Bia Mộ – Chương 3 (1)

Trưng Vương

mao

Chương 3 – Phong trào chống cất giấu lương thực tanh mùi máu

Việc đưa mức chỉ tiêu trưng thu quá cao khiến việc tiến hành trưng thu rất khó khăn. Nông dân không lấy đâu ra lương thực để giao nộp, chính quyền lại cho rằng chính đội sản xuất cố tình che giấu sản lượng hầu cất giấu lương thực.

Để hoàn thành nhiệm vụ, chính quyền triển khai ở các thôn phong trào chống cất giấu lương thực kiểu “2 con đường” với việc dùng áp lực chính trị, giày vò tinh thần cùng bạo lực tàn bạo để moi hết số lương thực còn lại cũng như thóc giống của nông dân. Chỉ cần nông dân có gì bất mãn liền bị đánh, thậm chí là bị đánh chết. Vào ngày 6 tháng 12 năm 1960, bí thư thứ nhất đảng ủy địa khu Tín Dương là Lộ Hiến Văn đã phổ biến kinh nghiệm qua điện thoại điển hình kinh nghiệm của huyện Xác Sơn trong phong trào chống cất giấu lương thực của nông dân.

Hội nghị Công Kê Sơn đưa phong trào chống cất giấu lương thực lên thành cao trào. Vào tháng 3 năm 2001, Lý Thụy Anh 77 tuổi (vợ của Trương Thọ Phiên) đã nói với tôi ký ức của chính bản thân bà trong hội nghị Công Kê Sơn. Năm đó bà là Chủ tịch Hội Phụ nữ địa khu Tín Dương. Vào tháng 6 năm 1959, đảng ủy địa khu phái Lý Thụy Anh dẫn một tổ công tác đi công xã Công Kê Sơn để phổ biến kinh nghiệm trồng lúa nước với sản lượng 1 vạn cân/mẫu, đây là thí điểm của bí thư huyện ủy Tín Dương lúc đó là Từ Quốc Lương. Lý Thụy Anh ở lại đó một tháng, nhận thấy đó là điều giả trá, nông dân ở đây đều đang chịu đói. Cô không viết báo cáo tổng kết kinh nghiệm, mà dùng danh nghĩa tổ công tác để viết báo cáo cho bí thư đảng ủy địa khu là Lộ Hiến Văn, yêu cầu cung cấp cho công xã này 21 vạn cân lương thực (105 tấn). Lộ Hiến Văn không những không cấp lương, còn chụp cái mũ phái hữu lên đầu Lý Thụy Anh, lại phái phó thư ký trưởng Vương Bỉnh Lâm đi. Vương Bỉnh Lâm tới công xã Công Kê Sơn cũng thấy các xã viên đang chịu đói nên khi quay về cũng nói sự thật với Lộ Hiến Văn. Lộ Hiến Văn nói: “Vương Bỉnh Lâm cũng dao động không giữ vững lập trường rồi.”

Nạn đói năm 1960 - Bước Đại Nhảy Vọt của Mao Trạch Đông Nguồn ảnh: Ziling.com
Nạn đói năm 1960 – Bước Đại Nhảy Vọt của Mao Trạch Đông
Nguồn ảnh: Ziling.com

Vương Bỉnh Lâm sợ bị chụp mũ thành phần phản động phái hữu, liền làm theo ý của Lộ Hiến Văn, ở công xã Công Kê Sơn liền tổ chức một buổi mít tinh biểu dương kết quả “chống cất giấu lương thực dư thừa”, trên mít tinh có bày ra những lương thực cất giấu được tìm ra. Trong những cái phoi đựng thóc này, chỉ có một lớp mỏng trên cùng là thóc, còn ở dưới toàn là vỏ trấu. Ở mít tinh Kê Công Sơn, đảng ủy địa khu đề ra nhiệm vụ cần phải hoàn thành trưng thu lương thực, các cán bộ phải qua “tam quan”: đối với quần chúng thì phải dân im mồm “hãm quan”, với bên ngoài thì không cho qua lại “nhân khẩu ngoại lưu quan”, với nhà bếp công xã thì ngừng nổi lửa “đình hỏa quan”. Tiếp đó lại tổ chức cho cán bộ tham quan mô hình huyện La Sơn “Bốn tổ chức hoạt động trong phong trào chống cất giấu lương thực” gồm hội cán bộ, hội bần nông, hội thống kê, hội phú nông trung nông. Từ đây về sau, các huyện học tập mô hình, phát triển rầm rộ các hoạt động chống cất giấu lương thực. Trong phong trào này, chỉ cần ai nói không có lương thực liền bị chụp lên đầu các loại mũ “phủ nhận đường lối 3 ngọn cờ hồng” “phủ định phong trào được mùa lớn” “bè lũ phái hữu”, v.v. Sau đó họ bị mang ra đấu tố, phê bình. Người ta còn mang hiện tượng nhà ăn tập thể không thể nổi lửa nói rằng đó là quần chúng uy hiếp cán bộ, đem những đám phụ nữ, trẻ em chết đói nằm ven đường nói đó là “tấn công vào đảng và chính phủ.”

