Bệnh mãn tính Cộng sản: Sự dối trá

Nguyễn Văn Lục

propagandaSau khi ông Obama rời khỏi Việt Nam, tôi nhận được từ bạn bè trong nước một video. Tôi đã xem và cho đây là một bài toán thử mang ý nghĩa nhất về chuyến đi của ông Obama.

“Le régime totalitaire communiste est le mariage du mensonge et de la violence.” — Hu Ping

Chế độ độc tài cộng sản là sự kết hợp giữa sự dối trá và bạo lực. — Hồ Bình (胡 平)

Thierry Wolton trích lại “La Pensée manipulée: Le cas chinois”, trang 20, trong cuốn Une Histoire mondiale du Communisme,trang 183.

Sau khi ông Obama rời khỏi Việt Nam, tôi nhận được từ bạn bè trong nước một video. Tôi đã xem và cho đây là một bài toán thử mang ý nghĩa nhất về chuyến đi của ông Obama. Nó cho thấy lòng dân ở chỗ nào, nó chán ghét chế độ hiện nay đến như thế nào.

Chỉ một tiếng kêu: “Anh Ba ơi, Anh Ba, lâu quá” đã gợi lên cả một tâm tình của một dân tộc.

Tôi nghĩ, mình có viết gì cũng vô ích không diễn tả nổi tâm tình của một người phụ nữ miền Nam đối với một tổng thống Mỹ.

Sự bày tỏ ấy gián tiếp nói lên nỗi thất vọng, chán nản đối với những người lãnh đạo trong nước.

Và nếu họ có dịp được xem những hình ảnh này thì họ phải biết tự xấu hổ!

Không bao giờ những Tập Cận Bình, Nguyễn Phú Trọng được dân chúng đón tiếp và yêu mến một cách hồn nhiên như thế!

Tiếp theo đó thì nổ ra câu chuyện bà Tôn Nữ Thị Ninh – như một lỗi nhịp — phản đối ông Bob Kerry ở vị trí lãnh đạo đại học Fulbright.

Bob Kery tại Thư viện LBJ, 2016. By LBJ Library - https://www.flickr.com/photos/lbjlibrarynow/26096976283/, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=49251056
Bob Kery tại Thư viện LBJ, 2016. By LBJ Library – https://www.flickr.com/photos/lbjlibrarynow/26096976283/, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=49251056

Nhiều người từ trong nước và ngoài nước đã lên tiếng.

Tiếng nói từ trong nước của những người có uy tín như trường hợp Đinh La Thăng rồi cũng phải rút bài xuống. Ngoài nước thì bài viết của Nguyễn Thị Cỏ May xem ra có hiệu ứng tốt!

Tuy nhiên, có thể tất cả không trừ một ai thiện chí sai chỗ.

Chúng ta đã chửi nhầm đối tượng.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh rất có thể chỉ là tấm hình nộm mà những mũi tên bắn vào trở thành vô hiệu!

Riêng tôi, tôi không mấy ngạc nhiên vì đó chính là cách ứng xử thông thường của người cộng sản mà tôi gọi là căn bệnh mãn tính cộng sản: Bệnh dối trá. Họ nói một đằng, họ làm một nẻo. Giấy bút chưa ráo mực, họ đã ngăn cản 10 khách mời của tổng thống Obama không cho gặp. Nhân quyền đối với họ chỉ là trò hề dân chủ.

Tôi dám nghĩ, người cộng sản đã bất đắc dĩ nhận một món quà Fulbright mà chính ra họ không muốn nhận.

Phải hiểu cái kịch tính trong câu chuyện này: Nhận rồi tìm cách phá rối. Bộ ngoại giao cũng chính thức lên tiếng đứng về phía bà Ninh.

Ai lại ngu dại gì nhận một người khách lạ vào nhà và có quyền nói lung tung tí mẹt mọi chuyện?

Chúng ta cần nhớ làm lòng là bất kể là nước cộng sản nào thì chính sách, đường lối cũng chỉ là một sự rập khuôn. Khác thời điểm, khác khung cảnh địa lý, nhưng mọi diễn tiến diễn ra ở Hungary, ở Cuba, ở Việt Nam thì cũng chung một tấn tuồng.

Và cũng vậy không có gì giúp chúng ta nhận ra được cho thấy sự khác biệt giữa một nạn nhân cộng sản Tàu, nạn nhân cộng sản Việt Nam.

Nhiều người chắc cũng không thể nào quên câu tuyên bố rất ‘vô học’ của một người có học khi bị chỉ trích về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Bà Ninh nói thay cho chủ của bà:

“Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.”

Cộng sản bao giờ cũng vẫn là cộng sản.

