chưa hẳn là chân lý khách quan tuyệt đối, nhưng mọi cái chưa ai chứng minh được cũng không phải cũng hoàn toàn không có. Nên mọi thái độ hoài nghi vu vơ chưa chắc đã đúng, nhưng chính các niềm tin có cơ sở tư duy chắc chắn đó mới là điều mang ý nghĩa nhân văn cũng như siêu hình một cách thông minh và hữu lý nhất.

    ĐỈNH NGÀN
    (20/7/16)