Bí mật bốn mươi năm: Câu chuyện của một người về vụ phá hoại cuộc tái tranh cử của Carter

Peter Baker | Trần Giao Thủy

Một chính khách nổi tiếng của Texas cho biết ông đã vô tình tham gia vào chuyến công du sang Trung Đông năm 1980 với một nghị trình bí mật.

Ben Barnes giờ đây nói về chuyến đi của ông qua Trung Đông vào năm 1980, “Lịch sử cần biết rằng chuyện này đã xảy ra.”  Ảnh: Christopher Lee cho The New York Times

WASHINGTON — Đã hơn bốn mươi năm trôi qua, nhưng Ben Barnes cho biết ông vẫn nhớ rất rõ. Người cố vấn chính trị lâu năm của ông ấy đã mời ông cùng công du qua Trung Đông. Điều mà ông Barnes nói rằng mãi sau này ông mới nhận ra  mục đích thực sự của chuyến công du đó là: phá hoại cuộc vận động tái tranh cử của tổng thống Hoa Kỳ.

Đó là năm 1980 và Jimmy Carter đang ở trong Toà Bạch Ốc, nhức đầu vì cuộc khủng hoảng con tin ở Iran đã làm tê liệt nhiệm kỳ tổng thống và cản trở nỗ lực tranh cử nhiệm kỳ thứ hai của ông. Cơ hội chiến thắng tốt nhất của ông Carter là lấy lại tự do cho 52 người Mỹ bị bắt trước Ngày bầu cử. Đó là điều mà ông Barnes nói rằng người cố vấn của ông đã quyết tâm ngăn chặn.

Người cố vấn của ông ấy là John B. Connally Jr., một con người vĩ đại trong chính trường Hoa Kỳ và là cựu thống đốc tiểu bang Texas, người đã phục vụ ba đời tổng thống và vừa thất bại trong nỗ lực tranh cử vào Toà Bạch Ốc. Từng là đảng viên Đảng Dân chủ, ông Connally muốn được Đảng Cộng hòa đề cử vào năm 1980 nhưng lại bị cựu Thống đốc của California, Ronald Reagan, lấn át. Ông Barnes nói, giờ đây ông Connally quyết tâm giúp ông Reagan đánh bại ông Carter và trong cuộc bầu cử lần này, một cách vận động để trở thành ngoại trưởng hoặc bộ trưởng quốc phòng trong chính quyền mới.

Cuộc khủng hoảng con tin ở Iran đã cản trở nỗ lực đắc cử nhiệm kỳ thứ hai của ông Carter. Ảnh:  Associated Press

Ông Barnes phần lớn đã giữ bí mật những gì xảy ra sau đó trong gần 43 năm. ông ta nói, ông Connally đã đưa ông đi hết thủ đô Trung Đông này đến thủ đô khác ở Trung Đông vào mùa hè năm đó, gặp gỡ một loạt những người lãnh đạo trong khu vực nhờ gởi một thông điệp không bóng gió đến cho Iran: Đừng thả những con tin trước cuộc bầu cử. Ông Reagan sẽ thắng và cho quý vị một thỏa thuận tốt hơn.

Sau đó, ngay sau khi trở về Mỹ, ông Barnes cho biết, ông Connally đã báo cáo với William J. Casey, chủ tịch ban vận động tranh cử của ông Reagan và sau này là giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương, thông báo tóm tắt cho ông ấy về chuyến đi trong phòng chờ ở sân bay.

Phe của ông Carter từ lâu đã nghi ngờ rằng ông Casey hoặc một người nào khác trong vòng thân cận của ông Reagan đã tìm cách bí mật phá hoại những nỗ lực giải thoát con tin trước cuộc bầu cử, và những cuốn sách đã viết về điều được gọi là bất ngờ tháng Mười. Nhưng những cuộc điều tra của quốc hội đã vạch trần một số giả thuyết trước đây về những gì đã xảy ra.

