Về việc ký tên vào lá thư gởi Liên Hiệp Quốc
Trương Nhân Tuấn
Lá thư này(1) có một số điều cần xét lại trước khi ký.
Về hình thức, lá thư gởi: Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, Ban Pháp quyền Liên Hợp Quốc, Uỷ ban 1 của Liên Hợp quốc (Giải trừ quân bị và An ninh Quốc tế) và Tòa án Công lý Quốc tế(2).
Ngoài Tổng thư ký LHQ là ‟cá nhân”, các nơi nhận khác là các định chế quốc tế phụ thuộc LHQ. Theo nội qui của LHQ và các định chế của LHQ, như tòa Án công lý Quốc Tế (CIJ), các nơi đây là những định chế pháp lý được thành hình dưới sự đồng thuận của một số quốc gia. LHQ là một ‟hiệp hội” của các quốc gia. Tòa án CIJ trực thuộc LHQ là nơi giải quyết những mâu thuẫn giữa các quốc gia. Đối tượng của các định chế này là ‟quốc gia” chứ không phải hiệp hội tư nhân (hay cá nhân).
Gởi thư với tư cách ‟tập thể” của một số cá nhân (trong một quốc gia) là không hợp lệ.
Về nội dung: lá thư ‟kêu gọi Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế và chấp nhận đưa tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa ra phân xử tại Tòa án Công lý Quốc tế”.
Có hai điều : 1/ kêu gọi TQ tôn trọng luật pháp quốc tế và 2/ kêu gọi Trung Quốc chấp nhận đưa tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa ra phân xử tại Tòa án Công lý Quốc tế.
Ở điều 1, theo tôi, lá thư này nếu gởi nhà nước VN và nhà nước TQ thì phù hợp. Trước hết các tác giả lá thư chỉ có thể gởi đến các nhà nước liên hệ chứ không thể gởi đến LHQ hay các định chế trực thuộc LHQ. Thứ hai, bằng chứng đầy đủ : Cả hai nhà nước VN và Trung Quốc đều không có phía nào tôn trọng ‟luật quốc tế” mà họ long trọng ký kết, điển hình các công ước về ‟Nhân quyền”.
Dầu vậy, cũng thử đặt giả thuyết các tác giả có tư cách pháp nhân để gởi lên LHQ và các định chế trực thuộc LHQ.
Điều trước hết mà các tác giả cần làm là phải chứng minh phía TQ đã ‟không tôn trọng luật pháp quốc tế”. Họ đã không tôn trọng cái gì? Khi nào? Luật nào?
Việc tiến chiếm Hoàng Sa của VNCH bằng vũ lực là một hành vi xâm lăng. Nhưng phía TQ đã biện minh trước quốc tế rằng hành động đó là « giải phóng một lãnh thổ của TQ bị ngoại bang chiếm đóng ». Việc này « suông tai » là vì phía TQ đã vịn vào các bằng chứng, như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng hay các tuyên bố khác của nhà nước VNDCCH. Nội dung các văn bản này cho thấy VNDCCH nhìn nhận HS (và TS) thuộc chủ quyền của TQ.
Ở đây ta có hai lập trường về chủ quyền : cái nhìn của VNCH và cái nhìn của VNDCCH.
Chỉ đứng dưới lập trường của VNCH ta mới có thể kết luận TQ ‟không tôn trọng luật pháp quốc tế”.
Vấn đề là nhà nước VN hiện nay liên tục với nhà nước VNDCCH ngày xưa. Nhà nước VN hiện nay có nghĩa vụ phải tôn trọng những tuyên bố, những kết ước thuộc phạm vi quốc tế mà nhà nước VNDCCH ngày xưa đã thể hiện, trong đó có các truyên bố của nhà nước này về chủ quyền HS và TS.
Đã từ rất lâu, ít ra 15 năm trước, tôi đã báo động rằng việc lên tiếng đòi chủ quyền HS và TS chỉ hợp lý khi mà nhà nước VN hôm nay kế thừa di sản chính trị của VNCH. Việc này đến nay vẫn chưa thể hiện, mặc dầu đã thấy có những dấu hiệu tích cực qua các việc tôn vinh các tử sĩ VNCH đã hy sinh trong trận HS. Nhưng đây vẫn là hành động riêng rẽ cá nhân chứ chưa phải là chủ trương của quốc gia. Việc kế thừa ‟nhà nước” là công việc của ‟nhà nước” chứ không phải công việc của cá nhân.
Mặt khác, giả sử nhà nước VN hôm nay được nhìn nhận đã ‟kế thừa” di sản VNCH, thì trên phương diện pháp lý (ở HS và TS) vẫn chưa đủ.
Bởi vì nhà nước VN hôm nay là nhà nước liên tục của thực thể chính trị VNDCCH.
Một nhà nước không thể có cùng lúc hai lập trường trái ngược nhau trên một vấn đề thuộc phạm vi quốc tế. Nhà nước VN hôm nay không thể cùng lúc nhìn nhận HS và TS thuộc về TQ (tiếp nối VNDCCH) vừa khẳng định HS và TS thuộc chủ quyền của VN (kế thừa VNCH).