Cộng sản già, cộng sản trẻ, cộng sản con, cộng sản gái, cộng sản có học hay không có học nếu thuộc bài thì cùng một lối ứng xử: Đó là dối trá, gian ngoan, xảo quyệt và bất chấp sự thật.

Vì thế, tất cả những ai tin vào đám con cái cộng sản, thứ phong kiến cha truyền con nối, là một ảo vọng.

(Đọc thêm: Bên Tàu, Weng Yunsong, con của thủ tướng Wen Jiabao điều khiển một xí nghiệp về vệ tinh lớn nhất Á Châu. Hu Haifeng, con của chủ tịch Hu Jintao, điều khiển một xí nghiệp quốc doanh độc quyền về Scanners de sécurités. 2006, Feng Shaodong, rể của Wu Bangguo, nhân vật số hai của Đảng đã giúp công ty Merry Lynch, từ đó thiết lập một nhà băng nhà nước với số vốn là 22 tỉ đô la. Liu Lefei, con của Liu Yunshan, điều khiển quỹ Citic Private Equity Fund, một trong những quỹ quốc gia lớn nhất của nhà nước.. Jeffrey Zeng, con của Zeng Peiyant, quản lý quỹ đầu tư Kaixin Investments.)

Trích Thierry Wolton, Ibid., trang 898)

Bà Ninh thể hiện đúng mức mẫu người cộng sản mà dối trá là một thứ đạo đức chính trị.

Nói một cách thẳng thừng, bà chỉ là con vẹt biết nói tiếng người.

Trách bà chính là phải đi tìm kẻ dạy bà nói.

Bà là cái thứ gì để phản đối vai trò của ông Bob Kerry và đại học Fulbright? Thực tế bà chỉ là một viên chức đã nghỉ hưu.

Đại học Fulbright - Việt Nam
Đại học Fulbright – Việt Nam

Bà là một trong số 11 triệu người cán bộ đang hoạt động hoặc nghỉ hưu mà ngân sách nhà nước phải è cổ ra trả lương. Theo bà Phạm Chi Lan: “40 người dân phải nuôi một người công chức” và “Không một ngân sách nào nuôi nổi bộ máy ăn lương lớn như vậy!”

(Trích, “Cần “khoán 10” để giảm gánh nặng 11 triệu người ăn lương nhà nước!” Lê Thọ Bình, Viettimes.vn 9/6/2016).

Theo tôi, bà Ninh chỉ là một trong những ký sinh trùng, hại dân hại nước mà cũng theo bà Phạm Chi Lan nhận định, “Đó là chưa kể người dân chúng ta phải gánh chịu tình trạng quan liêu, sách nhiễu, vòi vĩnh, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ trong số 2,8 triệu công chức này.” (Lê Thọ Bình, Ibid.)

Tôi hỏi bà, khi phản đối như thế, bà hiểu thế nào về quyền tự trị đại học của các đại học Mỹ trong việc giảng dạy, trong việc điều hành nhân sự?

Sau này, trong các nhân viên giảng huấn, bà lại dòm ngó vô và với chủ nghĩa lý lịch, bà sẽ lại thắc mắc phản đối người này, người kia chăng?

Cũng trong tương lai, những giáo sư được mời thỉnh giảng, họ sẽ rất ngại ngùng nhận lời và hợp tác với đại học Fulbright?

Căn bệnh mãn tính cộng sản nó xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi tình huống. Điển hình như vụ cá chết mà theo sự tiết lộ của đại sứ Mỹ thì họ đã từ chối lời yêu cầu giúp đỡ của người Mỹ.

Họ sẵn sàng để cá chết, dân chết thì họ cũng rất sẵn sàng để dân ngu.

Đại học Fulbright sẽ như một ngọn hải đăng hướng dẫn, là nơi trú ẩn, là mầm mống ‘diễn biến hòa bình’.

Ở nơi đây, một lần nữa, tôi xin vạch trần sự man trá, sự dối gạt, sự lừa đảo, sự thù ghét Mỹ và VNCH trong những sách sử chính thức của họ mặc dầu nay đã có sự bình thường hóa trong quan hệ Mỹ-Việt.

Sự gian trá ấy làm cho tôi thật kinh ngạc về bản chất cộng sản. Họ có thể làm những điều mà một người tử tế không thể nào làm được.

Chẳng hạn, trong bộ Giáo Trình Lịch sử Việt Nam, do Trần Bá Đệ chủ biên, dành cho sinh viên ban Sử học, nxb Đại Học Sư Phạm, ngày 15 tháng 1, 2010. Gồm 8 tập mà ở đây, tôi chỉ đề cập đến ba tập chót: Tập VI từ 1945 đến 1954. Tập VII từ 1954 đến 1975. Tập VIII từ 1975 đến nay. Xin lưu ý thời điểm xuất bản là 2010, cách đây chỉ 6 năm.

