Đại dịch và Trật tự Chính trị

Đại dịch và Trật tự Chính trị
The Pandemic and Political Order By Francis Fukuyama

Francis Fukuyama | Trần Giao Thủy

Những cuộc khủng hoảng lớn gây ra những hậu quả lớn, thường là không lường trước được. Cuộc Đại suy thoái đã gây ra chủ nghĩa biệt lập, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phát xít và Chiến tranh thế giới thứ hai – nhưng cũng dẫn đến Thỏa thuận mới, sự trỗi dậy của Hoa Kỳ như một siêu cường toàn cầu và cuối cùng là phi thực dân hóa. Vụ tấn công 11/9 đã tạo ra hai sự can thiệp thất bại của Mỹ, sự trỗi dậy của Iran và những hình thức mới của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã tạo ra một làn sóng chủ nghĩa dân túy chống lại cơ chế đã có (phản kiến chế), đã thay thế những nhân vật lãnh đạo trên toàn cầu. Giới sử gia trong tương lai sẽ theo dõi những ảnh hưởng lớn tương đượng đối với đại dịch coronavirus hiện nay; thách thức là nhìn thấy chúng trước.

Đã rõ lý do tại sao một số quốc gia đã giải quyết tốt hơn những quốc gia khác trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng (đại dịch) cho đến nay, và có mọi lý do để nghĩ rằng những khuynh hướng đó sẽ tiếp tục. Nó không phải là vấn đề tùy thuộc vào chế độ. Một số quốc gia dân chủ đã đạt kết quả tốt, nhưng những nước dân chủ khác thì không, và điều này cũng đúng với những nước chuyên quyền. Những yếu tố chịu trách nhiệm cho những ứng phó đại dịch thành công là khả năng  của quốc gia, lòng tin của xã hội và lãnh đạo. Những quốc gia có cả ba – một bộ máy chính phủ có khả năng, một chính phủ mà người dân tin tưởng và lắng nghe, và những người lãnh đạo hiệu quả – đã đạt kết quả một cách đáng nể, hạn chế được thiệt hại mà quốc gia của họ phải gánh chịu. Những quốc gia có trạng thái rối loạn, xã hội phân cực, hoặc lãnh đạo kém đã gánh chịu kết quả tồi tệ, khiến công dân và nền kinh tế của họ bị ảnh hưởng và dễ bị thiệt hại.

Càng biết nhiều về COVID-19, căn bệnh do coronavirus mới gây ra, cuộc khủng hoảng càng có vẻ kéo dài, tính bằng năm chứ không phải quý. Loại virus này ít gây chết chóc hơn là người ta lo ngại, nhưng rất dễ lây lan và thường truyền nhiễm không có triệu chứng. Ebola gây ra số người chết cao nhưng khó nhiễm; nạn nhân chết nhanh, trước khi họ có thể truyền bệnh cho người khác. COVID-19 thì ngược lại, có nghĩa là mọi người có khuynh hướng không đề phòng nó đúng mức, và vì vậy nó đã, đang và sẽ tiếp tục lan rộng trên toàn cầu, gây ra rất nhiều cái chết. Sẽ không có thời điểm để những quốc gia có thể tuyên bố đã thắng căn bệnh này; thay vào đó, kinh tế sẽ mở cửa lại chậm và tạm thời, với sự tiến bộ bị kéo chậm lại do những đợt lây nhiễm tiếp theo. Hy vọng về sự phục hồi hình chữ V là quá lạc quan. Nhiều khả năng là chữ L với đuôi dài cong lên trên hoặc một chuỗi chữ W. Nền kinh tế thế giới sẽ không sớm trở lại trạng thái như trước COVID.

Về mặt kinh tế, một cuộc khủng hoảng kéo dài sẽ đồng nghĩa với việc kinh doanh thất bại và tàn phá nhiều hơn đối với những kỹ nghệ như trung tâm mua sắm, chuỗi bán lẻ và du lịch. Mức độ tập trung thị trường trong nền kinh tế Hoa Kỳ đã tăng đều đặn trong nhiều chục năm, và đại dịch sẽ đẩy khuynh hướng này tiếp tục diễn ra. Chỉ những công ty lớn có túi tiền sâu mới có thể vượt qua cơn bão, với những đại công ty kỹ thuật đang đạt được lợi thế lớn nhất, khi những tương tác kỹ thuật số ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Hậu quả chính trị có thể còn đáng kể hơn. Có thể triệu tập được quần chúng để làm những việc anh hùng, hy sinh bản thân trong một giai đoạn, nhưng không thể là mãi mãi. Một dịch bệnh kéo dài kết hợp với nạn thất nghiệp trầm trọng, suy thoái kéo dài và gánh nặng nợ nần chưa từng có chắc chắn sẽ tạo ra căng thẳng dẫn đến phản ứng chính trị – nhưng chống lại ai thì vẫn chưa rõ ràng.