Tức là, muốn khẳng định HS và TS thuộc VN, nhà nước VN hôm nay có một việc cần làm : lựa chọn di sản để kế thừa. Nhưng việc này không dễ.
Nhà nước CHXHCNVN đã có văn bản nhìn nhận sự « liên tục » giữa hai nhà nước VNDCCH và CHXHCNVN. Việc này đã kéo dài gần bốn thập niên. Hôm nay đoạn tuyệt với di sản VNDCCH, sau đó nhìn nhận di sản VNCH, là việc cực kỳ khó khăn, không phải chỉ nói suông mà được.
Điều thứ 2: ‟kêu gọi Trung Quốc chấp nhận đưa tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa ra phân xử tại Tòa án Công lý Quốc tế.”
Điều này cũng nên gởi tới nhà nước VN.
Bởi vì cả hai nhà nước TQ và VN đều không ký tên nhìn nhận hiệu lực bắt buộc của CIJ. Việc nhìn nhận CIJ là điều kiện tiên quyết để hai bên giải quyết tranh chấp HS và TS bằng Tòa án Công lý Quốc tế.
Điều hợp lý là phía VN phải ký trước. Từ đó việc thách thức TQ ra trước Tòa CIJ mới thuyết phục hơn. Mà việc làm này cũng không nằm trong phạm vi thẩm quyền của các tác giả viết lá thư. Đây cá một vấn đề thuộc phạm trù ‟quốc tế”. Chỉ có ‟quốc gia” mới có tư cách pháp nhân để hành sử một vấn đề thuộc phạm trù quốc tế.
Lá thư đã ghi những chi tiết có thể gây ngộ nhận lớn:
‟Tuy nhiên chúng ta không thiếu các biện pháp có thể đưa đến một giải pháp hoà bình cho tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, một trong những biện pháp hòa bình đó là đưa tranh chấp này ra giải quyết tại Tòa án Công lý Quốc tế. Thế nhưng Trung Quốc đã hoàn toàn làm ngơ trước mọi đề xuất theo hướng này. Nếu như Trung Quốc không ngừng khẳng định họ có bằng chứng rất mạnh về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, tại sao họ lại không đồng ý đưa tranh chấp này ra giải quyết tại Tòa án Công lý Quốc tế, tổ chức quốc tế thích hợp nhất để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia?”
Ngộ nhận có thể ở đây là nhà nước VN hiện nay chưa bao giờ thách thức TQ ra trước Tòa án Công lý Quốc tế để giải quyết bất kỳ một tranh chấp lãnh thổ nào. Nói ‟Trung Quốc không đồng ý” là không có căn cứ.
Trong quá khứ TQ đã hai lần từ chối đề nghị của Pháp, năm 1932 và năm 1947, để đưa tranh chấp Hoàng Sa ra trọng tài phân xử. Cả hai lần TQ từ chối.
TQ từ chối đề nghị của Pháp và TQ từ chối đề nghị của VN là hai việc khác xa.
Từ năm 1954 cho đến năm 1975, cả hai miền Nam và Bắc VN đều không được nhìn nhận vào LHQ. Hai thực thể chính trị này không có tư cách pháp nhân để đưa một tranh chấp (quốc tế) ra một tòa án quốc tế (chỉ phân xử những tranh chấp giữa các quốc gia). Các thực thể VNCH và VNDCCH chưa bao giờ là ‟đối tượng” của quốc tế công pháp.
Từ khi CHXHCNVN gia nhập LHQ năm 1977, nhà nước này là một ‟đối tượng” của quốc tế công pháp, có thẩm quyền đề nghị một quốc gia khác giải quyết một tranh chấp bằng trọng tài quốc tế.
Chưa bao giờ nhà nước CHXHCNVN đề nghị với Trung Quốc giải quyết tranh chấp HS, TS và Biển Đông bằng một trọng tài quốc tế.
Các tác giả lá thư viết như thế là không chính xác. ‟Mọi đề xuất theo hướng này” là các đề xuất nào? Các đề nghị của Pháp đã trải gần 70 năm, nếu không nói rõ thì dễ bị hiểu lầm.
Trong khi biến cố 1988, TQ xâm lăng một số đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa của VN, nhà nước CHXHCNVN cũng không làm ‟lớn chuyện” hơn VNCH năm 1974 là yêu cầu triệu tập Hội đồng Bảo an LHQ. Tư cách pháp nhân VNCH lúc đó chỉ là ‟quan sát viên” tại LHQ. Việc yêu cầu triệu tập Hội đồng Bảo an phải nhờ đến Hoa Kỳ. Nước này không chịu thì mình phải ngậm đắng nuốt cay. Trong khi VN vào năm 1988 đã là thành viên của LHQ, có đủ tư cách pháp nhân để triệu tập. Việc không thành công là vì đường lối chính trị của VN lúc đó là ‟tiểu bá”, còn đang chiếm đóng Kampuchia, là cánh tay nối dài của Liên Xô bành trướng ở vùng Đông Nam Á. Cả thế giới vì chống VN nên quay ra ủng hộ TQ. Lỗi trước hết là do mình.
