‘Chỉ có tôn giáo là đáng kể ở Việt Nam’: Thích Trí Quang và Chiến tranh Việt Nam (1/2)

James McAllister | Trần Giao Thủy dịch

Thích Trí Quang (1923-2019), Nguồn: Boris Chaliapin (1904 – May 1979)/https://npg.si.edu/

“Trí Quang là một kẻ mị dân, triệt để chống Thiên Chúa giáo, một người theo chủ nghĩa dân tộc cuồng tín và một người hoang tưởng tự đại [vĩ cuồng] với mục tiêu cuối cùng là thiết lập một chế độ thần quyền Phật giáo ở Việt Nam.”

1964: CIA Intelligence Information Cable & CIA Memorandum

Tóm tắt

17 tháng 8 năm 1964: Họp báo của Hội đồng Quân đội Cách mạng (HĐQĐCM) tại Dinh Trắng ở Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu) Việt Nam. Tấm bảng đen ghi kết quả của cuộc bầu chọn chính quyền quân nhân với Trung tướng Nguyễn Khánh là Chủ tịch (HĐQĐCM) với 50 phiếu. Ảnh: Nguyễn Văn Đức/Michael Ochs Archives/Getty Images)

Từ lâu, Thích Trí Quang là một trong những nhân vật gây nhiều tranh luận nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả cánh phải lý luận rằng Trí Quang có thể là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả thiên tả lại cho rằng Trí Quang là một nhân vật lãnh đạo tôn giáo ôn hoà hiến thân cho dân chủ và muốn nhanh chóng chấm dứt chiến tranh. Luận văn này cho rằng cả hai lối diễn giải ấy đều không thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kỳ đã kết luận đúng trong suốt cuộc chiến, không có bằng chứng chắc chắn để cho rằng Trí Quang là một gián điệp cộng sản hay có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN) dưới bất cứ hình thức nào. Dựa vào những bằng chứng còn lưu trữ những cuộc nói chuyện của Trí Quang với giới chức Mỹ thì rõ ràng Trí Quang thực sự rất chống cộng và khá chấp nhận việc Mỹ dùng sức mạnh quân sự chống lại Bắc Việt và Trung Hoa. Yếu tố chính dẫn đến xung đột giữa phong trào Phật giáo và chính quyền Johnson là việc Trí Quang nhất định cho rằng các chính phủ quân nhân sau chính quyền Ngô Đình Diệm có thái độ thù nghịch với Phật giáo và thiếu khả năng đưa cuộc chiến chống Chủ nghĩa Cộng sản đến một kết thúc thắng lợi.

Khó có thể đánh giá thấp tầm quan trọng của Thích Trí Quang trong cuộc chiến Việt Nam. Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm dùng bạo lực đàn áp các cuộc biểu tình phản đối của Phật tử vào tháng Năm 1963, Trí Quang đã đóng một vai chính trong việc châm ngòi và kéo dài cuộc khủng hoảng chính trị, cuối cùng đã dẫn đến sự lật đổ Diệm vào tháng Mười Một 1963. Không chịu trở về với vị trí bên lề chính trường sau khi Diệm và em ông, Ngô Đình Nhu, bị ám sát, Trí Quang tiếp tục áp đặt ảnh hưởng lớn của ông lên sinh hoạt chính trị Việt Nam bằng cách công bố hay từ chối ủng hộ với nhiều chính phủ quân nhân khác nhau, những chính phủ đã lãnh đạo VNCH từ 1964 đến 1966.

Với khả năng rõ ràng có thể đẩy Việt Nam vào tình trạng vô chính phủ, bằng cách huy động, cả Phật tử lẫn sinh viên biểu tình, chính quyền Johnson và chính phủ VNCH không còn lựa chọn nào khác hơn là chấp nhận quyền lực và ảnh hưởng đáng sợ của Trí Quang. Được số đông coi là động lực chính về mặt tâm linh và trí thức đứng sau phong trào tranh đấu Phật giáo, Trí Quang đã châm ngòi một loạt chống đối mãnh liệt, thực sự đã kiểm soát vài thành phố Việt Nam cả mùa xuân 1966. Mặc dù cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo nói chung không còn là một thế lực chính trị mạnh sau cuộc khủng hoảng 1966, nhưng chi vài, nếu có, cá nhân khác ở Việt Nam có ảnh hưởng lớn hơn ông trong cuộc chiến Việt Nam giai đoạn từ 1963 đến 1966.

Thật đáng tiếc, các sử gia hiện nay vẫn biết rất ít về những mục tiêu và động lực chính trị của Trí Quang trong giai đoạn quan trọng này của Chiến tranh Việt Nam. Cũng như nhiều nhân vật quan trọng khác ở Việt Nam, những nhân vật chính trị và tôn giáo như Trí Quang hiển nhiên là ít được những sử gia về ngoại giao của Mỹ quan tâm; họ tiếp tục đặt trọng tâm chú ý vào tiến trình hoạch định chính sách tại Washington, chiến lược quân sự hay những nỗ lực ngoại giao nhằm chấm dứt chiến tranh bằng những cuộc đàm phán. Như George Herring đã nhận xét từ lâu,

‘Tương tác giữa người Mỹ và người Việt Nam là một trong những lãnh vực ít triển khai nhất trong khối tài liệu ngày nhiều về Chiến tranh Việt Nam. Trong nhiều bài viết về cuộc chiến, rõ ràng người Việt Nam vắng mặt, và dường như vẫn chưa có nghiên cứu nào về những quan hệ của họ với Hoa Kỳ.’[1]

George Herring

Sự thiếu quan tâm của giới học giả dành cho Trí Quang và quan hệ của ông với giới chức Mỹ là điều đặc biệt đáng tiếc vì chắc chắn không thiếu gì những nguồn tài liệu nguồn chính để giới sử gia nghiên cứu. Giới chức Mỹ thường xuyên gặp gỡ Trí Quang suốt hai năm 1964-1966; những cuộc trò chuyện này đủ cung ứng một cái nhìn tổng quát về những niềm tin của ông đối với hàng loạt một số vấn đề. Mặc dù Trí Quang, vẫn còn là một nhân vật khó hiểu đối với giới sử gia, nhưng những tương tác giữa ông và giới chức Mỹ có thể cung ứng một nguồn tài liệu không thể thiếu và chưa được dùng đúng mức cho việc tìm hiểu cả phong trào Phật giáo lẫn sự thất bại chính trị nói chung của Mỹ tại Việt Nam[2].

Trí Quang là một nhân vật gây nhiều tranh luận ở đỉnh cao của cuộc chiến Việt Nam, và hơn 40 năm sau vẫn thế. Một số sử gia gần đây tái xét lại Trí Quang và phong trào Phật giáo và đã đi đến những kết luận rất khác nhau về những mục đích và động lực của ông ta. Trong một bài viết khá khiêu khích phát hành năm 2004, Mark Moyar cho rằng Trí Quang

‘hoặc đã một bè với cộng sản hay nếu không thì cũng tự hoang tưởng nghĩ rằng mình có thể ngăn chặn cộng sản mà không cần đến một chính quyền mạnh, thân Mỹ’[3].

Mark Moyar, “Political Monks: The Militant Buddhist Movement During the Vietnam War”

Luận điệu đầu [‘Trí Quang liên minh/một bè với cộng sản’] rõ ràng là điều mà Moyar tin là gần với sự thật hơn. Trong cáo buộc [của một số người Việt Nam trong giới quan sát. TGT] cho rằng Trí Quang là gián điệp cộng sản, Moyar viết,

‘Nhìn chung, nằng chứng đã xác minh cho quan điểm này, mặc dù không có chứng cớ tuyệt đối’[4].

Mark Moyar, Nđd.