William J. Casey, trái, trở thành giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương dưới thời chính quyền Reagan. Bản quyền…Getty Images

Ông Connally không hiện diện trong những cuộc điều tra đó. Sự tham gia của ông ấy, như được ông Barnes mô tả, đã cho thêm một sự hiểu biết mới về những gì có thể đã xảy ra trong năm bầu cử quan trọng và cam go đó. Với việc ông Carter hiện đã 98 tuổi và đang được chăm sóc tại dưỡng đường cuối đời, ông Barnes cho biết ông cảm thấy buộc phải ra mặt để đính chính lịch sử. Ông Barnes, sẽ bước sang tuổi 85 vào tháng tới, cho biết trong một số cuộc phỏng vấn, lần đầu tiên của ông với một cơ sở truyền thông về sự việc,

“Lịch sử cần biết rằng điều này đã xảy ra. Tôi nghĩ điều đó rất quan trọng và tôi đoán rằng đoạn kết của Tổng thống Carter sắp đến đã khiến tôi suy nghĩ nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Tôi chỉ cảm thấy như chúng ta phải giải quyết nó bằng một cách nào đó.”

Ben Barnes

Ông Barnes không phải là con buôn vũ khí nước ngoài mờ ám với độ tin cậy đáng ngờ, giống như một số nhân vật đã khơi dậy câu chuyện Bất ngờ Tháng Mười những trước đó. Ông đã từng là một trong những nhân vật nổi bật nhất ở Texas, Chủ tịch trẻ nhất của Hạ viện Texas và sau này là phó thống đốc. Ông ấy là một nhân vật có ảnh hưởng đến nỗi ông đã giúp chàng trai trẻ George W. Bush gia nhập Lực lượng Vệ binh Quốc gia Không quân Texas thay vì phải đi quân dịch và gửi sang Việt Nam. Lyndon B. Johnson dự đoán rằng ông Barnes sẽ trở thành tổng thống vào một ngày nào đó.

Việc xác nhận câu chuyện của ông Barnes có trở ngại sau một thời gian dài. Ông Connally, ông Casey và các nhân vật chính khác trong sự việc đã qua đời từ lâu và ông Barnes không có nhật ký hay bản ghi nhớ nào để chứng thực lời kể của mình. Nhưng  rõ ràng ông ấy không có lý do để bịa ra câu chuyện và thực sự bày tỏ sự lo lắng khi công khai lên tiếng vì phản ứng của các đảng viên Đảng Dân chủ.

Ông Barnes, phải, với Tổng thống Lyndon B. Johnson. Hồ sơ tại Thư viện và Bảo tàng Lyndon Baines Johnson ở Austin xác nhận một phần câu chuyện của ông Barnes. Nguồn…thông qua Thư viện Tổng thống Lyndon B. Johnson

Ông Barnes đã xác định được bốn người còn sống mà ông đã tâm sự trong nhiều năm: Mark K. Updegrove, chủ tịch của Viện L.B.J.; Tom Johnson, cựu phụ tá của Lyndon Johnson (không có quan hệ họ hàng), người sau này trở thành nhà xuất bản của tờ Los Angeles Times và chủ tịch của CNN; Larry Temple, cựu phụ tá của ông Connally và Lyndon Johnson; và H.W. Brands, một sử gia của Đại học Texas.

Cả bốn người họ đều xác nhận trong những ngày gần đây rằng ông Barnes đã chia sẻ câu chuyện bí mật với họ nhiều năm trước. Tom Johnson nói, “Theo những gì tôi biết, Ben chưa bao giờ nói dối tôi” — một nhận định mà những người khác lặp lại. Ông Brands đã gồm ba đoạn về hồi ức của ông Barnes trong tiểu sử năm 2015 của ông Reagan, nhưng tài liệu này ít được công chúng chú ý vào thời điểm đó.

Hồ sơ tại Thư viện và Bảo tàng Lyndon Baines Johnson xác nhận một phần câu chuyện của ông Barnes. Một hành trình mới tìm thấy vào tuần trước trong hồ sơ của ông Connally cho thấy rằng trên thực tế, ông đã rời Houston vào ngày 18 tháng 7 năm 1980 để thực hiện một chuyến công du sẽ đưa ông đến Jordan, Syria, Lebanon, Ả Rập Saudi, Ai Cập và Israel trước khi trở về. Houston vào ngày 11 tháng 8. Ông Barnes được liệt kê là người đi cùng ông.

Các bản tin ngắn gọn vào thời điểm đó đã đưa tin về một số điểm dừng của ông Connally với rất ít chi tiết, mô tả chuyến đi là “hoàn toàn riêng tư”. Một ghi chú hấp dẫn trong hồ sơ của ông Connally xác nhận trí nhớ của ông Barnes rằng đã có liên hạc với ban vận động của Reagan ngay từ đầu chuyến đi. Dưới tiêu đề “Thống đốc Reagan”, một ghi chú của một phụ tá đã báo cáo cho ông Connally vào ngày 21 tháng 7: “Nancy Reagan đã gọi — họ đang ở Ranch, ông ấy muốn nói chuyện với xếp về việc tham gia những cuộc họp chiến lược.” Không có hồ sơ về trả lời của ông Connally.