– Tập VI từ 1945 đến 1954

Theo chỉ đạo, tập sách này tương đối mỏng, chỉ dầy 230 trang để nói về cuộc kháng chiến chống Pháp. Không hề nhắc đến cuộc cướp chính quyền của Việt Minh. Không hề đề cập đến tình hình chính trị lúc bấy giờ. Và quan trọng hơn cả, không có một dòng, một chữ nói về sự giúp đỡ của Liên Xô, nhất là của Tàu. Tên Mao Trạch Đông cũng như Staline cũng không hề được nhắc đến. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có ghi nhận có 628 xe vận tải, có một trung đoàn lựu pháo 105 (sách dẫn trang 176), nhưng không nói xuất xứ các xe và pháo do ai cung cấp? Một cuốn sách sử như thế có thể nào gọi là sách sử được không hay là một thứ sử phi sử?

– Tập VII từ 1954 đến 1975

Tập này dầy hơn, 336 trang. Đặc biệt có chương dành để viết về cuộc di cư với nhan đề: Đấu tranh chống Mỹ-Diệm cưỡng ép đồng bào di cư. Xin trích một đoạn làm bằng cớ:

“Cùng với các biện pháp trên, Mỹ-Diệm còn xử dụng quân đội, công an, cảnh sát để càn quét, khủng bố bắt ép nhân dân di cư. Tại thôn Vạn Lộc (Quảng Bình), địch dùng máy bay thả bom, bắn đạn cháy 34 nhà cùng tất cả tài sản, làm 4 người chết, 439 người bị bắt đi. Tại Thanh Giả và Giã Khê (Bắc Giang), ngày 29 tháng bảy 1954, Mỹ-Diệm đã lừa bắt nhân dân xếp đầy 100 xe chở đi mà không ai kịp lấy quần áo, gạo thóc. Tại Móng Cái, ngày 31 tháng 7 1954, chúng đã bắt hơn 1000 người… Không chỉ ở nông thôn mà cả những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng… địch cũng xử dụng lực lượng quân sự, công an cảnh sát… để vây ráp, bắt nhân dân di cư. Ngày 20 tháng 8- 1954, chúng vây Quảng Bá, Hà Nội, bắt 20 người, ngày 25 tháng 8 vây bãi Phúc Xá Hà Nội bắt 50 người. Việc dùng bạo lực cưỡng ép di cư diễn ra phổ biến khắp miền Bắc, nhất là những địa phương có đông tín đồ Thiên Chúa giáo.”

(Trích Giáo Trình Lịch sử Việt Nam tập VII, trang 26).

Cuộc di cư đã diễn ra như thế nào và một triệu đồng bào di cư từ miền Bắc đã phải khốn đốn trốn chạy như thế nào mà họ còn có thể dựng ngược câu chuyện như trên.

Người Bắc di cư khi đọc đoạn này chắc chỉ cười! Và câu chuyện bà Ninh cũng tương tự. Chúng ta chỉ nên cười!

Nhưng thật ngạc nhiên, sang tập VIII, từ 1975 đến nay, họ lại không hề nhắc đến cuộc di tản hàng triệu người vượt biển tìm Tự Do được gọi là Boat People? Lại phải cười thôi!

Cũng trong tập VII này, Mặt Trận Giải Phóng miền Nam có mặt mà như thể vắng mặt. Chỉ vỏn vẹn khoảng một trang trong đó khẳng định như sau trong dịp thành lập tại chiến khu D:

Binh sĩ Việt Cọng (MTGPMN) đứng dưới lá cờ MTGPMN mang khẩu AK-47 tại cuộc trao đổi tù binh của uỷ ban quân sự 4 bên  (12/2/1973). Nguồn:  SSgt. Herman Kokojan
Binh sĩ Việt Cộng (MTGPMN) đứng dưới lá cờ MTGPMN mang khẩu AK-47 tại cuộc trao đổi tù binh của uỷ ban quân sự 4 bên (12/2/1973). Nguồn: SSgt. Herman Kokojan

“Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng sáng lập và xây dựng, giáo dục và lãnh đạo. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam kế tục truyền thống anh dũng, tinh thần quật khởi và đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam anh hùng, kế tục truyền thống vẻ vang phục vụ nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam.”

(Trích Giáo Trình Lịch sử 1954-1975, trang 131).

Đoạn văn trên cho thấy một sự lừa bịp trắng trợn Quốc tế và nhân dân miền Nam.