Khi đưa ra lý luận này, mặc dù với một hồ sơ tài liệu có có thực chất hơn, Moyar chưa hẳn đã có đột phá lịch sử vì các nhà báo trong trong thời Chiến tranh Việt Nam như Marguerite Higgins, Richard Critchfield và Robert Shaplen đã thường đưa ra những lý luận này khi họ viết về cuộc chiến[5]. Tuy nhiên, chính Moyar nhìn nhận, giới chức chính phủ Mỹ, những người có đủ mọi lý do vị kỷ để kết luận Trí Quang là cộng sản, luôn luôn bác bỏ cách đánh giá này. Như giới phân tích của CIA đã kết luận hồi tháng Chín 1964,

‘Không một ai trong số nhiều người Việt kẻ thù của Trí Quang, những người khao khát bôi nhọ ông, hay những kẻ nghi ngờ những động lực chính trị của ông, có thể đưa ra bằng chứng không thể chối cãi được về bất cứ liên kết nào của ông với cộng sản.’[6]

CIA Memorandum, “Trí Quang and the Buddhist Catholic Discord in South Vietnam”, September 19, 1964

Giới tình báo Mỹ và toà Đại sứ Mỹ ở Sài gòn không bao giờ lưỡng lự trong những đánh giá của họ về những động cơ chính trị của Trí Quang, ngay cả vào đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966, mặc dù các viên chức quan trọng như Henry Cabot Lodge và Maxwell Taylor đã đi theo lý luận này dù trễ và không có bằng chứng. Đã có lúc và nay vẫn còn, nhiều lý do rất thuyết phục để phủ nhận tuyên bố cho rằng Trí Quang tỉnh thức làm gián điệp cho cộng sản hay ngay cả chỉ trên bình diện trí thức đã có thông cảm với nghị trình chính trị của MTDTGPMN. Sự kiện sau này Trí Quang bị chế độ cộng sản hành hạ và phải sống trong tình trạng bị quản thúc tại gia ở Việt Nam chỉ là một trong nhiều lý do để nghi ngờ lý luận của Higgins/Moyar[7].

[Cho rằng “Trí Quang bị chế độ cộng sản hành hạ và phải sống trong tình trạng bị quản thúc tại gia ở Việt Nam” dựa  theo bài “Ordeal of a Famed Buddhist in Ho Chi Minh City Related” của James Sterba đăng trên trang A2 của tờ  New York Times, July 14, 1979 là thiếu cơ sở thuyết phục. Sterba viết theo lời kể lại của một ‘đệ tử’ của Trí Quang như một loại lịch sử truyền khẩu, nguồn thứ cấp, và không thể kiểm chứng bằng văn bản, hình ảnh hay những nhân chứng khác.]

TGT

Sở dĩ Moyar có quan điểm chỉ trích Trí Quang vì ông chọn ủng hộ những người Việt Nam kiên tâm chống Cộng và chống MTDTGPMN. Cuốn sách của Robert Topmiller, The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964-1966 vẽ một chân dung anh hùng và có lợi hơn nhiều cho Trí Quang vì tác giả có thiện cảm với Trí Quang và thường gay gắt chỉ trích việc Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam; Topmiller tin rằng mục tiêu chính của phe Trí Quang trong phong trào Phật giáo là ‘thành lập một chính phủ dân sự bằng các cuộc tuyển cử tự do với ý định mời MTDTGPMN tham gia một chính phủ trung lập’[8]. Theo Topmiller, sự đụng chạm giữa chính quyền Johnson và Trí Quang phần lớn bắt nguồn từ những mâu thuẫn về tầm nhìn và thế giới quan. Phật giáo đồ và Trí Quang dấn thân cho hoà bình, dân chủ và muốn thương thuyết để tức thời chấm dứt cuộc xung đột. Theo Topmiller, vì chính quyền Johnson đối lập với quan điểm của Phật giáo đồ về cuộc chiến nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Trí Quang và người Mỹ trở thành kẻ tử thù. Dù chắc chắn có nhiều điểm đáng thu hội trong lối tường thuật của Topmiller về phong trào Phật giáo, nhưng chuyện về Thích Trí Quang và mối quan hệ giữa ông và Hoa Kỳ còn phức tạp hơn những điểm ông ấy muốn nói. Đặc biệt ở phần Topmiller nói về Thích Trí Quang trong giai đoạn trước khủng hoảng 1966, ông bỏ qua hầu hết những bằng chứng và tài liệu ngược với lý luận của mình[9]. Theo lời thuật lại của Topmiller, người ta không thể ngờ Trí Quang thường rất thân Mỹ và chống Cộng triệt để, hoàn toàn không bận tâm đến những nguyên tắc chung về dân chủ và tự do ngôn luận, có quan điểm rất diều hâu về cách tiến hành cuộc chiến. Đương nhiên đã có một phong trào Phật giáo phản đối quan trọng ở Việt Nam, nhưng hoàn toàn lạc lối khi cho rằng một trong những mục tiêu hàng đầu của Trí Quang là ‘hoà bình’. Trí Quang hiếm khi nào biện luận muốn có một Miền Nam trung lập hay theo đuổi bất cứ một cuộc đàm phán nào với MTDTGPMN trước khi Hoa Kỳ và VNCH thắng thế trên chiến trường. Hẳn là, cả Trí Quang lẫn phong trào Phật giáo đã từng bày tỏ thái độ chống Mỹ và/hoặc hậu thuẫn một giải pháp trung lập mơ hồ cho cuộc chiến Việt Nam. Tuy nhiên, cái hình ảnh đơn giản cho rằng Trí Quang là một người dân chủ, hiến thân để chấm dứt chiến tranh càng sớm càng tốt, là lý luận không đứng vững, cũng như hình ảnh một Trí Quang là gián điệp của cộng sản vậy. Trí Quang không phải là cộng sản, hoặc là một người vận động cho dân chủ và hoà bình. Ông ta là một người bị chính trị hoá cao độ, một người nhìn hầu hết mọi sự kiện ở Việt Nam qua lăng kính của một cuộc xung đột căn bản là tôn giáo giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Trí Quang nói, ‘Ngay cả người Thiên Chúa giáo tốt đối với người dân cũng đã phạm lỗi hai lần.’[10] Đúng hay sai thì Trí Quang đã chống lại nhiều chính phủ liên tiếp ở Việt Nam vì những lý do ít liên can đên hay chẳng dinh líu gì đến việc cố tình phá hoại cuộc đấu tranh chống cộng, như giả thuyết của Moyar, hay liên hệ đến việc chấm dứt chiến tranh và thành lập một chính phủ dân chủ dân sự, như lý luận của Topmiller. Trong khi, trên hết, giới chức Mỹ muốn có một chính phủ ổn định ở Việt Nam, thì Trí Quang lại muốn thấy một chính phủ ‘cách mạng’, một chính phủ mà ông định nghĩa tổng quát là trên thực tế không còn ảnh hưởng của người Thiên Chúa giáo, của những người theo Tổng thống Diệm hay đảng Cần Lao. Dĩ nhiên, vấn đề chính ở đây là, Trí Quang thường ngụ ý rằng chỉ mình ông mới có thẩm quyền quyết định tính chính đáng của các chính phủ ở Việt Nam, cũng như quyền lật đổ những chính phủ này nếu họ không thoả mãn những yêu sách cuả ông. Xung đột giữa Trí Quang và chính quyền Johnson một phần lớn là vì mong ước của Trí Quang trở thành người duy nhất chọn lãnh đạo trong chính trường Việt Nam, chứ không phải vì những cáo buộc liên hệ với cộng sản, hay vì khuynh hướng trung lập hay vì không chống cộng triệt để.