Ông Barnes nhớ lại đã đi cùng với ông Connally vào đầu tháng 9 để ngồi lại với ông Casey để báo cáo về chuyến đi của họ trong cuộc họp kéo dài ba giờ tại phòng chờ của American Airlines tại nơi được gọi là Sân bay Khu vực Dallas/Fort Worth. Một mục trong lịch của ông Connally mới tìm được vào tuần trước cho thấy ông đã đến Dallas vào ngày 10 tháng 9. Khi tìm kiếm tài liệu lưu trữ của ông Casey tại Viện Hoover thuộc Đại học Stanford, không có tài liệu nào cho biết liệu ông có ở Dallas hay không.

Ông Barnes cho biết ông chắc chắn mục đích chuyến đi của ông Connally là để bắn tin tới chính quyền Iran rằng hãy giữ con tin cho đến sau cuộc bầu cử. Ông nói, “Tôi sẽ xuống mồ với niềm tin rằng đó là mục đích của chuyến đi. Đó không phải là công việc làm để mà chơi vì Casey rất muốn nghe ngay khi chúng tôi trở lại Hoa Kỳ.” Ông nói thêm, ông Casey, muốn biết liệu “họ có giữ con tin lại [như yêu cầu] hay không.

Không điều nào trong số đó xác định liệu ông Reagan có biết về chuyến đi hay không, ông Barnes cũng không thể nói rằng ông Casey đã chỉ thị cho  ông Connally thực hiện chuyến công tác đó. Tương tự như vậy, ông ta không biết liệu thông điệp được truyền tới nhiều nhân vật lãnh đạo Trung Đông có đến được với người Iran hay không, ít hơn nhiều là liệu nó có ảnh hưởng đến việc họ quyết định thế nào  hay không. Nhưng Iran đã giữ con tin cho đến sau cuộc bầu cử mà ông Reagan đã thắng, và chỉ thả họ vài phút sau buổi trưa ngày 20 tháng 1 năm 1981, khi ông Carter rời nhiệm sở.

Iran phóng thích con tin người Mỹ vài phút sau khi ông Carter rời nhiệm sở vào trưa ngày 20 tháng 1 năm 1981. Tín dụng…Associated Press

John B. Connally III, con trai lớn nhất của cựu thống đốc, cho biết trong một cuộc phỏng vấn hôm thứ Sáu rằng ông nhớ cha mình đã thực hiện chuyến công du Trung Đông nhưng chưa bao giờ nghe nói về bất kỳ thông điệp nào gởi tới Iran. Trong khi không tham gia chuyến đi Trung Đông đó, ông Connally con cho biết ông đã cùng cha đến gặp ông Reagan để thảo luận về vấn đề này mà không có ông Barnes và cuộc trò chuyện tập trung vào xung đột Ả Rập-Israel và các vấn đề khác mà tổng thống tiếp theo sẽ phải đối phó.

Ông Connally nói: “Không có chuyện nào đượcđề cập đến trong bất kỳ cuộc họp nào mà tôi tham dự về bất kỳ thông điệp nào được gửi tới chính quyền Iran. “Nghe không giống bố tôi.” Ông ấy nói thêm: “Tôi không thể thách thức trí nhớ của Ben về điều đó, nhưng nó không giống với trí nhớ của tôi về chuyến đi.”

Những nghi ngờ về sự tương tác của phe Reagan với Iran đã âm thầm lan truyền trong nhiều năm cho đến khi Gary Sick, cựu phụ tá an ninh quốc gia của ông Carter, đã đăng một bài bình luận khách mời trên tờ The New York Times vào tháng 4 năm 1991 để yểm trợ cho lý thuyết này, tiếp theo là cuốn sách “Ngạc nhiên tháng 10” được xuất bản vào tháng 11 năm đó.

Thuật ngữ “Bất ngờ tháng 10” ban đầu được phe Reagan dùng để mô tả những lo ngại của họ rằng ông Carter sẽ thao túng cuộc khủng hoảng con tin để tìm cách giải thoát họ ngay trước cuộc bầu cử.