Trong phong trào chống cất giấu lương thực, áp dụng nhiều hình phạt để xử phạt quần chúng và cán bộ bị chụp mũ, riêng huyện Quang Sơn đã có 2241 người bị mang ra đánh đập, trong đó có 105 người bị đánh đến chết, có 526 cán bộ bị miễn chức, ở giai đoạn sau của phong trào thì số người bị đánh chết càng nhiều. Kiều Bội Hoa căn cứ vào những tư liệu liên quan viết “Sự kiện Tín Dương” (chưa đăng) trong đó ghi chép lại sự kiện đẫm máu ở phân đội sản xuất Đại Thụ thuộc công xã Hòe Điếm huyện Quang Sơn:

Cuối tháng 9 năm 1959, xã viên Uông Bình Quý thuộc tiểu đội sản xuất nhỏ Uông Tiểu Loan bị ép buộc phải giao ra một chút lương thực từ nhà, lại bị đánh trọng thương, sau đó do thương tích quá nặng nên 5 ngày sau thì chết. Sau khi Uông chết không lâu, toàn gia đình 4 người tiếp tục chết hết vì đói.

Tháng 10 năm 1959, xã viên La Minh Châu thuộc tiểu đội sản xuất La Loan vì không có lương thực để nộp, liền bị trói lại rồi bị đánh một cách độc ác, lại còn bị dùng nước lạnh tưới lên người đóng băng như ướp cá, sang tới ngày thứ 2 thì chết.

Ngày 13 tháng 10 năm 1959, xã viên Vương Thái Thư thuộc đội sản xuất Trần Loan vì không có lương thực để giao nộp, bị trói lại rồi bị người ta dùng gậy to đánh, 4 ngày sau thì chết, để lại đứa con gái 14 tuổi là Vương Bình Vinh, sau cũng chết vì đói.

Ngày 15 tháng 10 năm 1959, xã viên Trương Chi Vinh thuộc tiểu đội sản xuất Hùng Loan vì không có lương thực để nộp, bị bắt trói lại rồi bị đánh bằng que củi, gậy gỗ cho đến chết, cán bộ của đại đội sản xuất còn dùng que kẹp than bếp nhét gạo, đậu tương vào hậu môn, vừa nhét vừa chửi: “tao phải làm cho lương thực mọc ra từ trên người mày!” Trương chết đi để lại 2 đứa con 8 tuổi và 10 tuổi, sau cũng bị chết đói.

Ngày 19 tháng 10 năm 1959, xã viên Trần Tiểu Gia và con trai là Trần Quý Hậu thuộc tiểu đội sản xuất Trần Loan vì không có lương thực để nộp, bị bắt trói lại rồi bị treo lên xà nhà ăn ở bếp ăn công xã rồi đánh đập dã man, sau đó bị vứt ra ngoài cửa, tưới nước lên người rồi để qua đêm cho chịu lạnh đông cứng người lại, bố con nhà họ Trần nối gót nhau chết trong vòng 7 ngày sau đó, để lại 2 đứa bé về sau cũng bị chết đói.

Ngày 19 tháng 10 năm 1959, tiểu đội trưởng tiểu đội sản xuất Đại Lật Loan là Lưu Thái Lai vì không có lương thực để nộp, bị bắt trói lại rồi bị đánh, 20 ngày sau thì chết.