Thích Trí Quang và hậu quả cuả cuộc đảo chánh Diệm

Những người lập chính sách Mỹ ít khi bận tâm về vai trò chính trị của Phật giáo ở Việt Nam trước cuộc khủng hoảng tháng Năm 1963, rốt cuộc đã đưa đến việc Ngô Đình Diệm bị đảo chánh vào cuối năm đó. Mặc dù giới chức Mỹ không nghĩ rằng Phật giáo sẽ lẳng lặng quay về với vai trò phi chính trị đã giữ dưới thời chính phủ Diệm, chẳng có dấu hiệu gì nhiều chứng tỏ người Mỹ quan tâm chút nào đến việc có thể có xung đột với phong trào Phật giáo trong tương lai. Việc chính Trí Quang lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống chính quyền Việt Nam chưa đầy ba năm sau khi ông ta được cho tị nạn chính trị trong Toà Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài gòn là điều không thể tưởng tượng nổi. Bất chấp những lý do vị lợi của Mỹ khi làm thế, chính quyền Kennedy và Đại sứ Henry Cabot Lodge Jr. cũng đã đứng hẳn về phiá Phật giáo trong cuộc tranh đấu của họ chống lại chính phủ Diệm. Chính Trí Quang đã không để ai còn ngờ là ông biết ơn sự ủng hộ của Mỹ. Trong thư gửi cho Lodge xin tị nạn trong sứ quán Mỹ, Trí Quang viết ông hy vọng ‘nước của tự do’ sẽ không giao ông cho chính phủ Diệm, ‘nhất là khi Hoa Kỳ đang giúp dân tộc chúng tôi chiến đấu giữ tự do’[11]. Chỉ ba tuần lễ sau cuộc đảo chánh thành công, ông hoan nghênh việc người Mỹ tiếp tục can thiệp ở Việt Nam với tất cả nhiệt tình không nao núng. Lúc phân ưu với Tòa Đại sứ Mỹ về cái chết của Tổng thống Kennedy, Trí Quang nói với một viên chức Mỹ rằng Hoa Kỳ

‘phải tiếp tục dùng và bành trướng ảnh hưởng có lợi của mình tại Việt Nam để ngăn chặn các cuộc đảo chính hoặc sự trở lại của nhóm thân Diệm và bảo vệ người dân Việt Nam khỏi sự quá trớn (của) chính phủ của họ nếu cần.’

Thích Trí Quang

Khi được giải thích phát biểu như thế có thể gây nỗi lo sợ hợp lý về chủ nghĩa thực dân Mỹ, Trí Quang tin rằng Hoa Kỳ không nên lo sợ những luận cứ như thế bởi vì ‘người dân sẽ thực sự cảm thấy yên ổn hơn khi biết Hoa Kỳ hành động như một người bảo vệ họ’[12].

Dù Trí Quang có thể không lo nghĩ về chủ nghĩa thực dân Mỹ từ tháng Mười Một 1963, nhưng từ đầu ông đã bận tâm về bản chất của chính phủ thay chế chính phủ Diệm. Thật vậy, tất cả nguyên nhân căng thẳng sau đó, giữa giữa Trí Quang và chính phủ Mỹ, đã có từ trước. Chính quyền Johnson hy vọng cuộc đảo chánh lật đổ Diệm sẽ dẫn đến sự đoàn kết quốc gia hơn và một chính phủ vững vàng, chiến đấu hữu hiệu hơn trước. Chỉ phân tích gay gắt bản chất của chế độ Diệm thôi, chưa nói đến thanh lọc bộ máy chính phủ và quân đội về căn bản đã mâu thuẫn với mục tiêu ổn định vì hầu như tất cả quân cán chính của Việt Nam, một cách nào đó, đều có thể được coi là người của chính phủ Diệm. Vì niềm tin hay vì chiến thuật cần có, chính quyền Johnson đã bác bỏ ý kiến cho rằng chính phủ Việt Nam [chính phủ VNCH] cần bất kỳ cuộc đổi mới hoặc thanh trừng toàn bộ nhân sự nào. Tuy nhiên, Trí Quang không bao giờ chấp nhận ý kiến cho rằng xung đột tôn giáo và việc Thiên Chúa giáo đàn áp Phật giáo là vấn đề đã được giải quyết hoàn toàn bằng cách loại bỏ Diệm và Nhu khỏi ghế quyền lực. Dù nói rằng ông sẽ đánh giá chính phủ mới trên cơ sở thành quả, Trí Quang lo rằng nhiều người trong nhóm đảo chính là người của Diệm, và ông cho rằng họ đã hành động ‘vì sợ rằng Diệm và Nhu đang xa lánh Hoa Kỳ chứ không phải vì họ tin là chế độ cũ về căn bản là sai’[13]. Đến tháng Mười Hai 1963, Trí Quang đã cho một số viên chức Hoa Kỳ biết rằng ông sẽ hoan nghênh một cuộc đảo chính khác nếu nó có thể lật đổ Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ, một nhân vật quan trọng trong chế độ Diệm[14].

Không có bằng chứng nào cho thấy Trí Quang có bất kỳ vai trò nào trong cuộc đảo chính loại Tướng Dương Văn Minh ra khỏi ghế quyền lực vào tháng 1 năm 1964. Một số sử gia, như George McT. Kahin và Robert Topmiller, cho rằng Minh đã bị lật đổ vì những nỗ lực chấm dứt chiến tranh và sẵn sàng chấp nhận một Việt Nam trung lập. Cả Kahin và Topmiller đều tin rằng Minh ít nhất, có sự hậu thuẫn ngầm của ban lãnh đạo Phật giáo trong việc tìm cách thoát khỏi cuộc chiến ngày càng lớn hơn ở Việt Nam[15].

Quan điểm này có vẻ hợp lý vì người lãnh đạo chính của cuộc đảo chánh, Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó đã tuyên bố rằng ông đảo chánh chính vì ông lo ngại rằng Minh và các tướng lãnh khác thân Pháp và đồng tình với quan niệm một Việt Nam trung lập. Tuy nhiên, vấn đề của lối giải thích này là rất khó có thể có chuyện Minh tích cực theo đuổi một giải pháp trung lập sẽ chấm dứt được chiến tranh. Như David Kaiser ghi nhận đúng, không có bằng chứng chắc chắn nào đưa ra để hậu thuẫn cho tuyên bố của Khánh rằng Minh sẽ chuyển sang bắt tay với Pháp để đi tới một giải pháp trung lập cho Việt Nam[16].

Mâu thuẫn cho là giữa tướng diều hâu Khánh và tướng Minh Phật tử ôn hòa có lẽ là một trong những huyền thoại, vào đầu năm 1964, quan điểm riêng của Trí Quang về bản chất của cuộc chiến Việt Nam gần với quan điểm Khánh đã tuyên bố hơn so với quan điểm có vẻ trung lập của Minh. Trong các cuộc nói chuyện với giới chức Mỹ đầu năm 1964, Trí Quang quan tâm nhiều hơn đến việc điều động cuộc chiến một cách hiệu quả hơn là việc kết thúc chiến tranh. Lúc đầu phản đối ý kiến nên có bất kỳ tuyên úy tôn giáo nào trong quân đội Việt Nam, sau đó Trí Quang nghĩ rằng quân đội cũng cần có tuyên úy Phật giáo và Thiên Chúa giáo để củng cố ‘tinh thần chống cộng’ của binh sĩ[17]. Giống như Khánh và các tướng lãnh hiếu chiến hơn quanh ông ta, Trí Quang rất quan tâm đến những nỗ lực cho là của Pháp để tái khẳng định quyền lực của họ ở Việt Nam. Thực ra, không có nhân vật lãnh đạo Việt Nam nào vượt quá Trí Quang về mặt luôn tỏ thái độ thù địch với ảnh hưởng của Pháp. Trí Quang nói với giới chức Mỹ rằng nếu Pháp quay lại Việt Nam thì chính cá nhân ông sẽ sụp đổ cũng như sự hồi sinh của Thiên Chúa giáo bất lợi cho Phật giáo Việt Nam[18]. Cuối cùng, mặc dù sự quan trọng bề ngoài của việc bất bạo động đối với đức tin của Phật giáo, Thích Trí Quang đã tán thành một chính sách quân sự nhiều tham vọng. Trong một cuộc trò chuyện với J.D. Rosenthal nhân viên tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn vào tháng 4 năm 1964,

‘Quang tự ý nói ông chấp thuận ý tưởng sang Lào để cắt đường tiếp tế của VC, và ông cũng rất nhiệt tình về đêm oanh tạc đầu tiên của Không quân Việt Nam vào những căn cứ VC . Tôi hỏi ông ta nghĩ gì về việc tấn công miền Bắc, và ông ấy nói ông sẽ ủng hộ nếu có thể làm việc đó mà không kéo Nga hay Cộng sản Trung Hoa vào cuộc’[19].