Để ngăn chặn một kịch bản như vậy, ông Casey được cho là đã gặp đại diện của Iran vào tháng 7 và tháng 8 năm 1980 tại Madrid, dẫn đến một thỏa thuận được cho là đã hoàn tất tại Paris vào tháng 10, trong đó chính quyền Reagan trong tương lai sẽ chuyển vũ khí cho Tehran qua trung gian Israel để đổi lấy việc Iran giữ con tin lại cho đến sau cuộc bầu cử.

Ông Reagan chào đón Bruce Laingen, một cựu con tin ở Iran, đến Toà Bạch Ốc vào tháng 1 năm 1981. Ông Laingen và 51 người Mỹ khác đã bị giam giữ trong 444 ngày ở Tehran. Ảnh… Associated Press

Cả Hạ viện và Thượng viện mở hai cuộc điều tra riêng biệt và cả hai cuối cùng đều bác bỏ những tuyên bố về việc đi đêm. Toán Đặc nhiệm lưỡng đảng của Hạ viện, do Đảng viên Đảng Dân chủ, Dân biểu Lee H. Hamilton của Indiana, lãnh đạo và được Đảng Dân chủ kiểm soát– từ 8 vs. 5, đã kết luận trong một báo cáo đồng thuận dài 968 trang rằng ông Casey không ở Madrid vào thời điểm đó và rằng những câu chuyện bí mật  đi đêm đó không được lời khai, tài liệu hoặc báo cáo tình báo đáng tin cậy.

Tuy nhiên, một bản ghi nhớ của Toà Bạch Ốc do một luật sư của Tổng thống George H.W. Bush viết vào tháng 11 năm 1991 đã báo cáo về sự hiện hữu của “một bức điện tín từ đại sứ quán Madrid nói rằng Bill Casey đang ở trong thị trấn, với mục đích không rõ.” Bản ghi nhớ đó đã không được chuyển cho Toán Đặc nhiệm của ông Hamilton và chỉ được Robert  Parry tìm ra nó hai mươi năm sau đó, Robert  Parry là nhà báo đã giúp sản xuất một bộ phim tài liệu “Tiền tuyến” về điều bất ngờ vào tháng 10.

Đã liên lạc được qua điện thoại vào tuần trước, ông Sick nói rằng ông chưa bao giờ nghe nói về bất kỳ sự tham gia nào của ông Connally nhưng thấy câu chuyện của ông Barnes xác minh những lo ngại tổng quát mà ông đã nêu ra. Ông Sick nói:

“Điều này thực sự rất thú vị và nó thực sự bổ túc đáng kể vào mức độ thông tin căn bản về vấn đề này. Chỉ riêng việc ông ấy đang làm việc đó và báo cáo với Casey khi ông ấy quay lại đã có ý nghĩa rất lớn.”

Gary Sick

Câu chuyện đi xa hơn bất cứ điều gì mà tôi đã thấy cho đến nay, ông ấy nói thêm. “Vì vậy, điều này thực sự mới.”

Michael F. Zeldin, luật sư đảng Dân chủ của Toán Đặc nhiệm và David H. Laufman, luật sư đảng Cộng hòa của Toán Đặc nhiệm, cả hai đều nói trong các cuộc phỏng vấn gần đây rằng ông Connally chưa bao giờ nằm trên màn hình radar của họ trong cuộc điều tra và vì vậy họ không có cơ sở. để đánh giá tài khoản của ông Barnes.

Mặc dù ông Casey chưa bao giờ được chứng minh là đã tham gia vào bất kỳ thỏa thuận bất ngờ nào vào tháng 10, nhưng sau đó ông bị cáo buộc đã lén lút lấy một cuốn sách tóm tắt chiến dịch tranh cử của Carter trước cuộc tranh luận đơn độc giữa hai ứng cử viên, mặc dù ông phủ nhận có liên quan.

Ông Carter gặp Gary Sick, một phụ tá an ninh quốc gia, tại Phòng Bầu dục. Ông Sick đã đưa ra một giả thuyết sau thất bại của ông Carter rằng một đồng minh của Reagan đã làm trung gian cho một thỏa thuận với Iran về việc thả con tin sau bầu cử để đổi lấy vũ khí. Tín dụng… Associated Press

Tin tức về câu chuyện của ông Barnes đã được xác thực với một số cố vấn còn lại của ông Carter. Gerald Rafshoon, giám đốc truyền thông Toà Bạch Ốc của ông, cho biết bất kỳ sự can thiệp nào cũng có thể làm thay đổi lịch sử. Ông nói,  “Nếu chúng tôi đưa được con tin về Mỹ, chúng tôi đã thắng, tôi thực sự tin điều đó. Thật là quá quái đản.”

