Nhận định tổng quan về thành phần phản chiến và lực lượng thứ ba (p3)
Nguyễn Văn Lục
Ai được gọi là nằm trong Lực lượng thứ ba? Nhóm nào được gọi là lực lượng thứ ba? Tổ chức của nó là gì? Ai là người lãnh đạo?
Bấy nhiêu câu hỏi, nhưng không có câu trả lời trọn vẹn!!
Lực lượng thứ ba là gì? Trường hợp Lý Chánh Trung và Nguyễn Ngọc Lan
Một phần có thể vì tính cách bí mật của tổ chức, sợ bị lộ và bị bắt cầm tù, phần khác, có nhiều người tham gia tự nguyện như viết sách báo, nhưng chưa móc nối và đó là những hoạt động có tính tự phát, khởi động tùy tiện, tùy hứng, tùy hoàn cảnh mà có thể sau này cũng được xếp vào lực lượng thứ ba, hơn nữa vì không có tính cách công khai nên các thành viên trong tổ chức phải dấu danh tính, hoặc mang tên giả, vì thế cùng hoạt động mà họ cũng có thể không biết rõ nhau hết.
Riêng Lý Chánh Trung, một người được coi là tiêu biểu cho thành phần này cũng mô tả “Lực lượng thứ ba” một cách khôn khéo lờ mờ.
Ông cho rằng chỉ nên coi “Lực lượng thứ ba” là một khát vọng hơn là một lực lượng có tổ chức. Và cũng theo ông, tất cả chỉ có hai ba trăm người được gọi là lực lượng thứ ba.
Trong bài trả lời cho Alain Ruscio, Lý Chánh Trung còn nói bóng bẩy, đề cao thành phần này một cách kín đáo và gián tiếp coi Lực lượng thứ ba, chính là những người chủ nghĩa xã hội cộng sản nằm vùng khi ông trả lời:
“Tôi, từ lâu, tôi mơ ước một cuộc cách mạng ôn hòa. bình dân và có sự độ lượng. Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam đáp đúng nguyện vọng của tôi… Chúng tôi đã làm tất cả để cho ra đời một xã hội mới với sự giảm bớt mọi đau thương nếu có thể.”
(Alain Ruscio. Vivre au Viêt Nam, Éditions sociales. Paris 1981).
Đây là một lối trả lời biện chứng, chửi mà khen. Khéo quá. Vì thế, lãnh đạo Đảng đáp lễ lại, Lý Chánh Trung là một người cộng sản thứ thiệt mà chưa có thẻ đảng. Thì đây là một lời khen mà chính là lời cảnh cáo: Anh có là gì cũng không phải người của chúng tôi.
Chưa thuộc bài vỡ lòng ấy nên Lý Chánh Trung đã vấp phải một sai lầm. Chẳng hạn, vào năm 1989, có nhiều trí thức cộng sản lên tiếng phê bình việc giảng dạy chủ nghĩa Mác- Lênin, trong đó có Trần Văn Giàu đã nói thẳng.
Nhưng đến khi Lý Chánh Trung lên tiếng với bài viết: Về một môn học mà thày không muốn dạy, trò không muốn học thì lại khác.
Lê Đức Anh và cả Nguyễn Văn Linh lên tiếng liền. Anh là cái thá gì mà lên tiếng? Trần văn Giàu nói được mà Lý Chánh Trung không nói được. Lý Chánh Trung thấy hố sợ đến phải viết thư cho Nguyễn Văn Linh; ông này phải trấn an họ Lý. Mẹ kiếp, cái đảng Mác-Lênin của chúng tôi thì chúng tôi biết chứ. Hay dở ra sao, chúng tôi biết hơn anh. Anh là người ngoài Đảng, việc gì đến anh mà xía vô.
Ngoài và trong là định giá sinh mệnh chính trị của một người cộng sản! Chúng ta cần biết điều đó.
Trả lời của Lý Chánh Trung như trên, rõ ràng lực lượng thứ ba không phải là con đường đi tới một xã hội “không cộng sản” như Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung chủ trương lúc ban đầu.
Cuối cùng, phải hiểu lực lượng thứ ba, chính là một con bài của cộng sản. Ai là lực lượng thứ ba?
Chính là những người đã đi theo cộng sản. Vì thế, Lý Chánh Trung mới không ngượng miệng mà nói rằng: người ta không thể yêu nước đồng thời không yêu chủ nghĩa xã hội.
Nhưng sự xếp loại máy móc như thế, nhất là sau 1975, có thể là một xếp loại “ác ý” nhằm thu phục nhân tâm, đánh bóng cho chế độ ngoài ý muốn của một số người. Rất có thể là trường hợp của những Phạm Hoàng Hộ (Ủy viên Trung ương Mặt trận tổ quốc), Chu Phạm Ngọc Sơn (Ủy viên TƯMTTQ, Phạm Biểu Tâm (UVTƯMTTQ), hoặc Lê Văn Thới, Châu Tâm Luân, v.v..