Giới chức Mỹ đã lo lắng về nhiều khía cạnh của tình hình Việt Nam vào đầu năm 1964 là việc dễ hiểu, nhưng họ hoàn toàn không quan tâm đến phong trào Phật giáo chuyển sang hướng trung lập và chống Mỹ. Trong một phân tích quan trọng về sự phát triển của phong trào Phật giáo kể từ khi chính phủ Diệm sụp đổ, tòa Đại sứ Mỹ kết luận rằng tất cả các nhân vật lãnh đạo hàng đầu [của Phật giáo] đều thân thiện với Mỹ và ngay cả khi phong trào [Phật giáo] bị nhóm lãnh đạo ‘cơ hội’ chi phối, các mục tiêu của Phật tử và Hoa Kỳ có thể vẫn tương hợp vì nỗi lo sợ của họ về chế độ trung lập và sự thống trị của cộng sản[20].

Ông Ngô Đình Cẩn được cảnh sát dìu đi sau khi bị kết án tử hình ngày 23 tháng 4, 1964. Ảnh AP Wire

Không còn gì để nghi ngờ, bị ảnh hưởng vì việc cả Cẩn và Thiếu tá Đặng Sỹ đã gây tội ác tại căn cứ của ông ta ở miền Trung và thành phố Huế, Trí Quang đã bác bỏ sự khoan hồng trong vụ án. Cảnh cáo rằng tiếng tăm của ông ta sẽ bị thiệt hại nếu người ta biết ông ta phản đối việc xử tử Cẩn, Trí Quang tin rằng việc Cẩn bị xử tử là điều cần thiết để chứng minh rằng ‘đám tàn dư cũ của Diệm’ không còn quyền hành gì nữa. Trong một cuộc họp với Lodge vào tháng 4 năm 1964, Trí Quang đã cảnh cáo Đại sứ Mỹ rằng cuộc chiến chống lại Chủ nghĩa Cộng sản và sự hỗ trợ của Phật giáo cho Hoa Kỳ sẽ bị tổn thương nếu Cẩn không bị hành quyết[21].

Giới chức Mỹ rất quan tâm đến việc Trí Quang phản đối chính phủ Khánh, nhưng họ không chấp nhận những báo cáo cho rằng sự chống đối của ông xuất phát từ mối liên hệ bất chính với cộng sản. Vào tháng 5 năm 1964, Lodge chuyển cho Washington một bản báo cáo từ một nguồn cho rằng phong trào Phật giáo đang được cộng sản dùng để khơi động phong trào chống Mỹ trên cả nước. Dù ca tụng nguồn tin của mình là từng ‘rất chính xác’, trong quá khứ, nhưng Lodge đã cẩn thận ghi lại rằng ông ta cảm thấy bản phúc trình là ‘cường điệu’[22]. Lodge và những viên chức khác lo ngại rằng Trí Quang là một ‘kẻ có thể gây rối’ và ngại rằng ông ta có vẻ chống Thiên Chúa giáo hơn là chống cộng sản, nhưng nó không hẳn có nghĩa là những tranh chấp với Trí Quang thế này tiêu biểu cho bất kỳ vấn đề quan trọng nào[23]. Lodge rất lạc quan về mối quan hệ của Mỹ với Phật giáo đồ sau bữa ăn tối rất thân mật với Trí Quang và những chức sắc hàng đầu khác của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (UBA) vào cuối tháng 5 năm 1964. Dù Trí Quang vẫn là một nhân vật chính trị có thể nguy hiểm, Lodge nghĩ rằng ông ta vẫn biết ơn Hoa Kỳ đã cứu mạng và Trí Quang vẫn chấp nhận ảnh hưởng của Mỹ. Rõ ràng đó là một nỗ lực để trấn an Đại sứ Mỹ, và một điều mà một chính trị gia nhiều kinh nghiệm như Lodge chắc chắn có thể hiểu được, là Trí Quang và các nhân vật lãnh đạo Phật giáo khác tuyên bố rằng dù quan điểm thân Mỹ của họ là chân thành, nhưng ‘họ không thể bày tỏ quan điểm này một cách công khai, vì làm như vậy sẽ gây thiệt hại cho vai trò tôn giáo của họ’[24]. Thật vậy, Trí Quang đã tranh luận với giới chức Mỹ vào cuối tháng 5 năm 1964 rằng thật có ích khi một số báo chí nước ngoài gián nhãn cộng sản cho ông ta vì nó cho phép ông ‘làm việc âm thầm hiệu quả hơn chống lại ảnh hưởng của VC với Phật giáo đồ, những người đã biết rất rõ bản thân ông không phải là người cộng sản’[25].

Trí Quang khó mà hòa giải được với chính phủ Khánh, mà ông tiếp tục cho rằng không thực sự là một chính phủ cách mạng vì đã không có hành động cứng rắn chống lại những người của chính phủ Diệm. Mặt khác, ông ta khá thoải mái với những tu từ ngày càng hiếu chiến về biệc ‘bắc tiến’ mà Khánh và các tướng lĩnh bắt đầu hô hào vào mùa hè năm 1964. Dù công nhận một nhân vật lãnh đạo Phật giáo chủ trương bạo lực là điều bất thường, tuy nhiên Trí Quang vẫn ủng hộ những ‘biện pháp quân sự mạnh’ vì ông cảm thấy rằng ‘nếu chiến tranh kéo dài ở mức hiện tại, số người thiệt mạng sẽ nhiều hơn so với một cuộc chiến nhanh hơn mặc dù có giai đoạn đẫm máu hơn’[26]. Khi Hoa Kỳ oanh tạc Bắc Việt vào tháng 8 năm 1964, Trí Quang đã nói với một viên chức tòa Đại sứ Mỹ rằng cả thành phần lãnh đạo Phật giáo và ‘người dân’ đều tán thành những cuộc tấn công đó vì nó cho thấy ‘quyết tâm’ thi hành những biện pháp quân sự cứng rắn của chúng ta[27].