Ngày 24 tháng 10 năm 1959, xã viên Trịnh Kim Hậu, vợ chồng La Minh Anh thuộc tiểu đội sản xuất Yến Loan trong phong trào chống cất giấu lương thực, lúc bị khám nhà người ta đã lôi ra được 28 đồng bạc liền bị lôi ra đánh đến chết, để lại 3 đứa trẻ không có ai nhìn ngó, sau đó không lâu đề bị chết đói.

Ngày 25 tháng 10 năm 1959, xã viên Trần Ngân Hậu thuộc tiểu đội sản xuất Trần Loan do bị người ta vu vạ trong nhà có tồn trữ lương thực, liền bị bắt lại rồi bị lột hết quần áo, treo lên xà nhà ăn tập thể của công xã rồi bị đánh đập, sau đó tưới nước lạnh lên người, vứt ra ngoài cửa cho đông cứng lại, 2 hôm sau thì chết.

Ngày 8 tháng 11 năm 1959, xã viên Từ Chuyên Chính thuộc tiểu đội sản xuất Hùng Loan vì bị vu cho tội “có lương thực mà không giao lên trên” liền bị bắt trói, treo lên xà nhà rồi bị đánh đập dã man, 6 ngày sau thì chết. Cả nhà Từ, 6 mạng người, sau đó cũng nối gót nhau về với tổ tiên vì chết đói.

Ngày 8 tháng 11 năm 1959, xã viên Chung Hành Giản thuộc tiểu đội sản xuất Yến Loan bị vu cho tội “chống lại lãnh đạo”, bị cán bộ dùng rìu chẻ củi đập chết.

Ngày 10 tháng 11 năm 1959, xã viên Vương Kỳ Quý thuộc tiểu đội sản xuất Hùng Loan, vì không có lương thực để nộp, bị trói lại rồi bị đánh trọng thương, 10 ngày sau thì chết.

Ngày 12 tháng 11 năm 1959, xã viên Từ Lâm Sinh thuộc tiểu đội sản xuất Yến Loan vì không có lương thực để nộp, bị trói lại rồi bị treo lên xà nhà và bị đánh, 2 ngày sau thì chết.

Ngày 13 tháng 11 năm 1959, xã viên Dư Văn Chu thuộc tiểu đội sản xuất Yến Loan vì không có lương thực để nộp, nên họ Dư và con gái mới 15 tuổi là Dư Lai Phượng bị trói lại rồi bị đánh đập dã man, do thương tích quá nặng nên trong vòng 10 ngày cả hai bố con kẻ trước người sau theo nhau đi gặp tổ tiên.

Ngày 13 tháng 11 năm 1959, đội trưởng tiểu đội sản xuất Hùng Loan là Mã Thủ Tường vì không nhường suất cơm cho một đám cán bộ tới chỗ này, liền bị khép vào tội khinh thường cán bộ, liền treo Mã lên xà nhà ở bếp ăn và đánh đập, còn cắt cả tai của Mã, sau đó 6 ngày thì chết.

Ngày 13 tháng 11 năm 1959, xã viên Trương Chi Anh thuộc tiểu đội sản xuất Từ Loan vì không có lương thực để nộp, nên bị đánh đập dã man, sau đó lại bị tưới nước lạnh lên rồi để qua đêm ở ngoài trời, họ Trương chết ngay tại đương trường. Ba đứa con của Trương sau đó cũng chết vì đói.

Ngày 14 tháng 11 năm 1959, xã viên Từ Đức Chi thuộc tiểu đội sản xuất Từ Loan vì không có lương thực để nộp, nên bị trói lại rồi lôi ra nhà ăn và bị đánh đập dã man, 10 ngày sau thì chết.

Ngày 14 tháng 11 năm 1959, xã viên Giản Minh Tú thuộc tiểu đội sản xuất Từ Loan vì không có lương thực để nộp, nên bị trói lại rồi bị dùng cực hình tra khảo, lại bị tưới nước lạnh lên để qua đêm ngoài trời, 10 ngày sau thì chết.

Ngày 15 tháng 11 năm 1959, xã viên Trịnh Trung Lâm thuộc tiểu đội sản xuất Hùng Loan do không có lương thực để nộp, bị đánh bất tỉnh nhân sự tại chỗ, 4 ngày sau thì chết.

Ngày 15 tháng 11 năm 1959, đội trưởng Từ Chí Phát của tiểu đội sản xuất Từ Loan do không tìm được lương thực ở trong thôn để nộp lên trên, bị cán bộ cấp trên dùng thanh củi và gậy đánh trọng thương, 10 ngày sau thì chết.