Trong cuộc Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân Huế, sách viết như sau:

“Kết quả chỉ trong vòng không đầy một tháng, đợt I của cuộc tấn công và nổi dạy đồng loạt, mà chủ yếu là tháng đầu, quân và dân ta đã diệt và làm tan rã từng mảng lớn quân Mỹ-ngụy, 150.000 địch trong đó có 35.000 tên Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu…[…] Đi đôi với tiến công quân sự hàng chục vạn quần chúng nội, ngoại thành nổi dậy phối hợp với lực lượng võ trang ở phần lớn các quận 4, 5, 6, 7 trừng trị bọn ác ôn ngoan cố, bọn mật vụ. Nhân dân các vùng ven đã nổi dạy, phá ách kìm kẹp, giành quyền làm chủ.”

(Ibid., trang 194).

Trong một tập Sử Địa khác, Tập Hỏi đáp Lịch sử, tập 9 có ghi lại cuộc đánh phá tòa Đại sứ Mỹ, biệt đội 11 có 17 người. Chết hết 15 người, còn lại hai người bị thương bị bắt cầm tù. Vậy mà bằng cách nào các xác chết trên có thể đếm được và báo cáo có 124 tên lính Mỹ bị giết?

(Trích Hỏi đáp Lịch sử, tập 9, trang 174)

Các con số thương vong trên là con số ảo, hoàn toàn bịa đặt.

Hàng chục vạn quần chúng nổi dạy là thêm một sự lừa bịp trắng trợn. Một người cũng không có. Trừ Huế có một nhóm nhỏ dẫn đường cho bọn họ. Người dân Saigon mới đầu hoảng sợ rồi dửng dưng nhìn những cái chết lãng xẹt của quân giải phóng, thây chất đầy nhà xác Nghĩa địa Đô Thành.

Tôi đã đến đây coi để thấy cái chết như thế nào. Tôi bâng khuâng nghĩ, tại sao lại chết vô nghĩa như thế này? Vài hôm sau, xe ủi đất của Đô Thành Sài Gòn đến làm công việc của xe ủi đất. Mùi hôi thối đã xông ra ngay từ cổng vào của nghĩa địa. Số người đứng coi có thể vỏn vẹn chỉ có mình tôi và người lái xe ủi đất. Chẳng một ai muốn chứng kiến cảnh này. Tôi không có thói quen cầu nguyện nên một nén hương cũng không có mà lúc ấy tôi nghĩ là cần. Ít ra để bớt được mùi hôi thối. Tất cả các xác chết vô thừa nhận đã bị ủi và chôn vùi chung trong một hố. Đó là những cái chết vô danh, chết vô nghĩa nhất trong cuộc chiến Mậu Thân mà lần đầu tiên tôi được chứng kiến.

Hơn 10 năm sau, tôi lại có dịp đến chốn này. Nghĩa địa đã được giải tỏa. Chỉ còn một bát nhang trên bàn thờ một nữ liệt sĩ. Trên tường nhếch nhác bẩn thỉu với những hình vẽ bậy bạ của trẻ con. Thật không xứng đáng tý nào cả.

Trong khi đó, họ không có một dòng nào viết về những nạn nhân chết trong Tết Mậu Thân ngoài Huế.

Cái chết của những liệt sĩ trong hố chôn tập thể tại Nghĩa địa Đô thành và những nạn nhân ở Huế trong dịp Tết Mậu có điều gì giống và khác nhau? Mỗi người phải tự mình tìm ra câu trả lời bởi vì không ai chết thay cho người khác được.

Thật tội nghiệp cho tuổi trẻ Việt Nam đã bị nhồi sọ.

– Tập VIII từ 1975 đến nay

Trong tập này, sự dối trá lại lộ nguyên hình: Họ không nhắc nhở gì đến chuyện đi học tập cải tạo sau 1975. Họ cũng không đả động gì đến số đông đảo những người đi vượt biển sau này được gọi là Boat People.

Họ hay thật. Họ không bao giờ biết ngượng và cũng không bao giờ biết xin lỗi.

Chương IV của sách với nhan đề: Đấu tranh bảo vệ tổ quốc (1975-1979).