Vì thế, lập luận của Lý Chánh Trung chỉ đúng một phần. Điều rõ rệt là sau này các ông Phạm Biểu Tâm, Phạm Hoàng Hộ, Châu Tâm Luân đều tìm cách ra nước ngoài. Trong một hoàn cảnh cực đoan không thể làm khác, họ đã bị cộng sản cho vào danh sách có thể ngoài ý muốn của họ mà họ không đủ năng lực để từ chối.
Nhưng dù là tự phát lúc đầu thì dần dần, họ cũng tập trung thành khối như lực lượng của khối Ấn Quang, hoặc chung quanh một vài tờ báo như Đối Diện, báo Đại Dân Tộc, hay trong một khối dân biểu ở Hạ Nghị Viện, hoặc dưới trướng của Dương Văn Minh. Sau này, lực lượng thứ ba hoạt động mạnh được nhiều thành phần dân biểu, trí thức tựa cùng tựa vào Dương Văn Minh.
Việc chấp nhận để cho ông Dương Văn Minh quay trở về nước là một sai lầm lớn của ông Nguyễn Văn Thiệu.
Cũng có một phần, thực lực của cái gọi là Lực lượng thứ ba đã được thổi phồng lên mà thực chất nó không mạnh như người ta tưởng. Có nghĩa có tiếng mà không có miếng. Vì không có tư cách ở trong nên vẫn không được dùng mà chỉ để làm cảnh.
Chẳng hạn, nhóm lực lượng thứ ba nổi đình đám nhất nằm ở Hạ viện độ 20 người như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Dương Văn Ba, Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Văn Minh, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Công Hoan, Phan Thiệp, Nguyễn Hữu Thời, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân Dũng, Lê Đình Duyên, Nguyễn Phúc Liên Bảo. Trưởng khối là dân biểu Trần văn Tuyên. Ngay Ls Trần Văn Tuyên, tuy ở tư thế đối lập với chính quyền miền Nam sau này cũng đi tù và chết ở trong tù.
Lẻ tẻ như nhóm Chân Tín-Nguyễn Ngọc Lan trên tờ Đối Diện.
Hoặc nhóm Lý Chánh Trung, nhóm Ngô Bá Thành, ni sư Huỳnh Liên.
Ngoài những nhóm trên có ba phong trào chống đối chính quyền Nguyễn Văn Thiệu mà nhiều người tưởng lầm cũng là lực lượng thứ ba.
Đó là nhóm “ngày ký giả đi ăn mày” phần đông là những ký giả chuyên nghiệp. Hoặc vụ kiện ra tòa của nhật báo báo Sóng Thần và nhất là Phong trào Nhân dân chống tham nhũng của Lm Trần Hữu Thanh.
Xin nói ngay, cả ba lực lượng này cùng hỗ trợ và thống nhất hành động. Nhưng cả ba lực lượng này không có liên hệ trực tiếp xa gần gì đến Lực lượng thứ ba như các nhóm vừa nêu trên.
Nhóm Ngày Ký giả đi ăn mày diễn hành trên đường phố Sài Gòn ngày 10-10-1974. Danh xưng này do nhà báo Lê Thiệp ngẫu hứng đặt ra và được mọi người đồng ý. Có sự tham dự của ba hội đoàn ký giả tham dự như Nguyễn Kiên Giang, Tô Văn hoặc ký gỉa lão thành như Trần Tấn Quốc, Tam Mộc, Tam Lang trong ngày ký giả đi ăn mày.
Mục đích buổi xuống đường là phản đối chính quyền bóp nghẹt tự do báo chí với luật 007. Khởi đầu, báo Hòa Bình của Lm Trần Du tự đóng cửa 31-8-1974 vì bị tịch thu liên tiếp. Tiếp theo, sự lên tiếng của Trung tâm Văn bút ngày 1-9-1974. Sau đó là lời công bố của Khối Dân tộc xã hội do Ls Trần văn Tuyên, trưởng khối ra tuyên cáo.
Vụ kiện của báo Sóng Thần với nhà báo Uyên Thao, Trùng Dương gây sôi nổi và rầm rộ hơn cả với sự tham gia của rất nhiều nhân sĩ, trí thức, và giới luật sư. Có 205 luật sư có trong danh sách đứng ra biện hộ cho báo Sóng Thần.
Họ gọi đây là Ngày công lý và báo chí thọ nạn 31-10-1974. Đã có rất nhiều tuyên ngôn, kháng thư của nhiều thành phần trong dân chúng như Nghiệp Đoàn ký giả, luật sư, các chủ báo.
Và đặc biệt Phong trào nhân dân chống tham nhũng do linh mục Trần Hữu Thanh làm chủ tịch, chống Nguyễn văn Thiệu vào năm 1974 nhằm cứu nguy dân tộc.
(Ghi chú thêm. Lm Trần Hữu Thanh là một trong số khoảng 700 Lm di cư từ miền Bắc vào miền Nam thường có khuynh hướng ủng hộ các chính quyền miền Nam. Năm 2006, tôi có đến thăm Lm Thanh, bị giam lỏng tại Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội để hỏi cho rõ về vụ chính quyền Hà Nội bắt giữ ông, sau bữa ăn tối ở nhà gs Nguyễn Văn Trung về.