Ngày 15 tháng 11 năm 1959, xã viên Đồ Đứ Hoài thuộc tiểu đội sản xuất Từ Loan do không có lương thực nộp lên trên, bị đánh trọng thương, 10 ngày sau thì chết.

Ngày 24 tháng 11 năm 1959, xã viên Lý Lương Đức thuôc tiểu đội sản xuất La Loan do không có lương thực nộp lên trên, bị đánh trọng thương liên tục tới 5 lần, chết ngay tại đương trường.

Ngày 09 tháng 12 năm 1959, xã viên Trần Phú Hậu thuôc tiểu đội sản xuất Trần Loan do không có lương thực nộp lên trên, bị trói với dây thừng xuyên vành tai, treo lên xà nhà rồi dùng roi đánh, sau đó xối nước lạnh lên đánh tiếp, sau chết tại đương trường. Sau đó vì ngăn ngừa con trai của Trần la lối bất lợi cho cán bộ, liền vu hại cho anh ta tội giết trâu bò canh nông, bắt trói lại rồi đánh cho đến chết.

Nạn đói năm 1960 - Bước Đại Nhảy Vọt của Mao Trạch Đông Nguồn ảnh: theclubofcompulsivereaders.blogspot.ca
Nạn đói năm 1960 – Bước Đại Nhảy Vọt của Mao Trạch Đông
Nguồn ảnh: theclubofcompulsivereaders.blogspot.ca

Bí thư trong đảng ủy huyện Quang Sơn là Lưu Văn Thải tới công xã Hòe Điếm để chỉ đạo phong trào chống cất giấu lương thực, liên tục đánh đập tra khảo hơn 40 nông dân, đánh chết 4 người. Đám cán bộ chủ chốt công xã huyện Quang Sơn đích thân chỉ đạo phong trào và động thủ đánh người chiếm 93%, Về công xã Hòe Điếm này, một thành viên trong ban bí thư tỉnh ủy Hà Nam là Lý Lập vào ngày 28 tháng 11 năm 1960 khi báo cáo cho Ngô Chi Đoàn đã cung cấp những thông tin tình hình quan trọng, hiện giờ được chép lại như sau:

Công xã nhân dân Hòe Điếm thuộc huyện Quang Sơn trong vụ thu năm 1959 bị thiên tai, sản lượng lương thực bình quân toàn xã là 172 cân/mẫu (86kg), tổng sản lượng là 1191 vạn cân(khoảng 6000 tấn). Đảng ủy công xã báo cáo lên trên là sản lượng 626 cân/mẫu (313kg), tổng sản lượng là 4610 vạn cân thóc (23050 tấn), huyện liền phân phối chỉ tiêu trưng thu là 1200 vạn cân (6000 tấn), vượt qua cả sản lượng thực tế của toàn công xã. Để hoàn thành chỉ tiêu trưng thu mà trên giao xuống, bọn họ đã không từ bất cứ thủ đoạn nào, tiến hành rầm rộ phong trào chống cất giấu lương thực, đem cả khẩu phần ăn từng bữa của nông dân lấy hết, mang vào kho được 1039 vạn cân (5195 tấn). Các bếp ăn tập thể ngừng nổi lửa vì không còn gì để nấu, tình trạng người người chết đói diễn ra liên tục. Lưu Văn Thải và đảng ủy công xã đem số người chết đói do bếp ăn ngừng hoạt động nói rằng đó là do sự tấn công của bọn địa chủ phú hào, thế lực thù địch tấn công vào nhân dân, quy về vấn đề 2 con đường đấu tranh giai cấp, tiếp tục phong trào chống cất giấu lương thực trong 8 tháng liên tục, tạo nên số người chết đói nhiều vô kể.

Toàn công xã vốn có 36691 người với 8027 hộ. Từ tháng 9 năm 1959 tới tháng 6 năm 1960, chết mất 12134 người (trong đó có 7013 năm, 5121 nữ) chiếm 33% dân số. Có 780 hộ gia đình chết sạch không còn người nào, chiếm 9.7% tổng số hộ. Có thông Khương Loan có 45 người thì chết hết 44 người, còn lại một bà lão hơn 60 tuổi thì cũng bị phát điên.