Họ chửi tập đoàn Pol Pot ra rả, nhưng lại chỉ nhắc thoáng qua cuộc chiến tranh biên giới một cách thoang thoảng, mơ hồ như sau:

“Trung Quốc đã có những hành động làm tổn hại đến tình cảm giữa nhân dân hai nước, như cho quân khiêu khích quân sự dọc biên giới phía Bắc nước ta, dựng lên sự kiện ‘nạn kiều’, cắt viện trợ, rút chuyên gia, vận động Liên Hiệp Quốc và các nước trên thế giới cũng làm như vậy, nhằm gây khó khăn cho Việt Nam. Nghiêm trọng hơn, từ sáng 17-2-1979, Trung Quốc đã cho quân đội với lực lượng 32 sư đoàn (tương đương 60 vạn), 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1260 súng cối.. mở cuộc tiến công nước ta dọc biên giới phía Bắ, từ Móng Cái đến Phong Thổ dài hơn 1000 cây số.”

Sau đó vắn gọn họ đưa ra một lời kết luận rất hiếu hòa:

“Cuộc xung đột biên giới phía Bắc và Tây Nam nước ta đã chấm dứt, đưa lại hòa bình, đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc. Trên cơ sở đó và cố gắng của các bên, tình cảm láng giềng thân thiết, tình đoàn kết hữu nghị, hợp tác vốn có từ lâu giữa Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam–Kampuchia dần dần được khôi phục.”

(Trích Giáo Trình Lịch sử, tập VIII, Từ 1975 đến nay, trang 65)

Cái cảm tưởng của tôi khi đọc tập sử này là:

  • Đối với VNCH, họ vẫn mang tâm trạng thù ghét và miệt thị. Không bao giờ có sự hòa giải hòa hợp.
  • Đối với Mỹ, họ hơn bao giờ hết, cần sự giúp đỡ của Mỹ, nhưng tiếp tục nghi ngờ và không có sự cộng tác thật lòng. Cần Mỹ mà vẫn nghi ngại.
  • Đối với Trung Quốc, họ sợ Trung Quốc hơn con sợ bố. Tương lai của họ lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc mà không bao giờ có thể thoát Trung được.

Tôi căn cứ vào ba nhận xét trên để suy đoán mọi diễn biến tình hình chính trị trong nước hiện nay.

Ít ra thì điều đó cũng tránh cho tôi khỏi những ảo tường chính trị mà nhiều người đã vô tình mắc phải. Đối với Mỹ, mười điều họ hứa, ngay cả đã ký kết văn kiện, thì đến chín điều họ cũng dẫm đạp lên một cách rất thản nhiên.

Bởi vì họ chỉ sợ Tàu mà không sợ Mỹ.

Thị Ninh vs Bob Kerry. Tranh babui
Thị Ninh vs Bob Kerry. Tranh babui

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài của tác giả gởi. DCVOnline minh hoạ.

2 Comments on “Bệnh mãn tính Cộng sản: Sự dối trá

  1. NÓI VỀ SỰ LỘI NGƯỢC DÒNG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI CỦA CÁC MÁC

    Thuở còn hoang khai trong tự nhiên, dĩ nhiên chưa có thế giới con người, chưa có xã hội. Con người lúc đó con là một sinh vật hòa lẫn trong thiên nhiên. Nhưng do phận mệnh nào đó, con người tìm ra được lửa, biết thui chính thức ăn, dần dần biết chế tạo ra dụng cụ săn bắn, các vật dụng, con người bắt đầu thành hình, xã hội loài người bắt đầu được tạo ra.

    Lúc đầu con người chỉ biết hái lượm, săn bắn, chưa cần tài sản riêng, cũng chưa có nhu cầu hay ý niệm tài sản riêng. Nhưng khi xã hội phát triển lên, nhân số đông ra, đã bắt đầu có sự canh tranh nào đó, thế là định chế tài sản và tư hữu ra đời. Có nghĩa mọi cái gì hình thành trong xã hội đều do lịch sử phát triển, không phải tự trời rơi xuống hay từ hư vô mà ra. Dòng lịch sử đó cứ dần dần mở rộng ra như con suối và cứ thế trôi nhanh đi, cũng chẳng vật nào trôi ngược lại được dòng suối đó cả.

    Như vậy từ chỗ vô sản đến chỗ hữu sản là sự phát triển khách quan tự nhiên của lịch sử xã hội. Càng ngày tài sản đẻ thêm ra tài sản, mọi vật dụng càng phong phú hơn, đời sống văn minh, văn hóa của nhân loại được phát triển hơn. Từ đó cũng bắt đầu con đường phát triển khoa học kỹ thuật mọi loại, từ chỗ đơn sơ nhất đến chỗ cao hơn và phức tạp thêm và cứ thế mà đến ngày nay. Có nghĩa từ xã hội quần cư, đến xã hội bộ lạc, đến phong kiến, qua quân chủ, đến tư sản chuyển thành tư bản chỉ là con đường phát triển tự nhiên, khách quan, kéo dài nhiều nghìn năm nhờ vào phát triển trí tuệ và phát triển xã hội mọi mặt của con người.