Dù ông ủng hộ hành động quân sự chống lại Bắc Việt, Trí Quang sẽ chóng trở thành một sự trở ngại quan trọng nhất trong chính sách đánh mạnh hơn nữa của chính quyền Johnson. Ngay sau những cuộc tấn công của Mỹ nhằm vào Bắc Việt, Tướng Khánh đã tuyên bố tình trạng khẩn trương trên toàn quốc, cho chính phủ của ông quyền kiểm soát trên tất cả mọi mặt của sinh hoạt chính trị. Ban đầu Trí Quang, rất ủng hộ sắc lệnh này, nhưng ông e rằng Khánh ‘không khôn ngoan hay đủ mạnh để thực thi những sắc lệnh mới một cách hiệu quả’. Theo ông, dân chúng sẽ chỉ ủng hộ quyền lực mới của Khánh nếu ông ta dùng nó để cuối cùng làm ‘cách mạng’ và loại bỏ tất cả tàn dư của Cần Lao và nhưng người thuộc chính phủ ra Diệm khỏi vùng quyền lực[28]. Ngay sau khi ông Khánh tuyên bố hiến pháp mới, cái gọi là Hiến chương Vũng Tàu, Trí Quang kết luận rằng Khánh không quan tâm đến việc làm cách mạng. Nếu Khánh không tự sẵn sàng làm những gì cần làm, Trí Quang đã thông báo cho tòa Đại sứ Mỹ hay, là Phật giáo đồ sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt tay vào một chiến dịch ‘bất hợp tác’ để buộc Khánh phải đi đến lựa chọn sau cùng giữa Phật tử và những tướng lãnh mà Trí Quang tin là đảng viên của Cần Lao hoặc Đại Việt. Vì rõ ràng có vẻ không có sự khác biệt giữa việc bị cộng sản hay người của Cần Lao đàn áp, Trí Quang cảnh cáo rằng Phật giáo đồ sẽ rút khỏi cuộc đấu tranh chống cộng và để người Mỹ và người Thiên Chúa giáo chiến đấu một mình nếu Khánh thất bại trong việc thanh trừng chính phủ của ông ta[29].

Nếu giới lập chính sách của Mỹ có bất kỳ nghi ngờ nào về quyền lực của Trí Quang có thể dứt khoát ảnh hưởng đến tình hình chính trị ở miền Nam Việt Nam, thì chắc chắn chúng đã bị những cuộc đấu tranh biểu tình bạo động bùng phát ở một số thành thị Việt Nam vào cuối tháng 8 năm 1964 xóa tan. Ảnh hưởng của Trí Quang về nội dung những cuộc biểu tình rất rõ ràng vì một trong những điều bất bình khiến những người phảnh kháng lên tiếng là họ cảm thấy còn quá nhiều tàn dư của Diệm trong chính phủ. Giới chức Mỹ muốn Khánh có hành động dứt khoát để tái lập trật tự ở Sài Gòn và những thành phố khác, nhưng thay vào đó, vị tướng này gần như quyết định đặt tương lai của chính phủ của ông vào tay Trí Quang và Phật giáo đồ. Trước sự sửng sốt của tòa Đại sứ khối lãnh đạo của quân đội Việt Nam, Khánh không giám mạo hiểm dứt khoát đối đầu với Trí Quang. Theo quan điểm của Trung tướng Trần Thiện Khiêm, những yêu sách của Trí Quang được quần chúng quá tin đến nỗi Khánh không thể bỏ qua được:

‘Khánh cảm thấy không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải chấp nhận vì ảnh hưởng của Trí Quang quá lớn nên ông ta không chỉ có thể đẩy đa số người dân chống lại chính phủ nhưng còn có thể ảnh hưởng đến hiệu năng của quân đội.’[30]

Giới chức Mỹ đã thường xuyên liên lạc với Trí Quang trong suốt cuộc khủng hoảng và nhiều lần cố gắng, nhưng vô ích, để can ngăn ông ta không nên công khai thách đố. Không như cuộc khủng hoảng năm 1963, giới chức Mỹ hiện nay cảm thấy có rất ít bằng chứng hậu thuẫn cho những phàn nàn của Phật giáo về sự đàn áp của chính phủ Khánh. Giới chức Mỹ xem việc tổ chức một loạt xuống đường và biểu tình phản đối ngay sau cuộc oanh tạc Bắc Việt Nam, mà chính Trí Quang đã tán thành, là thiển cận và là một hành động phản bội. Giới chức Mỹ tin rằng tình hình Việt Nam rất nguy hiểm đến nỗi mọi bất đồng giữa Phật giáo đồ và tín hữu Thiên Chúa giáo cần phải đặt xuống bậc dưới cuộc chiến chống lại “kẻ thù chung” là Việt Cộng và quân Bắc Việt. Ngược lại, Trí Quang nghĩ rằng giai đoạn tranh đấu đầu tiên và cần thiết là phải triệt để thanh lọc chính phủ VNCH trước khi có thể có bất kỳ tiến bộ nào trong cuộc chiến đấu chống cộng sản và những người ủng hộ họ. Mặc dù Trí Quang không có được sự thanh trừng toàn bộ và triệt để những người được coi là tàn dư của Diệm ra khỏi guồng máy chính phủ VNCH như ý muốn, chính phủ Khánh đã tê liệt và không rõ chính xác ai là người kiểm soát các vấn đề của chính phủ ở Sài Gòn.

Rất bối rối trước tình trạng hỗn loạn ở Việt Nam, giới phân tích của CIA bắt đầu cố hết sức làm việc để xác định bản chất của những mục tiêu và ý định của Trí Quang. Không cần phải nói, những thẩm định lại của người Mỹ về động cơ của Trí Quang không có gì là chắc cả. Trong hai bản phúc trình dài, CIA miêu tả Trí Quang là một kẻ mị dân, triệt để chống Thiên Chúa giáo, một người theo chủ nghĩa dân tộc cuồng tín và một người hoang tưởng tự đại [vĩ cuồng] với mục tiêu cuối cùng là thiết lập một chế độ thần quyền Phật giáo ở Việt Nam[31]. Chuyên viên CIA cũng tin rằng ông muốn quân đội Mỹ cuối cùng phải rút lui khỏi Việt Nam và ủng hộ một hình thức trung lập, mặc dù họ nói thêm rằng kiểu trung lập của Trí Quang đã khác xa với De Gaulle. Dù những phúc trình này dường như những lời báo động, và những đánh giá của CIA chắc chắn có ý định đưa ra những quan tâm nghiêm trọng, nhưng giới phân tích vẫn bác bỏ ý kiến cho rằng Trí Quang là cộng sản hoặc đồng tình với phe đối lập vũ trang ở Việt Nam. Sau khi đánh giá thật kỹ tất cả các bằng chứng do nhiều người phỉ báng Trí Quang đưa ra, CIA kết luận rằng đơn giản là không có bằng chứng chắc chắn để xác nhận bất kỳ tuyên bố nào về việc Trí Quang bị ảnh hưởng của cộng sản. Với tính khí của Trí Quang, CIA kết luận, “Khó có thể hình dung Trí Quang đóng vai trò ‘gián điệp’ cho bất kỳ ai, dù là Hà Nội, Bắc Kinh, hay Moscow”[32] .Vì mọi cố gắng để loại ông ta khỏi bối cảnh Việt Nam là một thảm họa, CIA kết luận rằng ông ta là một ‘thực tế của cuộc sống’, một người không thể bị phớt lờ vì ‘bất kỳ chính phủ chống cộng nào ở Việt Nam muốn có cơ hội sống còn đều phải có được chấp thuận của Trí Quang nếu không phải là sự ủng hộ của ông ta’[33].