Được biết có hai xe Honda đi kèm xe cyclo chở Lm Thanh từ đường Duy Tân và thế là ông bị bắt giữa đường đi mất. Đó là một lối bắt giữ người quen thuộc của cộng sản. Đã có nhiều nghi ngờ không chính đáng về việc bắt giữ này.
Nhưng Lm Trần Hữu Thanh lúc bấy giờ cũng hơi lẫn nên chẳng giúp gì tôi, chỉ vắn tắt vài câu thăm hỏi, rồi tôi phải vội vã ra về, vì có nhiều thanh niên chung quanh ông mà tôi không hiểu họ là ai?)
Từ một Lm vốn chỉ quen dạy học, ông trở thành một lãnh tụ tranh đấu. Tiếng đồn khi ssod ông được coi là “cha già dân tộc” [Lm Trần Hữu Thanh sinh năm 1915, năm 1974 ông được 59 tuổi. — DCVOnline], chống đối kịch liệt chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bằng cách đưa ra ba bảo cáo trạng lễ tội tham nhũng của ông Nguyễn Văn Thiệu. Phong trào đã thu hút được hơn 300 linh mục đồng ký tên cùng nhiều đoàn thể chính trị khác.
Về phần tài liệu, tôi tự hỏi làm thế nào, Lm Trần Hữu Thanh có tài liệu phúc phê phán mạnh mẽ ông Thiệu tên Broqueto và đem in và phân phối trong nội bộ với các Lm khác mà sau đó, không ai biết tác giả Broqueto là ai và chính Lm Thanh nhìn nhận không có linh mục nào tên Broqueto cả. Thật hay giả?
Rồi phúc trình của Lm Piero Gheddo gửi Quốc Vụ Khanh tòa thánh cũng được tung ra.
Cuốn “Catholiques et bouddhistes au Vietnam — Les Feux de l’histoire” (Cattolici e buddhisti nel Vietnam) của Piero Gheddo do Adèle Lerouge dịch sang tiếng Pháp, nxb Alsatia phát hành năm 1970. Dĩ nhiên ở thời điểm này không thể có một bản phúc trình nào về nền Đệ Nhị Cộng Hòa của Việt Nam.
Việc tìm hiểu nguồn tài liệu cũng như ai là người cung cấp cho Lm Trần Viết Thanh là điều không dễ. Chính dân biểu Dương Minh Kính, một người thân cận của Lm Thanh từng quả quyết với tôi là ông không hề gặp bất cứ người Mỹ nào giao tiếp với cha Thanh. Lời quả quyết ấy không đủ thuyết phục, vì có nhiều cách liên lạc mà các người thân tín của cha Thanh cũng không thể biết được.
Vì thế về phần tài liệu của nhóm Lm Trần Hữu Thanh có nhiều điểm bất minh.
Nhưng theo quan điểm của J.C. Pomonti, phòng trào nhân dân chống tham nhũng là lá bài cuối cùng CIA của Mỹ chơi ở Việt Nam mượn thế lực lượng thứ ba để loại trừ Nguyễn Văn Thiệu mà không xong.
Pomonti viết:
“Nói cách khác, lực lượng thứ ba sẵn sàng chơi ván bài người Mỹ chống lại cộng sản. Và lý do cuối cùng cắt nghĩa tại sao một số người Việt Nam tin tưởng rằng Thiệu không còn là lá bài cuối cùng của người Mỹ ở Nam Việt Nam. Cái lá bài cuối cùng là lực lượng thứ ba, Và lá bài này, người Mỹ chắc chắn người Mỹ đã đem ra chơi mà hẳn là xem ra đã quá trễ.”
(J.C. Pomonti, La rage d’être Vietnamien, Seuil 1974, trang 241. Trích lại trong Alain Ruscio, Ibid, trang 179).
“Một số người Việt Nam” trong đoạn trên của Pomonti ám chỉ nhóm Lm Thanh.
Cũng cùng quan điểm với Pomonti, Frank Snepp xác nhận những người trách nhiệm của lãnh đạo Mỹ vào tháng 8-1974 đã nghĩ tới giải pháp khai trừ Thiệu. Alain Ruscio trích lời F. Snepp trích dẫn một phúc trình của CIA từ Sài gòn gửi đi như sau:
“Nếu Thiệu tiếp tục điều khiển guồng máy chính quyền bằng cách dựa vào một số thành phần tham nhũng và bất tài, thật là rất khó cho miền Nam Việt Nam có thể chiến đấu chống cộng sản, dù là ở phạm vi quân sự hay chính trị.”
(Alain Ruscio, ibid, trang 179)
Nghĩ tới đây, tôi liên tưởng đến lá bài Phật giáo trong thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa và may mắn lá bài lực lượng thứ ba của Lm Trần Hữu Thanh xem ra đã quá trễ nhờ đó cứu được sinh mạng Nguyễn Văn Thiệu.
Và hiểu như thế rồi mới cắt nghĩa được đáng lẽ Lm Trần Hữu Thanh phải có công với cách mạng vì chống Thiệu?
Vậy mà sau 1975, ông bị bắt khi từ nhà Nguyễn Văn Trung đi cyclo về nhà dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Sau đó bị đưa đi an trí, quản thúc tại dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội.