Kết luận
Vấn đề thủ tục, ta có thể ký tên vào một bức thư gởi các định chế quốc tế, khiếu nại các vấn đề thuộc phạm vi quốc tế, như lập luận của lá thư hay không ?
Ta có thể ký tên vào một lá thư gởi các định chế quốc tế bằng những luận cứ mập mờ như thế hay không ?
Vấn đề khác đặt ra, nếu TQ đồng ý giải quyết tranh chấp HS bằng trọng tài quốc tế, VN có cơ may thắng kiện là bao nhiêu phần trăm? Nhà nước VN hôm nay chưa chính thức kế thừa di sản chính trị VNCH. Cũng chưa từ bỏ di sản VNDCCH. Kiện trong tình trạng này hy vọng thắng của VN rất là mong manh.
Ta có thể ký tên để ủng hộ một việc làm có thể xem là phiêu lưu như thế này hay không ?
Phụ lục: đính kèm lý lẽ của Trung Quốc trước Ủy Ban Pháp quyền thuộc Đại Hội đồng LHQ, về vấn đề từ chối sử dụng trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp. Các học giả VN thử xem xét, lý lẽ của TQ có điều gì không ổn ? Nếu không nhận ra điều gì, thủ tục ‟kiện TQ” ra trước Tòa án Quốc tế sẽ rất nhiêu khê.
Điểm 4, nguyên văn như sau :
Fourth, the freedom of states concerned to choose means of peaceful settlement of international disputes must be respected according to law. International law establishes different means, both political and legal, for peaceful settlement of international disputes. Chapter VI of the UN Charter is dedicated to “pacific settlement of disputes”. Article 33 provides for specific means of dispute settlement, including “negotiation, enquiry, mediation, conciliation, arbitration, judicial settlement, resort to regional agencies or arrangements”. Chapter VIII of the Charter is specifically about “regional arrangements to peacefully settle international disputes.” Meanwhile, principles of international rule of law should be observed in choosing means of peaceful settlement. The GA Declaration on Principles of International Law concerning Friendly Relations and Cooperation among States in accordance with the Charter of the UN clearly states that “states shall settle international disputes on the basis of sovereign equality and in accordance with the principle of free choice of means.” Hence, the choice and application of means to settle international disputes should strictly abide by the principle of sovereign equality fully respect the will of states concerned and must not be imposed upon any state.
The Chinese delegation believes that the decision to resort to arbitrary or judicial institutions to settle international disputes should be based on the principles of international rule of law and premised on equality and free will of states concerned. Any action to wilfully refer disputes to arbitrary or judicial institutions in defiance of the will of the states concerned or provisions of international treaties constitutes a violation of the principles of international rule of law and is thus unacceptable to the Chinese government.
Statement by H.E. Ambassador Wang Min On The Rule of Law at the National and International Levels At the 68th Session of the UN General Assembly
Nguồn: Về việc ký tên vào lá thư gởi Liên Hiệp Quốc. Trương Nhân Tuấn. Blog Những Vấn đề Việt Nam, Jan. 13, 2014.
(1) http://boxitvn.blogspot.fr/2014/01/thong-cao-bao-chi-ve-viec-gui-thu-cho.html#more
(2) http://qncbd.wordpress.com/2014/01/11/thu-goi-lien-hop-quoc-nhan-40-nam-trung-quoc-xam-chiem-hoang-sa/
Trích :
“Nhà nước VN hôm nay chưa chính thức kế thừa di sản chính trị VNCH. Cũng chưa từ bỏ di sản VNDCCH. Kiện trong tình trạng này hy vọng thắng của VN rất là mong manh.”
xin thưa : Nếu vẫn giữ cái “di sản VNDCCH” thì “hy vọng thắng của VN” không phải là “mong manh” mà là “No way” !
Tại sao ?
– Bởi vì trong các “di sản” mà VNDCCH để lại cho CHXHCNVN và Trung Quốc là cái “công Hàm 1958” to như cái lăng Ba Đình ! (*)
(*) Nghĩa bóng là : chỉ khi nào cái lăng Ba Đình bị giật xập thì cái công hàm (ô nhục) kia mới có thể bị vô hiệu hóa .
Bản tin sáng nay cho biết là chính phủ Hoa Kỳ đã lên tiếng về “biển đông” và Phi luật Tân thúc dục các nước trong vùng hợp lực đưa thằng Tầu Cộng ra ba tòa LHQ….. thì chúng ta “những người VN yeu nước” cũng nên góp tiếng đề hợp lực mà đòi lại chủ quyền các hải đảo…. vấn đề “hợp pháp” hay không thì để ba tòa quan lớn LHQ họ xét… còn ngồi đó mà “suy với tính” như ông TNTuan thì cũng “chẳng ăn cái giải rút gì”…. Bố cái con khỉ..làm không làm người ta làm thì lại “thọc gậy bánh xe” thật là rõ chán.