Khi cuộc khủng hoảng tháng 8 năm 1964 lắng xuống, Trí Quang cố hết sức để trấn an giới chức tòa Đại sứ Mỹ rằng ông không phản đối việc Mỹ tiếp tục can thiệp vào những vấn đề của Việt Nam. Fredrik Logevall cho rằng, ‘Quang và các Phật giáo đồ tranh đấu khác cũng phản đối sự gia tăng đều đặn ảnh hưởng của Mỹ ở Việt Nam và họ ngày càng kiên định công khai chống lại việc đó trong nửa cuối năm 1964’[34]. Tuy nhiên, quan điểm như thế về Trí Quang gây một ấn tượng sai lầm vì quan điểm ông đã luôn bày tỏ với giới chức Mỹ từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1964. Sự chỉ trích chính phủ VNCH là hoàn toàn đúng đắn theo quan điểm của Trí Quang, nhưng ông cảm thấy các nhóm Phật giáo đồ nên tránh chỉ trích Mỹ ‘vì viện trợ của Hoa Kỳ là vô cùng cần thiết cho cuộc đấu tranh chống cộng’[35]. Khi một phật tử trẻ bị bắt vì phát truyền đơn chống Mỹ vào đầu tháng 9, Trí Quang kêu gọi người Mỹ đừng hiểu sai hành động này. Ông lập luận, ‘Phật giáo đồ chắc chắn không chống Mỹ; ngược lại, họ rất tin tưởng động cơ và ý định của Hoa Kỳ tại Việt Nam, so với sự hết sức nghi ngờ của họ đối với Pháp và Anh, và họ hoàn toàn thấy rõ sự cần thiết phải duy trì sự hỗ trợ của Hoa Kỳ tại đây’[36]. Trí Quang cũng nói rõ với giới chức Mỹ rằng họ không nên lo lắng về một loạt các bài nghị luận, trong tuần báo Phật giáo Hải Triều Âm, dường như ủng hộ đường lối trung lập coi MTDTGPMN ngang hàng với chính phủ VNCH. Theo Trí Quang, tác giả của các bài nghị luận sau đó đã bị bãi nhiệm vì nhưng bài viết kém cỏi của ông đã khiến phong trào Phật giáo bị hiểu sai là có khuynh hướng trung lập[37].

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số 5 ra ngày 15 tháng 9, 2010

[Tuần báo Hải Triều Âm là cơ quan Văn nghệ-Thông tin-Nghị luận do Viện Hóa đạo chủ trương ra mắt số đầu tiên vào ngày 21 tháng 4, 1964. Tuần báo này do Tỳ-kheo Thích Hộ Giác thuộc Phật giáo Nam tông làm Chủ nhiệm, Thượng tọa Thích Nhất Hạnh thuộc Thiền tông Lâm Tế làm Chủ bút và cư sĩ Võ Đình Cường là Thư ký Tòa soạn. Hải Triều Âm quy tụ những cây bút có tiếng như Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Thạch Trung Giả, Thích Mãn Giác… Hải Triều Âm đã bị đóng cửa vào tháng 4-1965. Hai người viết nghị luận nhiều cho tuần báo này và được bạn đọc quan tâm là Thích Trí Quang và Thích Nhất Hạnh. Tác giả loạt bài bình luận “gây hiểu lầm” Phong trào Phật giáo chủ trương trung lập và sau đó đã bị giải nhiệm chắc chắn không phải là Trí Quang. Nguồn: Nguyễn Đại Đồng, “Báo chí Phật giáo những năm 1954-1975”, trang 16, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Số 5 ra ngày 15 tháng 9, 2010.]

TGT

Vào tháng 9 năm 1964, Trí Quang đã bày tỏ quan điểm của riêng mình về ‘chủ nghĩa trung lập’ với giới chức Mỹ, và như CIA đã nhận xét, nó khác với chủ nghĩa trung lập như Pháp đã nói. Trí Quang tin rằng ‘mọi chủ nghĩa trung lập tự chúng không hẳn là xấu’ nhưng ông phản đối bất kỳ kiểu trung lập nào cho phép ảnh hưởng của Pháp trở lại Việt Nam[38]. Ngoài ra, ông tin rằng giới chức Mỹ cần phải thấy rằng có nhiều loại trung lập khác nhau. Trung lập yếu như Campuchia không tốt vì nó bị cộng sản lợi dụng, trong khi đó trung lập như Ai Cập lại ‘đàn áp cộng sản địa phương khá nặng tay’[39]. Trí Quang cũng nhấn mạnh rằng ông không ủng hộ lời kêu gọi trung lập hiện nay của Phật giáo đồ. Khi giới chức Mỹ tỏ ý không hài lòng trước một bản thảo đề nghị do Thích Quảng Liên đưa ra, kêu gọi rút quân Mỹ và VC khỏi Việt Nam, Trí Quang đã trấn an họ rằng Đại Đức Quảng Liên đã được lệnh bỏ dự án đó và có thể sẽ mất vị trí của mình trong phong trào Phật giáo nếu ông ta không làm thế[40]. Giới sử gia về Chiến tranh Việt Nam chắc chắn rất muốn coi sự tái xuất của phong trào Phật giáo trong tháng 8-tháng 9, 1964 như một phong trào đòi hòa bình mới khai sinh chống lại chiến tranh và vai trò của Mỹ ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự lôi cuốn này cũng cần được chận lại, nhất là nếu quan điểm của Trí Quang được trình bày như hậu thuẫn chính cho luận đề này. Vì kể từ khi ông rời tòa Đại sứ Mỹ vào tháng 11 năm 1963, mục tiêu chính bị Trí Quang phê phán tiếp tục tập trung vào vai trò quá nổi bật của những người của chế độ Diệm trong chính phủ VNCH và việc chính phủ không quyết tâm thanh trừng những phần tử đó. Sự chú tâm vào các vấn đề nội bộ này tiếp tục nổi bật trong các diễn văn công khai hiếm có của Trí Quang. Trong một bài phát biểu tại chùa Từ Đàm vào ngày 1 tháng 10, cũng như trong một bức thư ngỏ gửi Phật giáo đồ phát hành ngày hôm sau trên tờ Lập Trường, Trí Quang thậm chí không bao giờ nhắc đến chiến tranh[41]. Nếu ai đó đọc bài diễn văn và thư của Trí Quang và không biết gì về Chiến tranh Việt Nam, ông ta hoặc cô ta sẽ kết luận chắc rằng cuộc xung đột hiện tại hoàn toàn là một cuộc nội chiến giữa Phật giáo đồ và những kẻ áp bức họ thuộc đảng Cần Lao. Ngay cả người Mỹ, Việt Cộng và Bắc Việt cũng không phải là những nhân tố ngoại biên trong quan điểm mà Trí Quang đã phát biểu công khai.

Khi Trí Quang nói về chiến tranh và tình hình quốc tế với giới chức Mỹ trong thời kỳ này, quan điểm của ông tiếp tục thủy chung chống cộng sản và thân Mỹ. Trong một tuyên bố chính nhiều người hoạt động phản chiến đã tán thành, Trí Quang cam đoan với giới chức Mỹ rằng cả ông và phong trào Phật giáo đều không thể chống Mỹ, ‘mặc dù đôi khi họ có thể phản đối một ài chính sách cụ thể nếu thấy sai hoặc không khôn ngoan’[42]. Vào tháng 10 năm 1964, Trí Quang cam đoan với giới chức Mỹ rằng ông và phong trào Phật giáo sẽ chuyển sự chú ý của họ sang cuộc đấu tranh chống cộng. Với lời hứa về trước một chính phủ dân chủ hơn và sự thất bại của Hiến chương Vũng Tàu của Khánh, Trí Quang tin rằng Phật tử bây giờ có thể hướng những nỗ lực chính của họ chống lại cộng sản[43]. Quan tâm của Trí Quang về chủ nghĩa cộng sản ở châu Á vượt ra khỏi Việt Nam. Sau khi Trung Quốc mua được bom nguyên tử, Trí Quang tin rằng Phật tử cần ‘hoạt động trên trường quốc tế để giúp xây dựng cuộc kháng chiến của Phật giáo đối với chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á’[44]. Theo quan điểm của ông, sức mạnh hạch tâm của Trung Hoa ‘khiến vũ khí quy ước của Hoa Kỳ trở nên rất quan trọng và cũng như việc tăng cường sức mạnh phòng thủ của chính các quốc gia châu Á để chống lại sự bành trướng và xâm nhập của Trung Hoa’. Quan tâm về Trung Hoa quá quan trọng đối với Trí Quang đến nỗi ông muốn ra nước ngoài để nói chuyện với các Phật tử khác về ‘sự cần thiết của sự tiếp tục hiện diện của Hoa Kỳ ở Châu Á’[45]. Không còn gì phải ngạc nhiên, vào cuối tháng 11 năm 1964, giới chức Mỹ rất hài lòng với ý thức và tư tưởng chính trị của phong trào Phật giáo; ‘Thái độ của phong trào Phật giáo là thuận lợi, và sự cần thiết của sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam và nhưng nước khác của Châu Á đã được nhìn nhận.’[46]