Hoa Kỳ đã phản ứng một cách tồi tệ và để ​​uy tín của mình bị sụt giảm nghiêm trọng.

Sự phân bổ quyền lực trên toàn cầu sẽ tiếp tục dịch chuyển về phía đông, vì Đông Á đạt được kết quả tốt hơn trong việc quản lý tình hình so với châu Âu hay Hoa Kỳ. Mặc dù đại dịch bắt nguồn từ Hoa lục và Bắc Kinh ban đầu che dấu và cho phép nó lây lan, Trung Hoa sẽ hưởng lợi nhờ cuộc khủng hoảng, ít nhất là tương đối. Khi đại dịch xảy ra, những chính phủ khác ban đầu hoạt động kém và cũng cố gắng che dấu, dễ thấy hơn và thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng hơn cho người dân của họ. Và ít nhất thì Bắc Kinh đã có thể lấy lại quyền kiểm soát tình hình và đang chuyển sang thử thách tiếp theo, nhanh chóng đưa nền kinh tế của họ trở lại một cách bền vững.

Ngược lại, Hoa Kỳ đã phản ứng lại một cách tồi tệ và để cho ​​uy tín của mình sụt giảm nghiêm trọng. Mỹ với tiềm năng quốc gia rộng lớn và đã xây dựng một thành tích đang nể trong những cuộc khủng hoảng dịch tễ trước đây, nhưng xã hội phân cực cao như hiện nay và người lãnh đạo không đủ khả năng [Donald Trump – TGT] đã ngăn chặn chính phủ hoạt động hiệu quả. Tổng thống đã gây ra sự chia rẽ thay vì kêu gọi đoàn kết, chính trị hóa việc phân phối viện trợ, đẩy trách nhiệm cho những thống đốc tiểu bang về việc đưa ra những quyết định quan trọng đồng thời khuyến khích những cuộc biểu tình chống đối vì họ bảo vệ sức khỏe cộng đồng, và tấn công những tổ chức quốc tế thay vì khuyến kích họ. Thế giới cũng có thể xem TV và đã phải kinh ngạc, với việc Trung Hoa nhanh chóng đưa ra sự so sánh rõ ràng.

Trong những năm tới, đại dịch có thể dẫn đến sự suy tàn tương đối của Hoa Kỳ, sự xói mòn liên tục của trật tự quốc tế tự do và sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít trên toàn cầu. Nó cũng có thể dẫn đến sự tái sinh của nên dân chủ tự do, một hệ thống đã nhiều lần khiến những người hoài nghi bối rối, cho thấy sức mạnh đáng kể của khả năng phục hồi và đổi mới nó. Những yếu tố của cả hai viễn ảnh sẽ xuất hiện, ở những nơi khác nhau. Thật không may, trừ khi những khuynh hướng hiện tại (giữa năm 2020) thay đổi đáng kể, dự báo chung là ảm đạm.

Chủ nghĩa Phát xít đang lên?

Kết cục bi quan rất dễ hình dung. Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa biệt lập, chủ nghĩa bài ngoại và những cuộc tấn công vào trật tự thế giới tự do đã gia tăng trong nhiều năm, và khuynh hướng đó sẽ lại tăng thêm vì đại dịch. Những chính phủ ở HungaryPhilippines đã dùng cuộc khủng hoảng để giành cho họ những quyền hạn khẩn cấp, khiến họ ngày càng xa rời chế độ dân chủ. Nhiều quốc gia khác, kể cả Trung Hoa, El Salvador và Uganda, cũng đã áp dụng những biện pháp tương tự. Những rào cản đối với sự di chuyển của người dân đã xuất hiện ở khắp mọi nơi, kể cả trong lòng châu Âu; thay vì hợp tác một cách xây dựng vì lợi ích chung của họ, những quốc gia đã hướng nội, tranh cãi với nhau và biến những đối thủ của họ trở thành vật tế thần cho những thất bại của chính họ.

Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc sẽ làm tăng khả năng xảy ra xung đột quốc tế. Giới lãnh đạo có thể coi những cuộc chiến với người nước ngoài là sự phân tâm chính trị có lợi trong nước, hoặc họ có thể bị cám dỗ vì sự yếu kém hoặc mối bận tâm của đối thủ và lợi dụng đại dịch để gây bất ổn cho những mục tiêu ưa thích hoặc tạo ra sự thật mới trên thực địa. Tuy nhiên, trong bối cảnh sức mạnh vũ khí hạch tâm tiếp tục ổn định và những thách thức chung mà tất cả những thế lực mọi bên phải đối phó, bất ổn quốc tế ít có khả năng xảy ra hơn bất ổn trong nước.

Công nhân từ Delhi đi về quê, Ấn Độ, tháng 3 năm 2020. Johann Rousselot / laif / Redux
Người lao động về quê tránh dịch bị kẹt ở trạm Cai Chanh, tỉnh Đắk Nông, 27 tháng 7, 2021. Ảnh: Bảo Lâm

Những nước nghèo với những thành phố đông đúc và hệ thống y tế công cộng yếu kém sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Không chỉ cách biệt về mặt xã hội mà ngay cả việc vệ sinh đơn giản như rửa tay cũng vô cùng khó khăn ở những quốc gia mà người dân không thường xuyên được dùng nước sạch. Và chính phủ thường làm cho vấn đề trở nên tệ đi hơn là tốt hơn — dù là do cố ý, bằng cách kích động sự căng thẳng cộng đồng và làm suy yếu sự đoàn kết xã hội, hay đơn giản vì sự kém cỏi. Ví dụ, Ấn Độ đã làm tăng tính dễ bị tổn thương bằng cách tuyên bố cách ly, giới nghiêm đột ngột trên toàn quốc mà không nghĩ đến hậu quả đối với hàng chục triệu công nhân di cư đi kiếm sống ở mọi thành phố lớn. Nhiều người đã phải trở về quê của họ, lây lan dịch bệnh trên khắp mọi miền đất nước; một khi chính phủ đảo ngược chính sách và bắt đầu hạn chế di chuyển, một số lớn công nhân bị kẹt lại trong những thành phố không có việc làm, nơi ở hoặc được chăm sóc. [Ấn Độ tháng 3, 2020 chính là Việt Nam tháng 7, 2021 – TGT]

Sự dịch chuyển do biến đổi khí hậu gây ra đã là một cuộc khủng hoảng đang diễn ra từ từ ở miền Nam toàn cầu. Đại dịch COVID-19 sẽ kéo theo những ảnh hưởng của nó, đưa một phần lớn dân số ở những nước đang phát triển đến gần bờ vực của sự sinh tồn hơn. Và cuộc khủng hoảng đã bóp chết niềm hy vọng của hàng trăm triệu người ở những nước nghèo vốn là những người được hưởng lợi từ hai thập kỷ tăng trưởng kinh tế bền vững. Sự phẫn nộ của người dân sẽ ngày càng tăng và bóp chết kỳ vọng ngày càng cao của người dân rốt cục là một công thức cổ điển cho cuộc cách mạng.

Những người tuyệt vọng sẽ tìm cách di cư, giới lãnh đạo mị dân sẽ khai thác tình hình để tóm thâu quyền lực, những chính khách tham nhũng sẽ nhân cơ hội đánh cắp những gì có thể, và nhiều chính phủ sẽ đàn áp hoặc sụp đổ. Trong khi đó, một làn sóng mới đang muốn di cư từ Nam lên Bắc bán cầu sẽ gặp ít thiện cảm hơn và nhiều phản kháng hơn trong thời gian này, vì người di cư hiện nay có thể bị cáo buộc một cách đáng tin hơn là họ mang bệnh tật và hỗn loạn đến.