Toàn bộ công xã bên dưới có xã, đại đội, tiểu đội với 1510 cán bộ, đã từng đánh người có 628 người, chiếm 45.1% đội ngũ. Công xã có 3528 người bị đánh (trong đó có 231 cán bộ), bị đánh chết tại chỗ có 558 người, bị đánh trọng thương sau đó mới chết có 636 người, có 141 người tàn phế, bị bức tử có 14 người, có 43 người phải chạy thoát thân đi nơi khác.

Ngoài việc dùng tay đấm, chân đạp, để ngoài trời lạnh hay bỏ đói đến chết, người ta còn dùng nước lạnh rưới lên đầu, giật tóc, cắt tai, dùng kẹp trúc đâm xuyên qua lòng bàn tay, dùng gỗ tùng kẹp răng, điểm thiên đăng, nhét tro vào miệng, đốt đầu vú phụ nữ, nhổ lông ở bộ phận sinh dục, chôn sống… hơn 10 loại cực hình tàn bạo. Còn có chuyện bí thư đảng ủy công xã Giang Mỗ còn đưa 13 đứa trẻ ăn mày đi lạc tới xã chở vào trong núi sâu để cho chúng chết đói.

Nhà bếp công xã phân biệt làm 3 kiểu lò: bếp ăn nhỏ cho bí thư, bếp ăn cỡ trung cho ủy viên, bếp ăn lớn cho cán bộ thường, trong đó bếp nhỏ cho bí thư thì có thịt, cá, trứng, dầu lạc…

Nơi đây việc đánh người đã có lịch sử từ trước. Vào năm 1957 với phong trào chống phái hữu thì nhừng người bị chụp mũ đều không ai thoát khỏi bị đánh đập, trên đầu những người này còn bị đem dao cạo một chữ “hữu”, tập trung những phần tử bị xem là phái hữu lại một chỗ rồi đổ thức ăn thừa dành cho lợn ra máng, bắt phải lấy tay bốc ăn.

Với đa số quần chúng thì rơi vào tuyệt lộ “lên trời thì tuyệt lộ, xuống đất thì không biết đường” không biết bấu víu vào đâu, vợ chồng con cái ly tán, người chết đầy đường. Toàn công xã có 381 người chết đói thì có tới 134 xác chết không nguyên vẹn (Ở đây nói xác chết không nguyên vẹn có nghĩa là xác chết đó được người nhà cắt một phần thịt đem về nhà ăn).

Dưới áp lực chính trị từ trên áp xuống cộng với việc đấu tố tàn nhẫn như thế, việc nói dối, báo cáo giả trở thành một phương pháp sinh tồn của họ. Thành viên ban bí thư huyện ủy huyện Hoàng Xuyên là Túc Thế Lương, phụ trách ủy ban công, nông nghiệp Từ Tùng đi giảng dạy tuyên truyền về xã hội chủ nghĩa ở công xã Tản Pha Tự, bọn họ ban ngày ở dưới đội sản xuất ăn không đủ bữa cơm, ban tối đói quá phải mò về trên công xã ăn thêm bữa nữa, nhưng lại không dám nói dưới đội sản xuất không có lương thực, bếp ăn đã đóng cửa từ lâu.

Bí thư đảng ủy công xã Tản Pha Tự là Mạc Hoài Quang đi xuống cơ sở, sau nửa ngày không có cơm ăn, trở về công xã cũng không dám nói sự thật. Bí thư thứ nhất của đảng ủy công xã là Giả Tân Nguyên nói với tổ công tác của tỉnh ủy sau khi xảy ra sự kiện Tín Dương:

“Vào lúc đó không phải là tôi không biết, trong số đăng ký nghĩa vụ quân sự 200 người vào năm ngoái, số người có thể trọng đạt tiêu chuẩn chỉ chiếm 40%, rồi việc mỗi ngày chết đói một hai trăm người tôi cũng biết, việc đấu tranh tư tưởng bản thân diễn ra kịch liệt, tôi đã 3 lần đi lên huyện phản ánh tình hình, nhưng do lo sợ bản thân bị chụp mũ “phái hữu phản cách mạng” nên khi đi tới cổng trụ sở huyện ủy thì lại quay về. Trở về lại phải tiếp tục phong trào “chống cất giấu lương thực.””

(Còn tiếp)

© 2013 DCVOnline

 

4 Comments on “Bia Mộ – Chương 3 (1)