Từ Trái: Thủ tướng Trần Văn Hương, Quốc trưởng Phan Khác Sửu, Trung tướng Nguyễn Khánh (9 tháng 1, 1964). Ảnh AP

(Đọc tiếp phần 2)

© 2019 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: Nguyên bản tiếng Anh: “‘Only Religions Count in Vietnam’: Thich Trí Quang and the Vietnam War”, Modern Asian Studies 42, 4 (2008) pp. 751–782. C 2007 Cambridge University Press doi:10.1017/S0026749X07002855 First published online 30 July 2007

James McAllister

Tác giả | James McAllister
Chair of Leadership Studies & Fred Greene Third Century Professor of Political Science
Schapiro Hall Rm 230, Williams College, Williamstown, MA 01267.
jmcallis​@williams​.edu | 413-597-2572

Education
B.A. State University of New York, Buffalo (1986)
M.A. Columbia University (1989)
Ph.D. Columbia University, Political Science (1999).

[1] George Herring, “‘Peoples Quite Apart’: Americans, South Vietnamese, and the War in Vietnam,” Diplomatic History, 14 (1990), p. 1.
[2] Tôi ngờ rằng một phần lý do những sử gia không quan tâm đến Trí Quang và Phật giáo đồ nhiều hơn vì bộ sưu tập [văn thư của Bộ Ngoại giao, Quan hệ Đối ngoại của Hoa Kỳ/Foreign Relations of the United States (FRUS)] chỉ có một vài cuộc nói chuyện giữa Trí Quang và Toà Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, và không có một bản đánh giá nào của CIA về những mục tiêu và động cơ của ông ta. Người ta không đặt nghi vấn có bao nhiêu tư liệu ở các thư khố Hoa Kỳ nếu chỉ dựa vào quan tâm không đáng kể dành cho Trí Quang và phong trào Phật giáo trong bộ FRUS.
[3] Mark Moyar, “Political Monks: The Militant Buddhist Movement During the Vietnam War,” Modern Asian Studies, 38 (2004), pp. 749–784 (‘hoặc là một bè với cộng sản hoặc hoang tưởng nghĩ rằng ông ta có thể ngăn chận cộng sản mà không cần một chính phủ mạnh, thân Mỹ’ ở tr. 783).
[4] Moyar cũng đưa những lập luận này về Trí Quang vào cuốn sách ông mới xuất bản gần đây, Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954 501965 (New York: Cambridge University Press, 2006), trang 216-218. Bất chấp sự khác biệt rõ ràng trong nhận định của tôi với Moyar về Trí Quang, tất cả những người nghiên cứu về cuộc chiến sẽ phải nghiêm túc vật lộn với nghiên cứu rộng lớn và đánh giá xét lại của ông về nhiều phần tử của Chiến tranh Việt Nam.
[5] Marguerite Higgins là người đề xướng mạnh nhất luận đề cho rằng Quang là một gián điệp cộng sản. Xem “Ác mộng Việt Nam của chúng ta” (New York: Harper & Row, 1965). Xem thêm Richard Critchfield, “Cuộc thập tự trường chinh: lật đổ chính trị trong chiến tranh Việt Nam” (New York: Harcourt, Brace & World, 1968); và Robert Shaplen, “Cuộc cách mạng bỏ lỡ” (New York: Harper & Row, 1965). Mặc dù Moyar có một số bằng chứng trong tài liệu lịch sử chiến tranh của Bắc Việt cho thấy có sự xâm nhập của cộng sản vào phong trào Phật giáo, nhưng dường như không có bất cứ điều gì trực tiếp hoặc gián tiếp ám chỉ Trí Quang là một điệp viên cộng sản. Bằng chứng như vậy sẽ không gây sốc cho giới chức Mỹ vào lúc họ dễ dàng thừa nhận rằng vì cộng sản đã cố xâm nhập và ảnh hưởng đến phong trào. Xem Moyar, “Chiến thắng bỏ lỡ”, trang. 217.
[6] CIA Memorandum, “Trí Quang and the Buddhist Catholic Discord in South Vietnam, September 19, 1964, Lyndon B. Johnson Library (hereafter LBJL), National Security Files (hereafter NSF), Vietnam Country Files (hereafter VNCF), box 9, vol. 18; and Saigon Embassy to State Department, January 31, 1965, National Archives II (hereafter NA II), RG 59, Central Files, POL 13–6, box 2931.
[7] Số phận Trí Quang sau khi Sài Gòn sụp đổ không hoàn toàn rõ ràng, nhưng những gì được biết không hậu thuẫn luận điểm của Moyar. Moyar gợi ý rằng Trí Quang đã được khen thưởng vì cuộc đấu tranh của ông sau chiến thắng của miền Bắc: ‘Khi Cộng sản chinh phục miền Nam Việt Nam năm 1975, họ đã cho Trí Quang một công việc ở Huế và ông không lên tiếng phản đối chế độ của họ, trong khi họ bỏ tù nhiều nhà sư có quá khứ hoạt động chính trị khác’. Có một số vấn đề nghiêm trọng với việc chấp nhận đánh giá này. Đầu tiên, trích dẫn của Moyar miền Nam cho tuyên bố này là gửi đến Washington Post ngày 2 tháng 11 năm 1983, nhưng không có bài viết nào liên quan đến Trí Quang trong bài báo vào ngày đó. Rất có thể, Moyar có ý muốn trích dẫn một ý kiến ​​của H. Joachim Maitre, ‘Khi Washington bỏ rơi Diệm, đăng trên tờ Wall Street Journal vào hôm đó. Ý tưởng rằng Trí Quang được cộng sản khen thưởng cho vai trò của ông trong 1960 1960 không có sức thuyết phục kể từ khi chính Maitre viết, ‘Trí Quang được giao về sở vê sinh thành phố Huế. Một vị trí trong sở vê sinh thành phố của Huế chắc chắn giống như một hình phạt hơn là một phần thưởng, đặc biệt là với vai trò rất quan trọng Moyar và Maitre tin rằng Trí Quang đã đóng trong chiến thắng của cộng sản. Như Moyar ghi chú trong Triumph Forsaken, chế độ Bắc Việt đã dùng lại các đặc công bí mật khác sau chiến tranh, nhưng chế độ đó chưa bao giờ thừa nhận rằng Trí Quang là một đặc công. Hầu như tất cả các báo cáo tin tức khác về số phận Trí Quang, ở Việt Nam cộng sản vẽ một bức chân dung rất nghiệt ngã. Chẳng hạn, trong một câu chuyện năm 1979 trên tờ Thời báo New York, James Sterba đã cho hay rằng một trong những đệ tử của Trí Quang đã báo cáo rằng ông ta ‘bị biến thành một người tàn tật như bộ xương trong suốt một năm rưỡi giam cầm trong nhà tù Chí Hoa ở Tp. Hồ Chí Minh’. Xem James Sterba, “Ordeal of a Famed Buddhist in Ho Chi Minh City Related,” Thời báo New York, ngày 14 tháng 7 năm 1979, A2. Cuối cùng, Robert Topmiller, một sử gia đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Việt Nam để phỏng vấn Phật tử vào những năm 1990, báo cáo rằng ngay cả lúc đó Quang vẫn bị quản thúc tại chùa Ấn Quang ở Thành phố Hồ Chí Minh. Xem Robert Topmiller, Phật giáo Việt Nam trong năm 1990, Trang chủ Quảng Đức, www.quangduc.com/English/WorldBuddhism/27vietnam.html. Nói chung, bằng chứng cho thấy một kết luận đơn giản hơn: Thích Trí Quang có lẽ không phải là một đặc công cộng sản và Hà Nội đã xem ông là một nhân vật độc lập, người có thể nguy hiểm cho chế độ của họ tương tự như đối với những người cầm quyền ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1960.
[8] Robert Topmiller, The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964–1966 (Lexington, KY: The University of Kentucky Press, 2002), p. viii.