    Vậy nhưng Mác lại muốn lội ngược lại dòng lịch sử đó, muốn quay về vô sản, quay về xã hội cộng sản sơ khai ban đầu nhưng được nâng cấp lên và Mác cho rằng đó là xã hội khoa học. Thật ra ý niệm cộng sản đã nhiều lần được nếu ra và thực hiện trước Mác nhưng đều thất bại. Bởi đó chỉ là cách lội ngược lại dòng lịch sử phát triển như đã nói. Thế nhưng Mác ngụy biện và ngụy tín, cho rằng chúng thất bại vì là không tưởng, tức chỉ hoàn toàn cảm tính mà không có cơ sở khách quan nào làm nền tảng cả. Bởi vậy Mác dựa vào biện chứng luận của Hegel, dùng nguyên lý phủ định của phủ định, mà Mác cho rằng tuyệt đối khoa học để tin chắc rằng học thuyết của mình là học thuyết khoa học, và xã hội cộng sản theo lý thuyết ông ta là cộng sản khoa học. Nhưng Mác chỉ mê tín vào Hegel, vì Hegel duy tâm còn Mác là duy vật, như thế hóa thành một kiểu lý luận khiên cưỡng, giả tạo, tưởng tượng, làm sao khoa học được. Bởi thế lý thuyết của Mác không những vẫn không tưởng mà còn siêu không tưởng. Bởi vì nội dung lý luận của nó phần lớn chỉ ngụy biện, kiểu gọt chân sao cho vừa giày, nên nó cũng giống như một mớ bọt xà phòng được thổi bung lên mà thực chất nó chẳng có bao nhiêu cả.

    Do đó Mác phải nghĩ ra ngay một biện pháp để cưỡng ép thực tế xã hội và lịch sử loài người từ nay phải bị khung trong đó, đó là biện pháp chuyên chế, cưỡng bách mà Mác gọi là chuyên chính vô sản. Mác quên một điều là giai cấp công nhân chỉ là giai cấp với nhiều bất cập trong thời buổi lúc đó. Nhưng vì mê tín nguyên lý biện chứng phủ định của phủ định, Mác giả tạo gán ép giai cấp công nhân vô sản có sứ mệnh lịch sử, là giai cấp tiên phong v.v… để giải quyết bài toán đi lên chủ nghĩa cộng sản. Nói chung Mác hầu chỉ ức đoán và mang tư duy chủ quan, độc đoán mọi mặt. Điều đó trong thực tế đã trả lời rõ ràng tất cả.

    Có nghĩa trên thực tế như thế, đã bắt đầu một kịch bản hoàn toàn giả tạo trong xã hội. Kẻ ngây thơ thì tin là đúng, trở thành cuồng tín và mù quáng, kẻ không ngây thơ thì bắt đầu lợi dụng để thủ lợi, còn kẻ thụ động thì phải bắt đầu đóng kịch mọi loại để thích nghi hay hùa theo đó. Điều này thực chất đã xảy ra trong mọi nước cộng sản cho đến khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ rồi tan rã. Như vậy chính Mác đã tạo nên sự chia rẽ và sự lừa dối nhau trong quan hệ con người, trong xã hội lịch sử loài người do chính các quan niệm giả tạo không đúng sự thật khách quan trong lý thuyết của mình. Điều đó tạo nên sự đau xót chung cho toàn xã hội, và xã hội cũng khó đi lên phát triển được mà thường chỉ hay dậm chân tại chỗ. Sự cưỡng chế đi kèm với hi sinh mọi mặt, nhất là mặt thật thà chân chân của con người khiến ai ai cũng bị đánh mất.