Sau này, Lm Trần Hữu Thanh đi tù là phải, vì làm việc dưới sự giúp đỡ gián tiếp của CIA cung cấp tài liệu. Nạn nhân quan trọng hơn cả có lẽ là dân biểu Đặng Văn Tiếp trong vụ án Bùi Đình Thi làm ăng ten trong trại cải tạo. Anh Tiếp bị đánh đập đến chết trong trại tù Thanh Cầm, sau khi vượt ngục bị bắt lại. (Xem Nguyễn Hữu Lễ, Tôi phải sống, Mạng người thứ nhất, 2003 trang 417)
Trong tổ chức của Phong trào chống tham nhũng của Lm Trần Hữu Thanh toàn là những dân biểu quốc gia chống cộng như các ông Nguyễn Văn Binh, Đặng Văn Tiếp, Đỗ Sinh Tứ, Nguyễn Đức Cung, Nguyễn Tuấn Anh, Vũ Công Minh, Nguyễn Trọng Nho, Nguyễn Văn Cử và một dân biểu đi sát với Lm Trần Hữu Thanh, ông Dương Minh Kính.
Không có một ai thuộc lực lượng thứ ba trong số các dân biểu đối lập ngả theo cộng sản như Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức có mặt trong Phong trào chống tham nhũng của Lm Trần Hữu Thanh.
Vấn đề tranh cãi giữa hai nhân vật trong lực lượng thứ ba: Lý Chánh Trung và Nguyễn Ngọc Lan
Lý Chánh Trung học ở Bỉ cùng với nhiều người khác như Nguyễn Văn Trung, Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Lâm Ngọc Huỳnh và Trương Bửu Lâm. Tuy nhiên, Lý Chánh Trung khí khái, nếu không nói có cái bề ngoài cao ngạo, khó có thể kết giao với những người trên vì nhiều lý do.
Trong số những bạn bè đồng nghiệp, có thể chỉ có Nguyễn Văn Trung là thân thiết hơn cả. Và nhiều người bên ngoài có thói quen liên kết Trung Nguyễn và Trung Lý làm một cặp như đồng chí. Đúng mà không đúng. Đó là một nhận xét có phần hời hợt.
Cùng lắm, họ chỉ có liên hệ chặt chẽ trong quan hệ làm việc đoản kỳ như khi làm báo Sống Đạo và sau này tờ Hành Trình. Ngoài ra không là thứ bạn bè ăn nhậu, hoặc có lôi kéo thêm các bà vợ vào.
Nguyễn Ngọc Lan, học ở Sorbone, về nước sau Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung. Khi ông Lan cầm bút thì cả hai người trên đã thành danh, có thế giá vững vàng ở Saigon rồi.
Khi Nguyễn Văn Trung ra tờ Hành Trình thì Nguyễn Ngọc Lan có viết vài bài “Những kẻ sợ Hòa Bình”, (Số 5). Tiếp theo là bài “Chính trị, tôn giáo hay ảo tưởng”, (Số 9). Bài viết nhằm đả kích nhóm công giáo di cư, qua Lm Hoàng Quỳnh được coi là người công giáo quá khích. Trước tình hình căng thẳng giữa Phật giáo-Công giáo, nhóm Hoàng Quỳnh muốn thiếp lập một Văn Phòng Liên Lạc để phối hợp tổ chức cũng như hành động. Người được mời là Lý Chánh Trung, thuộc nhóm công giáo tiến bộ, nhưng vốn gốc miền Nam. Lý Chánh Trung trở thành lá bài điều hợp, ôn hòa sáng giá giữa khối công giáo cũng như Phật giáo. Lá bài ấy cũng y hệt trường hợp tờ Sống Đạo vốn toàn dân gốc công giáo di cư điều hành. Một lần nữa, họ đề cử Lý Chánh Trung làm chủ bút mà đáng nhẽ người ấy phải là Nguyễn Văn Trung.
Hơn ai hết, Lý Chánh Trung hiểu vai trò của mình. Dù ở đâu, chỗ nào, Lý Chánh Trung cũng trèo cao, lặn sâu, có thế giá..
Nguyễn Ngọc Lan, dù tuổi đời cũng xấp xỉ với hai ông Trung, nhưng đã dại dột đi quá đà, chửi xách mé, diễu cợt ác ý Văn Phòng Liên Lạc. Chửi VPLL là gián tiếp chửi Lý Chánh Trung.
Nguyễn Ngọc Lan vẫn có thói quen viết châm chọc, chơi chữ ác ý không cần thiết và đôi khi rất nặng nề không chấp nhận được. Lấy một tỉ dụ, chức giám mục thường đi kèm với biểu tượng mũ và gậy. Vì bị giám mục Nguyễn Văn Hiền không cho dạy học chi đó. Nguyễn Ngọc Lan đâm thù oán viết: Giám mục “Hiền” mà mất mũ (Bỏ dấu mũ), mất gậy (bỏ chữ I) thì còn lại chữ “Hèn”.
