Trung Cộng đã lợi dụng trường học để ảnh hưởng Hà Nội như thế nào

Olga Dror | DCVOnline

Những cuộc ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam đã có kết quả cao, và Hà Nội muốn di chuyển học sinh Việt Nam đến một nơi an toàn.

Các Dân quân Trung Cộng đã cam kết ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ năm 1966. Nguồn: Bettmann/Getty Images

Vào tháng 12 năm 1966, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hay Bắc Việt, và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã ký một thỏa thuận thành lập trường học cho trẻ em Bắc Việt ở Trung Hoa, do Trung Hoa cung cấp cơ sở vật chất, ngân quỹ và trang thiết bị.

Những cuộc ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam đã có kết quả cao, và Hà Nội muốn chuyển học sinh Việt Nam đến một nơi an toàn.

Điều thực sự đáng chú ý đối với nỗ lực giáo dục xuyên biên giới này là nó bắt đầu ngay giữa cuộc Cách mạng Văn hoá Trung Hoa; cuộc Cách mạng Văn hoá này bắt đầu vào tháng 5 năm 1966 và đã phá huỷ hệ thống giáo dục Trung Hoa (và đưa nền kinh tế Trung Hoa rơi vào tình trạng hỗn loạn). Nhưng người Trung Hoa sẵn sàng giành riêng một vùng đất cho Bắc Việt. Họ đã làm như vậy để phục vụ một mục đích địa chính trị cao hơn: cạnh tranh với Liên Xô để lãnh đạo phong trào cộng sản toàn cầu.

Chương trình này của Trung Hoa được gọi là Dự án 92 gồm những công tác xây trường học, cung cấp thiết bị giảng dạy cũng như các khoản chi phí hàng ngày (“92” là ngày 2 tháng 9 năm 1945, ngày Việt Nam tuyên bố độc lập với Pháp). Một cơ sở, tên là Trường học ngày 2 tháng 9, được thành lập đặc biệt cho trẻ em đã di chuyển sàn Trung Hoa từ miền Nam Việt Nam. Một trường học khác cho các học viên quân sự mang tên Nguyễn Văn Trỗi, một thanh niên Sài Gòn, vào tháng 5 năm 1963, đã đặt mìn ám sát Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara trong chuyến viếng thăm Nam Việt Nam và Trỗi đã bị xử bắn. Vì quân đội Trung Hoa ít bị ảnh hưởng của cuộc Cách mạng Văn hoá hơn là hệ thống giáo dục dân sự nên quân đội đã chỉ thị thực hiện Dự án 92.

Các trường học đó không chỉ là những cơ sở giáo dục căn bản; mục tiêu của họ là tạo ra, ở một không gian an toàn, “một trường học xã hội chủ nghĩa tiên tiến” để đào tạo thế hệ kế tiếp của người Cộng sản Việt Nam. Họ sẽ được thấm nhuần đạo đức cách mạng và tinh thần xã hội chủ nghĩa. Và học sinh này sẽ trở thành các chiến binh sẵn sàng và nhiệt tình khi gia nhập quân đội. Các giáo viên phải dạy Năm Điều Bác Hồ dạy, và họ phải khắc sâu nghị trình của Bắc Việt vào tâm trí học sinh, để chắc chắn trẻ em phải hiểu rằng vì kẻ thù Hoa Kỳ đã chia hai đất nước của họ, rằng gia đình họ đã tan nát và quê hương của họ đã bị phá hủy. Nói tóm lại, mục đích là để trẻ em háo hức theo lời kêu gọi của chính phủ chống lại người Mỹ.

Vào tháng 12 năm 1967, ba trường được liên kết với Học Khu Nam Bộ và hệ thống mới đã được khánh thành. Hầu hết các công trình xây dựng đã được hoàn thành vào tháng 8 năm 1968, và cả hai bên đã gặp nhau để thảo luận về hợp tác trong tương lai, đặc biệt là nhu cầu tăng cường giáo dục chính trị của học sinh, kết hợp lý thuyết và thực hành và kết hợp trao đổi kinh nghiệm thu được trong Cuộc Cách mạng Văn hoá ở Trung Hoa và chống Mỹ ở Việt Nam. Người ta cũng quyết định rằng khi người Việt Nam trở về, họ có thể mang theo tất cả các thiết bị giảng dạy cũng như vũ khí (tuy không có vũ khí đã được đề cập đến trong các hiệp định trước đó).

Hệ thống giáo dục xuyên biên giới này gồm bảy trường với hơn 2.000 học sinh, cán bộ và giáo viên. Nhiều học sinh là con của cán bộ, đảng viên bị giết trong các cuộc chiến chống Pháp và Mỹ. Các học sinh được mang từ các vùng khác nhau ở Việt Nam, từ miền Nam cũng như từ miền Bắc. Họ được báo cáo là đại diện cho khoảng 30 sắc tộc, mặc dù không nêu rõ các sắc tộc đó là gì. Họ đã đến học vào những thời điểm khác nhau, họ có trình độ học vấn khác nhau và họ ở các độ tuổi khác nhau.