    Thực chất thân xác con người không quyết định gì quan trọng cả. Nhưng cái quyết định quan trọng nhất trong thế giới loài người chính là lý trí và tình cảm. Bởi lý trí giúp con người phân biệt đúng sai, tôt xấu, hay dở, còn tình cảm tạo nên các cảm xúc lành mạnh và cũng tạo nên mọi hạnh phúc thực tế của con người. Vậy nhưng nếu trong một xã hội mà mọi người bắt buộc phải đóng kịch để nhằm tồn tại và ngoi lên, thế thì coi như lý trí lành mạnh cũng bị thoái hóa, tê liệt và không còn ý nghĩa hay công dụng thự tế gì nữa cả. Lý trí đã như thế thì tình cảm và cảm xúc cũng như thế, chúng chỉ hoàn toàn trò diễn chung trong vỡ kịch toàn diện. Như sự than khóc lãnh tụ chết đi ở Triều Tiên bao nhiêu lần đều cho thấy cái gian dối dị hợm cùng hèn kém đó của toàn xã hội.
    Bởi vậy xã hội hầu hết đều trở thành gian dối, mù quáng, con người trở thành mưu mô, dối gạt nhau để tồn tại, đó là điều phản nhân văn, phản lương thiện, phản trung thực, phản đạo đức mà có lẽ Mác đã không thể tiên liệu được hết. Nó nói lên hai điều sai hỏng trong tư duy lý luận của Mác. Nếu lý thuyết thật sự khách quan, khoa học, đúng đắn thi cần gì phải chuyên chính. Còn lý thuyết sai hỏng thì có chuyên chính bao nhiêu cũng không thể nào đem lại kết quả nào được. Vậy thì nếu một trong hai đàng sai còn có chỗ biện minh được, ở đây hai đàng đều sai thì quả thật Mác đã đưa nhân loại vào chỗ bế tắt và kinh khiếp mà xưa nay chưa từng có. Nó trở thành một học thuyết phản đạo đức, phản xã hội nhưng được Mác mệnh danh là khoa học để hấp dẫn nhiều người trong buổi ban đầu là như thế.

    Vả chăng Mác còn ngụy biện một cách chưa có tiền lệ. Ông ta cho rằng chỉ có đạo đức cách mạng, tưc đạo đức vô sản theo ông ta mới là đạo đức thật, chính đáng, còn đạo đức truyền thống, cổ xưa đều là thứ đạo đức tư sản, chẳng có gì chính đáng, chính chỗ đó ông còn đi xa hơn, bất kỳ quan niệm nào không giống hay ngược lại với quan điểm của ông ta, Mác đều chụp mũ hô lên là quan điểm tư sản tuốt tuột. Thật là sự độc tài độc đoán quá quắt, ngay trong tư duy của ông ta, trong lý thuyết của ông ta, lẫn trong thực hành trong thực tế xã hội của nó. Bởi vậy trách nhiệm tinh thần và trách nhiệm vật chất, đời sống, kinh tế của Mác gây ra với xã hội và lịch sử loài người từ trước đến nay là quá lớn. Nhưng không ai phê phán nó được, bởi do Mác đã làm cái ngàm trước như thế, nên bất kỳ phê phán nào đều giỏ trong sức mạnh chuyên chính mà ông ta đã tạo ra cả.

    Nói chung lại, tính cách phản đạo đức, phản xã hội, phản lịch sử, phản khoa học, phản nhân văn đó là điều vẫn thấy trong học thuyết Mác đi đem ra thực hiện trong xã hội. Bởi bản năng của con người có ai mà thánh thiện, nên cũng giống như khi có điều kiện thuận lợi thì cỏ vẫn mọc nhiều hơn lúa, đó là cái mà Mác không chịu thấy hay không thèm thấy thì thử hỏi lương tâm xã hội và nhận thức khoa học của ông ta để ở đâu. Bởi thế ông ta đúng là người đã lội ngược dòng lịch sử phát triển của lịch sử xã hội. Mọi định chế tài chánh tiền tệ trong xã hội tư bản đều là sự tiến hóa, sự chắt lọc, sự lựa chọn ra của nhận thức loài người cả ngàn năm. Thế mà Mác phỉ sách, sổ toẹt cả nền kinh tế và xã hội tư sản, tư bản. Chẳng qua Mác quá điên loạn về ý tưởng vô sản, giống như một kiểu mặc cảm bệnh hoạn, không còn phân biệt được ý nghĩa công cụ của tư hữu, tài sản và ý nghĩa mục đích của nó ra sao. Mác thâm thù tư sản có phải chăng do tâm lý mặc cảm vì ông ta trong quá khứ quá nghèo phải được Ănghen cưu mang, giúp đỡ, và phải chăng chỉ vì nguyên nhân bất đắc dĩ đó Mác đã đưa ra một học thuyết bề ngoài hào nhoáng, hấp dẫn những người nông cạn, thơ ngây mà thực chất bên trong lại tàn phá lịch sử, tàn phá xã hội. Vì quan điểm của ông ta chỉ muốn đốn hạ, tiêu hủy xã hội tư sản, tư bản khiến cho nhiều người muốn cải thiện nó, làm cho nó được hữu lý hơn, được tốt đẹp hơn cũng chẳng thể nào làm được. Bởi ông mơ đến một xã hội hoàn toàn không có tư hữu, không dùng tiền tệ, chỉ lao động và phân phối trực tiếp lẫn nhau giữa mọi người như kiểu một công xường, một trại lính, một công trường chăn nuôi thì còn cần gì đến cơ chế xã hội tinh vi, hiệu quả, vận hành phức tạp đầy các chức năng hợp lý hóa nào nữa. Tức chỉ dựa vào quan điểm kinh tế vi mô nhìn phiến diện lúc ban đầu, Mác đưa ra ý niệm bóc lột và giá trị thặng dư cách cứng nhắc, giả tạo, máy móc, để nhằm tàn phá chung cả xã hội kinh tế vĩ mô mang cách toàn diện đa dạng, thật là chỗ hết sức ngây thơ, nông cạn và bé cái lầm của Mác.