Cuối cùng, sự xuất hiện của cái gọi là thiên nga đen theo định nghĩa là không thể đoán trước nhưng ngày càng có thể xảy ra khi người ta càng nhìn xa. Những đại dịch trong quá khứ đã nuôi dưỡng những viễn cảnh khải huyền, những giáo phái và tôn giáo mới nổi lên xung quanh những lo lắng tột độ do khó khăn kéo dài gây ra. Trên thực tế, chủ nghĩa phát xít có thể được coi là một trong những giáo phái như vậy, nổi lên từ bạo động và sự di chuyển mất trật tự do Chiến tranh Thế giới thứ nhất gây ra và hậu quả của nó. Những thuyết về âm mưu từng phát triển mạnh mẽ ở những nơi như Trung Đông, nơi người dân bình thường không có quyền và cảm thấy họ thiếu quyền tự quyết. Ngày nay, chúng cũng đã phổ biến rộng rãi ở khắp những nước giàu, một phần nhờ vào môi trường truyền thông bị rạn nứt do Internet và mạng xã hội gây ra, và sự đau khổ kéo dài có thể là nguồn cung cấp tài liệu phong phú cho những người theo chủ nghĩa dân túy khai thác.

Hay nền dân chủ có sức phục hồi?

Số người thiệt mạng vì COVID-19 trong G7. Nguồn: Our World in Data/COVID-19 Data Repository by the Center for Systems Science and Engineering (CSSE) at Johns Hopkins University

Tuy nhiên, cũng giống như cuộc Đại suy thoái không chỉ tạo ra chủ nghĩa phát xít mà còn làm hồi sinh nền dân chủ tự do, nên đại dịch cũng có thể tạo ra một số kết quả chính trị tích cực. Nó thường chỉ cần một cú sốc bên ngoài lớn như vậy để phá vỡ những hệ thống chính trị xơ cứng ra khỏi tình trạng trì trệ của chúng và tạo điều kiện để đổi mới cơ cấu lạc hậu đã quá hạn từ lâu, và mô hình đó có thể tái diễn, ít nhất là ở một số nơi.

Những thực tế thiết thực của việc giải quyết đại dịch thiên về tính chuyên nghiệp và chuyên môn; chính sách mị dân và sự kém cỏi dễ dàng bộc lộ. Việc này cuối cùng sẽ tạo ra một hiệu ứng lựa chọn có lợi, khen thưởng những chính khách và chính phủ làm tốt và trừng phạt những người kém cỏi. Jair Bolsonaro của Brazil, người đã liên tục đào thải những thể chế dân chủ của đất nước ông trong những năm gần đây, đã cố gắng vượt qua cuộc khủng hoảng một cách vô tội vạ và hiện đang chới với và chủ trì một thảm họa y tế.

Vladimir Putin của Nga đã cố gắng hạ cấp thông tin về đại dịch lúc đầu, sau đó tuyên bố rằng Nga đã kiểm soát được nó và sẽ phải thay đổi giai điệu của mình một lần nữa khi COVID-19 lan rộng khắp nước. Tính hợp pháp của Putin đã suy yếu trước cuộc khủng hoảng và tiến trình đó có thể đã tăng tốc.

[Dân Mỹ đã thay đổi người lãnh đạo quốc gia trong cuộc bầu cử 2020, một phần không nhỏ, đã dựa trên kết quả tồi tệ của chính quyền Trump trong việc đối phó với Đại dịch: CDC ước tính đã có 375,000 người Mỹ đã thiệt mạng vì COVID-19 trong năm 2020 – TGT]

Thống kê tạm thời về số người chết ở Mỹ trong năm 2020. COVD-19 là nguyên nhân thứ ba sau bện tim và ung thư. Nguồn CDC

Đại dịch đã chiếu một tia sáng vào những thể chế hiện có ở khắp mọi nơi, bộc lộ những sự bất xứng và yếu kém của chúng. Khoảng cách giàu nghèo giữa người dân và quốc gia ngày càng lớn do cuộc khủng hoảng và sẽ còn gia tăng trong thời kỳ kinh tế trì trệ kéo dài. Nhưng cùng với những vấn đề đó, cuộc khủng hoảng cũng cho thấy khả năng của chính phủ trong việc đưa ra những giải pháp, thu hút những tài nguyên tập thể trong tiến trình này. Cảm giác “một mình cùng nhau” kéo dài có thể đem lại sự đoàn kết xã hội và là động cơ phát triển những biện pháp bảo vệ xã hội hào phóng hơn trong tương lai, giống như những đau khổ chung của quốc gia trong Thế chiến thứ nhất và cuộc suy thoái đã kích thích sự phát triển của những nhàn nước phúc lợi trong những năm 1920 và 1930.