Ông Connally là một nhân vật khổng lồ trong chính trường trong thời đại của ông. Lớn lên trong một trang trại trồng bông ở Nam Texas, ông phục vụ trong Hải quân trong Thế chiến thứ hai và trở thành người bạn tâm giao của Lyndon B. Johnson, giúp điều hành năm chiến dịch tranh cử của ông, gồm cả cuộc bầu cử gây tranh cãi vào Thượng viện năm 1948 của ông đã bị hủy hoại bởi những cáo buộc gian lận đáng tin cậy. Điều hợp cuộc vận động tranh cử bất thành của ông Johnson năm 1960, sau đó làm việc cho liên danh John F. Kennedy và ông Johnson. Ông Connally được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải quân. Sau đó, ông đã thắng trong cuộc đua tranh chức thống đốc tiểu bang Texas vào năm 1962.

Ông ta đang ngồi ghế trước trong chiếc limousine của tổng thống ngay trước mặt ông Kennedy ở Dallas vào tháng 11 năm 1963 khi Lee Harvey Oswald nổ súng. Ông Connally bị thương ở lưng, ngực, cổ tay và đùi, nhưng không giống như ông Kennedy, ông đã thoát chết. Ông đã thắng thêm hai nhiệm kỳ thống đốc, sau đó trở thành Bộ trưởng Tài chính của Tổng thống Richard M. Nixon và cuối cùng chuyển đảng. Ông ấy là người được ông Nixon yêu thích, người muốn phong ông ấy làm phó tổng thống hoặc người kế nhiệm làm tổng thống.

Ông Connally bị truy tố tội khai man và âm mưu cản trở công lý vào năm 1974, bị công tố viên buộc tội nhận 10.000 đô la để ủng hộ việc tăng giá sữa, nhưng được bồi thẩm đoàn tuyên trắng án.

Trên chính trường, ông Connally đã tìm thấy một đàn em chính trị ở ông Barnes, người đã trở thành “con đỡ đầu hơn là một người bạn”, như James Reston Jr. đã viết trong “The Lone Star”, cuốn tiểu sử của ông về ông Connally. Là con trai của một nông dân trồng đậu phụng, trả tiền học đại học bằng cách đi từng nhà bán máy hút bụi, ông Barnes được bầu vào Quóc hội Texas năm 21 tuổi và đứng cạnh ông Connally trong bài phát biểu đầu tiên với tư cách là ứng cử viên cho chức thống đốc năm 1962.

Ông Barnes cho biết ông và John B. Connally Jr. đã gặp gỡ những nhân vật lãnh đạo ở khắp Trung Đông — mặc dù không phải Iran — để ngăn cản việc thả con tin cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống. Ảnh…Associated Press

Với sự giúp đỡ của ông Connally, ông Barnes trở thành Chủ tịch Hạ viện năm 26 tuổi và sau đó được bầu làm phó thống đốc, một vị trí đầy quyền lực ở Texas, để rồi thất bại trong cuộc tranh cử thống đốc vào năm 1972. Ông đã thúc giục ông Connally ra tranh cử tổng thống vào năm 1980 mặc dù lúc đó họ ở hai đảng khác nhau.

Sau khi cuộc vận động tranh cử của ông Connally sụp đổ, ông và ông Barnes đã hợp tác kinh doanh, thành lập Barnes/Connally Investments. Hai người đã xây những khu chung cư, trung tâm mua sắm và cao ốc văn phòng, đồng thời mua một hãng hàng không dân sự và một công ty dầu mỏ, sau đó là một nhà hàng thịt nướng, một tạp chí nghệ thuật phương Tây, một công ty tiêu đề và một công ty quảng cáo. Nhưng họ đã chi tiêu quá mức, gánh quá nhiều nợ và sau khi dầu giảm giá làm thị trường bất động sản Texas tan vỡ, họ đã nộp đơn xin phá sản vào năm 1987.