Lý Chánh Trung xung thiên nộ khí, tức điên lên mang Nguyễn Văn Trung – chủ bút- ra dũa, vì cho đăng bài của Nguyễn Ngọc Lan, Trung Lý viết:
“Khi ông cha Lan còn hỉ mũi chưa sạch, moa đã biết phân biệt thế nào là phân biệt “ đạo và đời”. Nếu thực tế là không thể phân biệt được trong hoàn cảnh hiện tại và có lẽ một đời mình. Vấn đề là làm sao cho người công giáo(dù là dân Hố Nai, dân Bùi Phát vv..) có một đường lối chính trị “ thông minh” và “dân tộc” hơn một chút, làm sao cho “Khối công giáo”( có một khối thật sự mặc dầu mặc dầu trong Khối không có ông cha Lan) có thể s’intégrer ( gia nhập. NVL) vào đân tộc. Và sau này, nếu thời cuộc biến đổi, làm sao cho người công giáo đối với trần gian có những phản ứng tích cực mà vẫn giữ được những đòi hỏi thiêng liêng thật sự.”
(Nguyễn Văn Trung, Hồ sơ về tạp chí Hành Trình, 1964-1965, photocopy)
Lý Chánh Trung còn dọa rút lui khỏi Hành Trình và yêu cầu Nguyễn Văn Trung “bỏ luôn số 9” để chuẩn bị kỹ càng hơn. Nhất là để bài Nguyễn Ngọc Lan đi trước bài Lý Chánh Trung là một xúc phạm.
Để trả lời Trung Lý, Trung Nguyễn vẫn giữ nguyên Hành Trình số 9 với bài của Nguyễn Ngọc Lan. Trung Nguyễn còn viết:
“Đừng đứa nào cho ý kiến, việc mình đang làm là quan trọng, để đừng chủ quan và miệt thị ý kiến của đứa khác trong Nhóm. Thái độ của toa đối với cha Lan không thể chấp nhận được, nếu còn là anh em với nhau, nhưng nếu toa làm “Procès d’intention” để tỏ ra khinh miệt Lan, và tố cáo anh ta là gian trá, thì hết! Chỉ có thể đánh nhau hay từ giã, không thể thấy mặt nhau được nữa.”
(Nguyễn Văn Trung, Hồ sơ Hành Trình, 1964-1965, ibid.)
Thư trao đổi giữa đôi bên dài 8 trang. Có thể vì thế mà khi Nguyễn Văn Trung làm tờ Đất Nước năm 1968 với Chủ nhiệm là Nguyễn Văn Trung, Thư từ bài vở là Thế Nguyên. Người đọc không còn thấy cái tên Lý Chánh Trung một lần nào nữa trên tờ Đất Nước.
Ngã rẽ này được đào sâu thêm về những liên kết của Lý Chánh Trung đi với nhóm Liên Trường, rồi từ Liên Trường nối kết với nhóm Dương Văn minh. Và ở vị trí nào, dù ở cánh công giáo Bắc hay ở cánh miền Nam, họ Lý luôn có vai trò nổi bật về sự kín tiếng, khôn khéo và như gió, đổi chiều khi cần.
Họ Lý bộc lộ một cách không dấu diếm những thủ đoạn vặt của nhóm Liên Trường trù dập một số giáo chức gốc Bắc trong các chức vụ lãnh đạo ở Bộ, ở Nha và xuống các tỉnh thành, cài đặt các Hiệu trưởng gốc miền Nam mà nhiều thành phần giáo chức gốc Bắc chịu họa lây về khuynh hướng chia rẽ, kỳ thị Bắc-Nam mà ngay từ thời năm 1954 cũng không lộ diện như thế.
Trong dịp này, tôi có điện thoại hỏi Gs Trần Ngọc Ninh, lúc đó đang làm Tổng Trưởng Giáo dục. Gs Ninh cho biết, khi ông vừa xuống phi trường Tân Sơn Nhất sau khi đi họp Giáo dục ở Thái Lan về thì được biết nhóm miền Nam làm áp lực với Nguyễn Cao Kỳ để lật ông. Giáo sư Ninh kể lại một cách bình thản như thể không lưu tâm gì đến chuyện đó. Ai khác thì có thể, nhưng Gs Ninh thừa danh vọng, sá chi đến chức Bộ trưởng ấy! Bằng chứng là sau 1975, ông không hề dính dáng với chế dộ mới trong bất cứ vai trò gì. Nhân cách kẻ sĩ thật sáng ngời.
Ở vai trò Đổng lý văn Phòng bộ giáo dục, Lý Chánh Trung là người chị trách nhiệm tất cả những sai trái mà Tổng trưởng giáo dục Nguyễn Văn Trường chỉ là người ký sắc lệnh.
Sau này, tôi nghĩ trong đám trí thức du học cùng thời, chẳng ai có thể bì được với sự khôn ngoan, thâm độc của họ Lý.
Mặt khác, thời điểm 1968 cũng là ngã rẽ giữa hai người. Nguyễn Văn Trung vẫn viết và dừng lại ở việc viết. Trung Lý cũng viết cho nhóm đối lập Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận và trực tiếp tham gia vào các hoạt động công khai chống lại chính phủ Sài Gòn. Chẳng những thế, Lý Chánh Trung còn chia tay dứt khoát với đám trí thức Bắc kỳ Công giáo và ngay cả cái đạo mà trước đây ông đã hờ theo.