Dù vậy, chương trình này vẫn có những thiếu sót của nó. Các trường học được tập trung vào khu vực hạn chế (chưa đầy một cây số vuông) thiếu chỗ cho các lớp học, cũng như không đủ chỗ để ở, hay có các hoạt động ngoài trời, làm việc sản xuất hoặc các hoạt động xã hội. Hơn nữa, mặc dù là con cháu của các cán bộ đảng viên, học sinh đến đó có nhiều nhận thức chính trị khác nhau. Một nhóm đi theo khuynh hướng của Hà Nội. Nhóm này “dưới sự chăm sóc của Đảng và Bác và đó là lý do tại sao họ thù hận người Mỹ và tay sai của họ” – nói cách khác là những người chống Cộng Cộng sản ở miền Nam Việt Nam – “là lũ bán đất nước.” Các học sinh trong nhóm này “gắn bó với chủ nghĩa xã hội, tin tưởng tuyệt đối vào Bác Hồ, và tin vào Đảng Lao động Việt Nam.” Mặt khác có những học sinh đã bị “sự thối rữa của Mỹ ảnh hưởng”, thiếu kỷ luật, không có bản sắc dân tộc và tình yêu đối với đất nước.

Ngoài những khó khăn đó, thiếu giáo viên và những người công tác ở đó, theo đánh giá của Bộ Giáo dục Bắc Việt, có trình độ văn hoá rất thấp. Nhiều giáo viên muốn trở về nhà. Nhiều người trong số họ không có tinh thần cách mạng và vì thế gây ra những sai lầm nghiêm trọng, chẳng hạn như có những quan hệ bất chính giữa nam nữ cán bộ, và vi phạm các nguyên tắc của giáo dục xã hội chủ nghĩa, như đánh đập hoặc thi hành kỷ luật kỷ luật nặng đối với học sinh.

Cán bộ quản trị cũng là một vấn đề khác. Theo một phân tích, nhiều người trong số họ vẫn “theo các ước lệ cũ và những khái niệm lạc hậu,” đã thay thế quan điểm cách mạng về tình bạn, tình yêu và dịch vụ. Theo Bộ Giáo dục, thái độ xấu của họ đã chiếm ưu thế hơn những cam kết của họ đối với đảng và các tổ chức thanh thiếu niên. Vấn đề thiếu thốn vật chất làm những khó khăn về ý thức hệ trầm trọng thêm. Các khu nhà ở quá chật hẹp và không đủ điều kiện vệ sinh. Các lớp học không được trang bị đầy đủ. Đôi khi những trẻ em ở các độ tuổi khác nhau đã phải học chung với nhau. Tài liệu giảng dạy đã đến chậm.

Trung Hoa có ba lý do chính tổ chức một phần hệ thống giáo dục của Việt Nam trên lãnh thổ của họ.

  • Đầu tiên là tình đoàn kết với một đàn em. Cảm giác đó phát sinh từ sự liên minh chặt chẽ giữa người Cộng sản Trung Hoa và Cộng sản Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp, khi Trung Hoa viện trợ phương tiện để tiếp tục kháng chiến và người Việt Nam đã đáp lại với lòng biết ơn và bắt chước làm theo. Những người cộng sản Trung Hoa đã xem ​​những thành tựu của cộng sản Việt Nam như một phần nối dài của cuộc cách mạng của họ.
  • Thứ hai là để cạnh tranh với Liên Xô trong vai trò lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế và ảnh hưởng tới những nước được gọi là “hế giới thứ ba,” gồm cả Việt Nam. Cuộc cạnh tranh Trung-Xô đã phát triển vào cuối những năm 1950 và tiếp tục cho đến những năm 1960. Cho các đồng minh Việt Nam của họ một nơi trú ẩn an toàn để mở trường dạy học ngay bên kia biên giới là điều Liên Xô không có khả năng giúp cho người Việt Nam, và điều này đã tạo ra một con đường để nuôi dưỡng cả sự trợ giúp thiết thực và sự bảo trợ thân ái.
  • Cuối cùng, chương trình này đã tạo cơ hội để ủng hộ một cuộc chiến tranh giữ quân đội Hoa Kỳ ở ngoài biên giới Trung Hoa – làm cho Mỹ không còn là mối đe doạ đối với Trung Hoa.

Mặc dù gặp khó khăn, hệ thống giáo dục bên kia biên giới đã kéo dài cho đến giữa năm 1975, khi nó chấm dứt và tất cả học sinh, giáo viên và cán bộ quản lý đã trở về Việt Nam. Đến năm 1975, miền Bắc Việt Nam đang trên đường chiếm được miền Nam, và nhu cầu có các cơ sở giáo dục ngoài vùng bị phá hoại đã giảm đi. Nhưng mối quan hệ Trung-Việt cũng đang trở nên nguội lạnh. Chiến dịch [Hồ Chí Minh] cuối cùng của Hà Nội đánh vào với Sài Gòn được thúc đẩy do sự viện trợ của Liên Xô, và việc củng cố chế độ cộng sản trên toàn cõi Việt Nam đã biến một đồng minh của Trung Hoa thành một mối đe dọa. Mặc dù có thể khi chiến tranh Việt Nam và Trung Hoa xảy ra vào năm 1978 có một số lính Việt Nam đã từng học ở đất của Trung Hoa nhưng vẫn có rất nhiều người vẫn tiếp tục áp ủ những năm đi học ở đó.

Hồng vệ binh tiến lên đập đổ bốn cũ: Tập tục cũ, Văn hoá cũ, Thói quen cũ, Tư tưởng cũ và đọc Sách Hồng. Nguồn: OntheNet

© 2018 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: How China Used Schools to Win Over Hanoi. OLGA DROR, The New York Times, JAN. 26, 2018

Olga Dror là giáo sư khoa lịch sử tại Đại học Texas A & M và là tác giả của cuốn sách “Làm hai Việt Nam: Chiến tranh và Căn cước Thanh niên, 1965-75.”(“Making Two Vietnams: War and Youth Identity, 1965-75.”) Bài viết này dựa trên tài liệu sẽ xuất hiện trong một luận văn sẽ đăng trong số phát hành năm 2018 của Tạp chí Nghiên cứu Chiến tranh Lạnh.