Hai người vẫn giữ tình bằng hữu tốt đẹp. Trong cuốn hồi ký, “In History’s Shadow”, không lâu trước khi qua đời vào năm 1993 ở tuổi 76, ông Connally viết,

“Bất chấp sự vỡ mộng trong những lần hợp tác kinh doanh của chúng tôi, Ben Barnes và tôi vẫn là bạn, mặc dù tôi ngờ rằng một trong hai chúng tôi sẽ quay lại kinh doanh với người kia.”

John B. Connally Jr.

Về phần mình, ông Barnes đã nói vào tuần trước rằng “Tôi vẫn là một người rất hâm mộ  ông ấy.”

Ông Barnes cho biết ông không biết mục đích chuyến đi Trung Đông khi được ông Connally mời. Họ đến khu vực này bằng một chiếc máy bay phản lực vùng Vịnh của công ty Superior Oil. Ông nói, chỉ khi họ ngồi họp với nhân vật lãnh đạo Ả Rập đầu tiên, ông Barnes mới biết ông Connally dự định làm gì.

Ông  Barnes nhớ ông Connally đã nói:

“‘Hãy nhìn xem, Ronald Reagan sẽ được bầu làm tổng thống và ông cần nói với Iran rằng họ sẽ có một thỏa thuận tốt hơn với Reagan so với Carter. Ông ấy nói, ‘Sẽ rất khôn ngoan nếu ông thông báo với Iran rằng hãy đợi cho đến khi cuộc tổng tuyển cử này kết thúc.’ Và trời ạ, tôi nói cho quý vị biết, tôi đang ngồi đó và tôi đã nghe thấy nó và vì vậy bây giờ chợt nhận ra, tôi nhận ra tại sao chúng tôi ở đó.”

Ben Barnes

Ông Barnes cho biết, ngoại trừ Israel, ông Connally lặp lại thông điệp tương tự tại mọi điểm dừng chân trong khu vực với những nhân vật lãnh đạo như Tổng thống Anwar el-Sadat của Ai Cập. Ông ấy nghĩ rằng động cơ của bạn mình quá rõ ràng. Ông Barnes nói: “Tôi thấy rất rõ ràng rằng Connally đang tranh cử chức ngoại trưởng hoặc bộ trưởng quốc phòng. (Ông Connally sau đó được mời làm Bộ trưởng Bộ Năng lượng nhưng đã từ chối.)

Từ trái, ông Barnes, ông Connally và Tổng thống Anwar el-Sadat của Ai Cập. Ông Barnes cho biết ông Connally đã vận động cho ông Reagan với mọi nhân vật lãnh đạo mà họ gặp trong chuyến đi. Ảnh…Ben Barnes

Ông Barnes cho biết ông đã không tiết lộ câu chuyện thật vào thời điểm đó để tránh bị chính đảng của mình phản pháo.  Ông ấy nhớ lại đã giải thích với một người bạn, “Tôi không muốn trông giống như Benedict Arnold đối với Đảng Dân chủ khi tham gia vào việc này.” Ông ấy tưởng tượng rằng những tựa báo trên trang nhất vào thời điểm đó sẽ gây tai tiếng. “Tôi không muốn chuyện đó xuất hiện trong cáo phó của mình chút nào.”

Nhưng, ông nói, nhiều năm trôi qua, ông thường nghĩ rằng ông Carter đã bị đối xử bất công. ông ấy nói, thảo luận về chuyến đi Trung Đông vào lúc này,  là cách ông ấy đền vù lại. Ông nói: “Tôi chỉ muốn lịch sử phản ảnh rằng Carter đã không được đối xử tốt về vụ những con tin. Ông ấy không thể đắc cử khi những con tin vẫn còn trong tòa đại sứ Mỹ ở Iran.”

Tác giả | Peter Baker là phóng viên chính của Toà Bạch Ốc và đã đưa tin về năm tổng thống gần đây nhất cho The Times và The Washington Post. Ông là tác giả bẩy cuốn sách, gần đây nhất là “The Divider: Trump in the White House, 2017-2021,” with Susan Glasser. @peterbakernyt • Facebook

Một phiên bản của bài viết này xuất hiện trên  The New York Times, ngày 19 tháng 3 năm 2023, Phần A, Trang 1 của ấn bản New York với tiêu đề: 43-Year Secret of Sabotage: Mission to Subvert Carter Is Revealed.

© 2023 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: A Four-Decade Secret: One Man’s Story of Sabotaging Carter’s Re-election | Peter Baker | The New York Times | 03/18/2023