Thái độ công khai bỏ đạo để chứng tỏ sự trung thành với đảng cộng sản, duy nhất có trường hợp Lý Chánh Trung mà thôi.
Tuy nhiên, có một người không quên và không bao giờ quên sự khinh miệt của Lý Chánh Trung là Nguyễn Ngọc Lan.
Tuy cùng nằm trong Lực lượng thứ ba, cùng tranh đấu xuống đường, cùng đi với các nhân vật cánh tả từ Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, nhóm Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, v.v., đến nhóm sinh viên tranh đấu như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, cùng thờ một “Chúa”, nhưng Nguyễn Ngọc Lan thường xông sáo hơn, chỗ nào cũng có mặt. Nguyễn Ngọc Lan có mặt trong nhóm Ký già đi ăn mày, có mặt với Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên. Nơi nào có Nguyễn Ngọc Lan, nơi đó không thấy Lý Chánh Trung.
Lý Chánh Trung sau này ra vào Dinh Hoa Lan trong khi Nguyễn Ngọc Lan chưa hề héo lánh đến đó. Cái lý thú hơn cả là khi có dịp là Nguyễn Ngọc Lan phạng đến nơi đến chốn người “đồng chí” của mình. Có nhiều điều được coi là nhỏ nhặt cũng bị Nguyễn Ngọc Lan hài tội, nhất là sau 1975.
Trong tập ký 1989-1990, ngày 17-11-1989, Nguyễn Ngọc Lan có ghi câu chuyện của Huỳnh Ngọc Trảng trong đó họ Lý đóng vai chính. Trảng kể có thằng bạn đi xe gắn máy gần cầu Phan Thanh Giản thì bị xe ô tô của ông Lý đụng, hôn ngang hông xe. Đây là câu chuyện:
“Ông chủ xe bước xuống sừng sộ. ‘Sao anh lại chúi mũi vào xe tôi?’ Hắn trả lời: ‘Ai có lỗi thì sẽ có cảnh sát giao thông tới phân xử. Nhưng ông đâm ngang hông xe tôi sao lại bảo tôi chúi mũi vào xe ông được?’
Thế rồi tao bị ông ấy rút thẻ vàng ra dí vào mũi như cầu thủ phạm lỗi trên sân banh mày ạ.
Thẻ vàng gì vậy?
Ông ấy rút thẻ Đại biểu Quốc Hội ra. Kinh quá. May mà khi anh cảnh sát giao thông khi tới xem hiện trường vẫn bảo: ‘phần lỗi là về xe ô tô. Vì yêu cầu công tác, tôi để ông đi ngay, nhưng tôi vẫn làm biên bản.’ Đúng là vẫn có người đáng thương hơn ông cựu trí thức họ Lý.”
(Nguyễn Ngọc Lan, Nhật ký 1989-1990, Tin Paris, trang 148)
Mượn lời Nguyễn Ngọc Trảng, Nguyễn Ngọc Lan tội nghiệp cho Lý Chánh Trung cũng như Sơn Nam. Nguyễn Ngọc Lan viết:
“Nếu tôi có thừa lòng thương hại thì còn đủ thứ người khác đáng thương hơn hai anh miền Nam nịnh thuộc loại tiêu biểu.”
Và sau đây là tóm tắt buổi gặp gỡ trong 30 phút giữa Lý Chánh Trung và người của cha Chân Tín, ngày 17-7-1990, tại 43 Nguyễn Thông. Một phụ nữ xin gặp Lý Chán Trung để xin giới thiệu đi gặp Chân Tín đang bị quản thúc. Buổi gặp diễn ra tại Văn phòng của Lý Chánh Trung.
Đây là câu trả lời của Lý Chánh Trung:
“Cô là gì của ông? Mà thôi thăm viếng làm gì? Để ổng ở ngoài cho yên, tụi tôi mệt lắm rồi, tôi chán cha cố lắm rồi, thăm viếng không tốt đâu, thôi tôi khuyên em đừng đi. (…) Theo tôi em ra thăm viếng làm gì? Ông có công với nhà nước cũng lớn lắm chứ. Nhà nước đưa ông ra đó là dòng của mấy ông đó chứ có tù đầy gì? Nhà nước có chiếu cố cho ổng rồi. Tôi có đọc các tài liệu của ổng, ổng nói quá mà… theo ý tôi không nên đi tốt hơn, ổng không đói đâu, có dòng của mấy ổng lo cho nhau đủ rồi. (…) Tôi chán cái giáo hội này lắm rồi, nói thật với em, tôi chán từ năm 1960 đến nay. Tôi bây giờ không thích chơi vói ai có đạo hết.”
(Nguyễn Ngọc Lan, Nhật ký 1990-1991, trang 58-59.)
Đọc mấy đọan đối thoại này, có cảm tưởng Lý Chánh Trung nói với tư cách đại diện chính thức của chính quyền cộng sản qua hai câu, “Tụi tôi mệt lắm rồi”. Và chán đạo?