    Như vậy sự đi ngược dòng lịch sử, lội ngược dòng lịch sử phát triển nơi xã hội loài ngươi của Mác là có thật. Nó diễn ra trên hai phương diện, phương diện lịch sử quá khứ và phương diên diễn ra trong hiện tại. Trong quá khứ hay trong lý thuyết, các lý luận của Mác về các hình thái xã hội, về con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản khoa học đều chỉ tưởng tượng mà không có thật trong thực tế. Còn con đường thực tế là mọi xã hội bao cấp trong nền kinh tế tập thể, tập trung cứng nhắc do Mác đưa ra và thực hành hoàn toàn thất bại nhiều nơi đến nay trên toàn thế giới đều bỏ cả khi khối cộng sản cũ đã sụp đổ và tan rã. Như vậy sự lội ngược dòng lịch sử phát triển của xã hội loài người mà Mác đã chủ trương thật hoàn toàn vô lý và ngu ngốc. Bởi nó hoàn toán trái lại mọi quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử xã hội, từ đó nó tạo ra những cơ chế chính trị tuyệt đối độc đoán, hoàn toàn thủ tiêu mọi yêu cầu về tự do dân chủ đúng đắn của mỗi con người cũng như toàn xã hội, nó tạo nên một tâm lý giả dối mọi mặt, đóng kịch mọi mặt, cả cá nhân cũng như xã hội, và đó không những là sự sai phạm mà còn là tội lỗi muôn đời của Mác.

    THƯỢNG NGÀN
    (19/6/16)

  2. Bà Tôn Nữ Thị Ninh, và một số trí thức Việt Nam khác, trong đó có người là giáo sư đại học đã lên tiếng phản đối ông Bob Kerrey lấy cớ là ông ta là kẻ gây ra vụ thảm sát ở Thạnh Phong. Vụ thảm sát ở Thạnh Phong vẫn còn dấu hỏi là có phải vì du kích CS bắn vào lính Mỹ rồi sau đó ông Bob Kerrey ra lệnh bắn lại hay là ông Boy Kerrey bỗng dưng quây đàn bà, con nít lại mà bắn.

    Dù thế nào chăng nữa thì nhắc lại vụ Thạnh Phong là người CS vẫn luôn luôn xem mình là tâm điểm để đánh giá sự việc. Ai làm gì có ích lợi cho họ thì họ cho là người tốt, ai làm gì có hại cho họ thì họ cho là người xấu . Nhưng đại học Fulbright là một cơ sở giáo dục thì nếu đánh giá người lãnh đạo đại học thì nên đánh giá là họ có làm tốt cho trường đó hay không, có làm tốt cho việc giáo dục hay không. Việc giáo dục không nên lấy lợi ích của đảng CSVN làm tiêu chuẩn để định xem nó tốt hay xấu mà nên lấy lợi ích của chính sinh viên và lợi ích của quốc gia ra mà đánh giá. Nếu nhắm vào lợi ích của chính người được dạy và lợi ích quốc gia thì cách giáo dục độc lập với các phe phái chính trị là tốt nhất cho người được dạy, cũng là tốt nhất cho quốc gia. Vì thế nên xét ông Bob Kerrey ở vào vị trí đó có làm gì có hại cho sự độc lập của đại học Fulbright hay không. Muốn biết ông ta sẽ làm tốt hay xấu cho đại học Fulbright thì có thể xét xem trong 9 năm lãnh đạo đại học New School ở New York ông ta làm có tốt hay không. Việc ông ta đã đi lính tại Việt Nam và can dự vào vụ Thạnh Phong có ảnh hưởng đến thành tích của ông ta tại đại học New School hay không, có làm cho đại học này bị giảm bớt độc lập hay không.

    Bà Tôn Nữ Thị Ninh và các trí thức chỉ trích ông Bob Kerrey có thể tìm ra bằng chứng là trong thời gian 9 năm ông Bob Kerrey lãnh đạo đại học New School có dấu hiệu gì là vụ thảm sát ở Thạnh Phong làm cho việc làm của ông Bob Kerrey bị giảm bớt giá trị hay gây ra hậu quả xấu cho đại học New School hay không?