[9] Chẳng hạn, hầu như không có cuộc trò chuyện nào giữa Trí Quang với tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn trích dẫn trong luận văn này xuất hiện trong cuốn The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 1964-1966 của Topmiller. Topmiller dường như không nghiên cứu bất kỳ tài liệu nào trong “Central Files at NA II”, nơi lưu giữ hầu hết các cuộc nói chuyện như vậy. Dù các cuộc phỏng vấn của Topmiller với giới hàn lâm và Phật tử rất có giá, nhưng không may, nhiều lý luận tchính ông đưa ra chỉ được hậu thuẫn bằng những cuộc phỏng vấn lịch sử truyền khẩu hơn là bằng những tài liệu thực tiễn.
[10] Saigon to State Department, April 6, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2925. Có thể thấy tóm tắt gọn nhất về nguyên tắc chỉ đạo của Trí Quang trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Robert Shaplen năm 1969. ‘Các chính đảng như vậy chẳng có nghĩa gì … Chỉ có tôn giáo là đáng kể ở Việt Nam, và Tổng thống Nixon phải điều chỉnh với thực tế đó’. Robert Shaplen, The Road From War (New York: Harper & Row, 1970), p. 271.
[11] Thư của Trí Quang trong hồ sơ Saigon to Secretary, September 2, 1963, John F. Kennedy Library (từ đây sẽ viết là JFKL), National Security File (NSF), box 199, State cables 9/1/1963–9/10/1963. Điều đáng chú ý là Quang không muốn đến Tòa Đại sứ Ấn Độ để tị nạn chính trị vì ‘tính trung lập’ của Ấn Độ.
[12] Saigon to Secretary, November 27, 1963, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 1; and Saigon to State Department, NA II, RG 59, POL 13–6, box 2931. Paul Kattenburg, Giám đốc Khối Công tác Việt Nam (từ đây về sau viết tắt là VWG) và là người đã gặp Trí Quang ngay sau cuộc đảo chính, nói rằng ông đặc biệt chú ý đến điểm Quang nhấn mạnh vào việc Hoa Kỳ dùng quyền lực của mình đối với chính quyền Việt Nam. Paul Kattenburg to Melvin Manfull, December 31, 1963, NA II, RG 59, VWG Subject Files, box 1, ORG 1.
[13] Saigon to Secretary, November 11, 1963, JFKL, NSF, box 202, State Cables 11/6/1963–11/15/1963.
[14] Saigon to Secretary, December 17, 1963, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 2.
[15] Xem George McT. Kahin, Intervention: How America Became Involved in Vietnam (New York: Anchor Books, 1987), pp. 182–202; and Topmiller, The Lotus Unleashed, pp. 15–16.
[16] Xem David Kaiser, American Tragedy: Kennedy, Johnson, and the Origins of the War (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2000), pp. 297–298. Giới chức Mỹ liên tục yêu cầu Khánh đưa bằng chứng cho những tuyên bố của ông về Minh, nhưng họ không hề nhận được bất cứ bằng chứng nào để hậu thuẫn cho lời Khánh đã tuyên bố.
[17] Saigon to Secretary, January 17, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 1, vol. 2.
[18] Hue to Saigon, February 19, 1964, NA II, RG 59, POL VIET S, box 2924.
[19] Saigon to Secretary, April 6, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2925.
[20] Saigon to Secretary, “Recent Buddhist Developments,” March 26, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3, vol. 6.
[21] Saigon to Secretary, April 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 3, vol. 7.
[22] Saigon to Secretary, May 7, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 4, vol. 8. CIA cũng báo cáo rằng các cáo buộc về chủ nghĩa trung lập và chủ nghĩa cộng sản của Quang ‘tiếp tục không có căn cứ.’ CIA Intelligence Memorandum, “An Assessment of the Religious Problem in South Vietnam,” LBJL, NSF, VNCF, box 4, vol. 9.
[23] Memorandum of a Meeting, May 11, 1964, Foreign Relations of the United States (từ đây về sau sẽ viết tắt là FRUS), 1964–1968, vol. 1, p. 305.
[24] Saigon to Secretary, May 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 5, vol. 10.
[25] Saigon to State Department, June 1, 1964, NA II, RG 59, POL 6 VIET S, box 2929.
[26] Saigon to State Department, June 11, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
[27] Saigon to State Department, August 10, 1964, NA II, RG 59, POL 27 VIET S, box 2945.
[28] Nđd.
[29] Có thể theo chuyện dõi Trí Quang đối lập với Khánh trong Saigon to Secretary, August 23, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16; và một loạt các cuộc đối thoại trong Saigon to State Department, August 26, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933.
[30] Telecon with General Westmoreland, August 25, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16.
[31] CIA Intelligence Information Cable, “Một phân tích về sự liên kết có thể có, cá tính, mục đích của Thích Trí Quang Quang,” August 28, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 7, vol. 16; and CIA Memorandum, “Trí Quang và Bất hòa giữa Phật giáo với Thiên Chúa giáo ở Việt Nam,” September 19, 1964, LBJL, NSF, VNCF, box 9, vol. 18.
[32] “Phân tích về Trí Quang,” 28 tháng 8 năm 1964. Phân tích của CIA ngày 19 tháng 9 ít dứt khoát hơn so với bản tường trình trước đó vì cho rằng Trí Quang ‘có lẽ không phải là cộng sản’. Moyar viết, dù CIA đã phủ nhận bản đánh giá, ‘Một số viên chức cao cấp của Hoa Kỳ đã nằm trong số những người tin rằng Trí Quang là một người cộng sản’. Phúc trình ngày 19 tháng 9 nói rằng có ‘một số người trong giới quan sát Hoa Kỳ thông thạo vấn đề nghiêng về quan điểm này’, nhưng tôi không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào xác định một ‘viên chức cao cấp’ cụ thể đã chia sẻ quan điểm này. Xem Moyar, “Sư chính trị”, trang p. 760.
[33] “Trí Quang and Buddhist Catholic Discord,” September 19, 1964.
[34] Fredrik Logevall, Choosing War: The Lost Chance for Peace and the Escalation of War in Vietnam (Berkeley: University of California Press, 1999), p. 240.
[35] Saigon to State Department, September 2, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
[36] Saigon to State Department, September 9, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933.
[37] Saigon to State Department, September 16, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
[38] Saigon to State Department, September 9, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2933.
[39] Saigon to State Department, September 16, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
[40] Saigon to State Department, September 28, 1964, NA II, RG 59, POL 15–7 VIET S, box 2937.
[41] Có thể tìm đọc cả bài diễn văn và lá thư trong tài liệu State Department, October 16, 1964, NA II, RG 59, POL VIET S, box 2924.
[42] Saigon to State Department, September 28, 1964, NA II, RG 59, POL 15–7 VIET S, box 2937.
[43] Saigon to State Department, October 23, 1964, NA II, RG 59, POL 27 VIET S, box 2948.
[44] Saigon to State Department, November 2, 1964, NA II, RG 59, POL 15 VIET S, box 2937.
[45] Saigon to State Department, November 5, 1964, NA II, RG 59, POL 2 VIET S, box 2926.
[46] “Current Estimate of Political Situation in South Vietnam”, November 25, 1964, NA II, RG 59, VWG Subject Files, box 5, POL 1: Vietnam/Other Areas.