Sau đây là lời bình của Nguyễn Ngọc Lan:
“Mấy trang cô A nào đó ghi lại buổi yết kiến ngài Lý Chánh Trung cũng là một chuyện như đùa khác. Họ Lý quen say sưa với vai trò quan trọng của mình quá đến nỗi bị một cô bé hỏi kiểu giỡn mặt như thế mà vẫn cứ trịnh trọng trả lời. (..) Nhưng phải nói là đáng tởm cái giọng lải nhải mãi, ‘Tôi chán cái Giáo Hội này lắm rồi, nói thật với em, tôi chán từ năm 60 đến nay. Tôi bây giờ không thích chơi với ai có đạo hết.’”
Nguyễn Ngọc Lan viết thư Lm Chân Tín:
“Ở Việt Nam này có ai đã nhờ danh nghĩa công giáo mà leo lên trong xã hội bằng họ Lý? Đi du học là nhờ cha cố, nếu con không lầm. Bắt đầu “sự nghiệp” là dưới trướng Ngô Đình Diệm. 1965 khi con về nước, con đã phải bực bội vì cái trò những bản “Nhận định” với cái danh nghĩa là “văn phòng” ấm ớ gì đó cạnh Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn với ba chữ ký: Lý Chánh Trung, Võ Long Triều, Nguyễn Quang Lãm.
Nguyễn Cao Kỳ lên ngôi, Võ Long Triều làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên, Lý Chánh Trung trở thành Đổng lý văn phòng Bộ Giáo dục. Cái Văn phòng ấm ớ kia chỉ là một trò lợi dụng tôn giáo, Giáo Hội để lót đường hoạn lộ. Vậy mà ngày nay họ Lý trâng tráo nói: “chán từ năm 1960 đến nay.”
(Nguyễn Ngọc Lan, Nhật ký 1990-1991, trang 68)
Và đây là một đòn độc mà tôi nghĩ chỉ Nguyễn Ngọc Lan mới viết được!
“Sau 75, ở Văn Khoa ai cũng biết: họ Lý vội vàng tuyên bố: ông ta kính trọng Yêsu, nhưng chỉ coi Yêsu như … Socrate, Khổng Tử, v.v.. Thế nhưng có dịp là Nhà nước lại đưa cái chậu kiển họ Lý ra như là thành phần trí thức… công giáo cơ đấy. Ông ta chẳng những không bao giờ cải chính mà còn nhận làm chức sắc của Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo Yêu nước và cho đến giờ chưa bao giờ từ nhiệm. Con thì trước 75 đã từng viết mực đen giấy trắng dành chữ “Salaud” (theo nghĩa J.P Sartre hay dùng) cho họ Lý và cho đến bây giờ chưa hề thấy cần phải đổi lại. Chỉ xin Chúa tha thứ cho con.”
(Nguyễn Ngọc Lan, ibid., trang 68)
Xin được giải thích thuật ngữ salaud theo Sartre. Trong vở kịch Les mains sales (Những bàn tay bẩn), Sartre muốn khai triến cái thái độ người trí thức ngụy tín – mauvaise foi- đứng ngoài mà tưởng rằng mình có bàn tay sạch. Đó là sự ngụy tín vì quên rằng con người luôn luôn ở trong một hoàn cảnh bắt buộc phải lựa chọn. Kẻ salaud chỉ cúi khom mình vào cái tự nội, l’en soi, của mình, dày đặc tối om. Nói tóm lại coi mình quan trọng trong khi hiện hữu của người khác là hiện hữu thừa. Kẻ salaud không thể nhìn thấy cái người khác (le Pour-soi) đang hình thành, mở ra..
Theo thuật ngữ của Sartre, ôngkhinh bỉ loại trí thức trên và dành danh từ Salaud để gọi họ. Tôi nghĩ, Lý Chánh Trung đọc đoạn này chắc đau lắm!
Trong bài trích dẫn báo Tuổi trẻ chúa nhật 13-11-1988, Nguyễn Ngọc Lan đã dùng đề tài học triết học Marx này cho thấy cái hèn và gian ngoan của Lý Chánh Trung về việc học Triết học Mác-Lênin.
Thoạt đầu, ông Lý thú nhận khi còn sinh viên, ông ta tìm sách của Marx-Lenin say sưa đọc và tham luận cả đêm với nhau. 10 năm sau, ông thú nhận, đây là môn học không ai muốn dạy, không ai muốn học. Ông cũng thú nhận,
“Cảm tưởng của chúng tôi sau 18 tháng học tập không được phấn khởi lắm và đúng là không có gì thú vị lắm, bởi vì học như học Kinh Thánh.”
Sau đó, Lý Chánh Trung đề nghị cho học triết học của phương Tây và phương Đông, qua đó mà đối chiếu (…) để thấy cái ưu việt của Triết học Mác-Lênin, có như vậy học mới lý thú chứ còn bây giờ cứ học 6 cặp phạm trù, rồi cái gì đó, thật đúng như tụng kinh thánh. Lại so sánh gỡ gạc, nhưng lần này ông như buột miệng phải tự chỉnh . “ Ngay cả học kinh thánh có khi còn vui hơn nhiều.”
(Nguyễn Ngọc Lan, Nhật ký 1988, ibid.)
Trong đoạn văn trên Nguyễn Ngọc Lan cho rằng Lý Chánh Trung vừa hèn, vừa gian xảo lộ tất cả bản chất của ông.