Cảnh sát trong một cuộc biểu tình chống khóa ở London, Anh Quốc, tháng 5 năm 2020. Pierre Alozie / eyevine / Redux

Việc này có thể giúp chấm dứt những hình thức cực đoan của chủ nghĩa tân tự do, ý thức hệ thị trường tự do được những nhà kinh tế học của Đại học Chicago như Gary Becker, Milton Friedman và George Stigler đề xướng. Trong suốt những năm 1980, trường phái Chicago đã đưa ra lời biện minh trí thức cho những chính sách của Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher, những người coi chính phủ lớn, xen vào chuyện của dân là một trở ngại cho tăng trưởng kinh tế và tiến bộ của con người. Vào thời điểm đó, có những lý do chính đáng để cắt giảm nhiều hình thức quốc doanh và quy định của chính phủ. Nhưng những lập luận đó đã trở thành một tôn giáo tự do, bao hàm sự thù địch với hành động của nhà nước trong một thế hệ trí thức bảo thủ, đặc biệt là ở Hoa Kỳ.

Với tầm quan trọng của hành động mạnh của nhà nước để làm chậm đại dịch, sẽ khó có thể tranh luận, như Reagan đã làm trong bài phát biểu nhậm chức đầu tiên của mình, rằng “chính phủ không phải là giải pháp cho vấn đề của chúng ta; chính phủ là vấn đề.” Cũng không ai có thể đưa biện luận chính đáng rằng khu vực tư nhân và hoạt động từ thiện có thể thay thế cho một nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp khẩn cấp quốc gia. Vào tháng 4, Jack Dorsey, Giám đốc điều hành của Twitter, tuyên bố rằng ông sẽ góp 1 tỷ đô la cho hoạt động cứu trợ COVID-19, một hành động từ thiện phi thường. Cùng tháng đó, Quốc hội Hoa Kỳ đã trích 2,3 nghìn tỷ đô la để duy trì những doanh nghiệp và cá nhân bị tổn thương vì đại dịch. Chủ nghĩa chống nhà nước có thể còn hiện hữu trong những người biểu tình giới nghiêm, nhưng những cuộc thăm dò cho thấy phần lớn người Mỹ tin vào lời khuyên của những chuyên gia y tế của chính phủ trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng. Điều này có thể tăng cường hỗ trợ cho những can thiệp của chính phủ nhằm giải quyết những vấn đề xã hội lớn khác.

Và cuộc khủng hoảng cuối cùng có thể thúc đẩy cho sự hợp tác quốc tế được đổi mới. Trong khi giới lãnh đạo quốc gia chơi trò đổ lỗi, những nhà khoa học và giới chức y tế công trên khắp thế giới đang tăng cường mạng lưới và sự liên kết của họ. Nếu sự đổ vỡ của hợp tác quốc tế dẫn đến thảm họa và bị đánh giá là thất bại, thì thời đại sau đó có thể thấy ​​một cam kết mới trong việc làm việc đa phương để thúc đẩy những lợi ích chung.

Đừng quá hy vọng

Đại dịch đã là một thử thách chính trị căng thẳng toàn cầu. Những quốc gia có chính phủ hợp pháp, có khả năng sẽ hoạt động tương đối tốt và có thể áp dụng những đổi mới để làm cho những quốc gia đó thậm chí mạnh hơn và linh hoạt hơn, do đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của họ trong tương lai. Những quốc gia có năng lực nhà nước yếu kém hoặc lãnh đạo tồi sẽ gặp khó khăn, dẫn đến tình trạng trì trệ, nếu không muốn nói là bần cùng hóa và bất ổn định. Vấn đề là nhóm thứ hai đông hơn nhóm thứ nhất rất nhiều.

Thật không may, sự thử thách căng thẳng quá khó nên rất ít người có thể vượt qua. Để giải quyết thành công những giai đoạn ban đầu của cuộc khủng hoảng, những quốc gia không chỉ cần những nhàn nước có khả năng và tài nguyên đầy đủ mà còn cần rất nhiều đến sự đồng thuận xã hội và những nhân vật lãnh đạo có tài năng, những người truyền cảm hứng cho dân tin tưởng. Nam Hàn và Đức của Angela Merkel đã đáp ứng được những đòi hỏi đó bằng cách giao việc quản lý dịch bệnh cho một cơ quan y tế chuyên nghiệp. Nhưng thường người ta thấy rất nhiều những chính phủ đã thất bại theo cách này hay cách khác. Và vì phần còn lại của cuộc khủng hoảng cũng sẽ khó quản lý, nên những khuynh hướng quốc gia này có thể sẽ tiếp tục, gây khó khăn cho sự lạc quan chung.

Một cuộc biểu tình tại New York State Capitol ở Albany, New York, tháng 4 năm 2020. Bryan Smith / Reuters

Một lý do khác cho sự bi quan là những kịch bản tích cực giả định một số loại diễn ngôn công cộng hợp lý và học tập xã hội. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa chuyên môn kỹ trị và chính sách công ngày nay yếu hơn so với trước đây, khi giới tinh hoa nắm nhiều quyền lực hơn. Dân chủ hóa quyền lực đã được cuộc cách mạng kỹ thuật số san bằng những hệ thống phân cấp nhận thức cùng với những hệ thống phân cấp khác và việc lấy quyết định chính trị giờ đây được thúc đẩy bằng những lời lảm nhảm thường được vũ khí hóa. Đó hầu như không phải là môi trường lý tưởng để tự kiểm tra tập thể, mang tính xây dựng và một số chính thể có thể tồn tại bất hợp lý lâu hơn mức có thể sống còn.

Biến số lớn nhất là Hoa Kỳ. Điều bất hạnh phi thường cho đât nước khi có một nhân vật lãnh đạo bất tài và gây chia rẽ nhất trong lịch sử hiện đại của Mỹ khi cuộc khủng hoảng xảy ra, và phương thức điều hành của ông ta không thay đổi dưới áp lực. Trải qua nhiệm kỳ đấu tranh với nhà nước mà ông đứng đầu, ông đã không thể lãnh đạo đât nước một cách hiệu quả khi tình hình đoi hỏi. Nhận định rằng vận may chính trị của ông được phục vụ tốt nhất do sự đối đầu và thù hận hơn là sự đoàn kết dân tộc, ông đã dùng cuộc khủng hoảng để gây ra những cuộc chiến và gia tăng sự phân chia xã hội. Sự kém hiệu quả của người Mỹ trong thời kỳ đại dịch có một số nguyên nhân, nhưng nguyên nhân đáng kể nhất là do một người lãnh đạo quốc gia thất bại trong việc lãnh đạo.

Mối liên hệ giữa chuyên môn kỹ trị và chính sách công ngày nay yếu hơn so với trước đây, khi giới tinh hoa nắm nhiều quyền lực hơn.

Nếu tổng thống được trao nhiệm kỳ thứ hai vào tháng 11, 2020 cơ hội cho sự hồi sinh toàn diện hơn của nền dân chủ hoặc trật tự quốc tế tự do sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, bất cứ kết quả bầu cử là gì, sự phân cực sâu sắc của Hoa Kỳ có thể vẫn còn. Tổ chức một cuộc bầu cử trong thời kỳ đại dịch sẽ rất khó khăn, và sẽ khích lệ những kẻ thất bại bất mãn thách thức tính hợp pháp của nó.

Ngay cả khi Đảng Dân chủ thắng ở Tòa Bạch Ốc và cả hai viện của Quốc hội, họ sẽ kế thừa một đất nước đang gục ngã. Những yêu cầu phải có hành động sẽ gặp phải hàng núi nợ và sự phản kháng gay gắt từ một phe đối lập thô lỗ. Những thể chế quốc gia và quốc tế sẽ yếu kém và quay cuồng sau nhiều năm bị lạm dụng, và sẽ mất nhiều năm để xây dựng lại chúng — nếu vẫn còn có thể.

Với giai đoạn khẩn cấp và bi thảm nhất của quá khứ khủng hoảng, thế giới đang chuyển sang một giai đoạn dài và đầy phiền muộn. Cuối cùng nó sẽ thoát khỏi đại dịch, một số sẽ nhanh hơn những nước khác. Những cơn động kinh bạo lực toàn cầu khó có thể xảy ra, và nền dân chủ, chủ nghĩa tư bản, và Hoa Kỳ đều đã chứng tỏ khả năng chuyển đổi và thích ứng trước đây. Nhưng họ sẽ cần làm ảo thuật thêm một lần nữa.

Tác giả | FRANCIS FUKUYAMA là viện sĩ Olivier Nomellini tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford và là tác giả của Bản sắc: Nhu cầu Nhân phẩm và Chính trị Phẫn nộ (Identity: The Demand for Dignity and the Politics of Resentment.)

© 2021 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn:  The Pandemic and Political Order | Francis Fukuyama |  Foreign Affairs | Jul/Aug 2020.