Còn một chuyện nữa mà tôi chắc hẳn do một học trò của Lý Chánh Trung tiết lộ cho Nguyễn Ngọc Lan. Ông Lý có viết một cours, “Bạo động và lịch sử”.
Vào lớp, ông chỉ ngồi đọc chậm rãi từ đầu đến cuối giờ như đọc chính tả, chậm rãi cho sinh viên kịp ghi chép. Thỉnh thoảng ngưng lại nhíu mày, làm bộ tịch suy tư như đóng kịch mà mục đích là câu giờ. Hết giờ đứng dậy, trịnh trọng, chậm rãi như thể tiếc nuối một bài diễn văn đọc dang dở.
Nguyễn Ngọc Lan phán, “nếu dạy mà chỉ đọc như thế thì sao không thu băng, rồi để phát cho sinh viên mà không cần đến lớp?”
Rõ ràng là hơn ai hết Nguyễn Ngọc Lan nắm được tẩy sất của Lý Chánh Trung! Đúng là cả hai đều là những đối thủ đồng sức!
© 2017 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net
Nguồn: DCVOnline biên tập và minh hoạ.
TỪ GỐC TỚI NGỌN
Mọi điều từ gốc mà ra
Gốc như không thẳng ngọn mà thẳng sao
Chỉ do ông Mác tào lao
Nên thành mọi sự nháo nhào về sau
Ngày xưa ai cũng biết rồi
Miền Nam có nhóm học đòi chơi sang
Qua du học Bỉ học đàng hoàng
Nhưng về đem cả Mác kia cùng về
Đó là nhóm đạo Catô
Hai “Trung” Nguyễn, Lý còn thêm “Toàn” Trần
Nói toàn “biện chứng” rần rần
Dậy mùi khuynh tả sặc màu Mác Lê
Từ đây thế sự não nề
Nhiều người nhảy núi “phe ta” bộn bàng
Về sau lại Nguyễn Ngọc Lan
Một tay khét tiếng mơ màng ai hơn
Nó làm khởi điểm nguồn cơn
Sau này men dậy Thành phần thứ ba
Thật ra thảy chỉ “phe ta”
Bảy lăm phấn khởi nhảy ra rầm trời
Nhưng rồi kết quả rã rời
Dần dần dẹp thảy bởi toàn ngoại vi
Bởi đâu có hiểu những gì
Thế nào “mác xít” nhiều khi buồn cười
Bây giờ mọi sự qua rồi
Chỉ vì ông Mác một thời vậy thôi
Ông toàn ngụy biện tột trời
Thành ai lớ ngớ thế nào cũng theo
Thế nên khuynh tả vèo vèo
Cuối cùng mới biết thế nào là hay
Bay giờ hẳn thảy cùi đày
Còn chi đâu nữa tháng ngày véo von
Bởi vì nói Mác Lênin
Cần trong tổ chức niềm tin từ đầu
Các anh khuynh tả rào rào
Khác nào vát mía để hầu voi ăn
Nay thì thử nghiệm đều xong
Cả trên thế giới đã hằng bỏ đi
Nên thôi còn giữ làm gì
Anh em ngồi lại trong nhà với nhau
Nhằm cùng thành thật trước sau
Để sao hàn gắn bao ngày đã qua
Đặng mà chỉnh lại quốc gia
Vốn là truyền thống dân mình ngàn năm
Còn hai ông Mác Lênin
Xê Da trả lại những gì Xê Da
Lớp xưa đã chết hết rồi
Làm sao lớp mới không toàn tự do
Lý đâu ôm mãi Bác Hồ
Mà nên để Bác tự mình đi xa
Một đời Bác đã bôn ba
Bây giờ Bác phải thảnh thơi tự mình
Tại sao phải mãi lình xình
Trùm chăn Bác lại hỏi mình ra chi
Bởi giờ Mác cũng huề rồi
Dân ta ngồi lại để cùng đi lên
Phải dùng khoa học làm nền
Tư duy độc lập khách quan trên đời
Bỏ đi Mác chỉ hoang đường
Độc tài vô sản mãi còn ra chi
Nên cần quá khứ quên đi
Lý sao ôm mãi có gì mà hay
Tương lai sẽ chỉ cùi đày
Nếu toàn quá khứ ôm vào chẳng buông
Ngày xưa quả đã buông tuồng
Mà ai hiểu Mác ngọn nguồn ra sao
Nực cười như kiểu Lữ Phương
Bảo toàn hiểu Mác chỉ mình chứ ai
Đúng là cả đám khôi hài
Nó làm toàn hố Thành phần thứ ba
Chỉ thành một thứ ba hoa
Vườn hoang múa gậy có ra điều gì
Nói chung nào có khác chi
Đời nào tốt xấu cũng thì đấu nhau
Cái ngu cái sáng tranh tài
Chỉ hoài như vậy dễ đâu khác nào
Bây giờ cũng cứ như xưa
Cũng hai mặt trận diễn tuồng như nhau
Tức đều đối lập trước sau
Giữa điều tích cực với điều u mê
PHƯƠNG NGÀN
(12/9/17)
Xin đọc “Qua du học Bỉ đàng hoàng”