Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm (1897-1963): Thời kỳ chưa nắm quyền, 1897-1954 (P2)

Chính Đạo

ndd1933Trong nỗ lực biến hóa Ngô Ðình Diệm thành “lãnh tụ anh minh” đủ sức đương đầu với Hồ Chí Minh—kiểu “ăn Ngô thì no, ăn Hồ thì đói”—cơ quan tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Nam tô chuốt cho Diệm những bảng hiệu như “yêu nước, chống Pháp,” v.v.

II. “Bát Cơm” Bảo Hộ Pháp

Trong nỗ lực biến hóa Ngô Ðình Diệm thành “lãnh tụ anh minh” đủ sức đương đầu với Hồ Chí Minh—kiểu “ăn Ngô thì no, ăn Hồ thì đói”—cơ quan tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Nam tô chuốt cho Diệm những bảng hiệu như “yêu nước, chống Pháp,” v.v.

“Yêu nước” là một nhận xét khó lượng định, vì chỉ mỗi cá nhân mới tự biết rõ mình yêu nước hay không. Có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước, nên khó thể sử dụng một hệ thống lượng giá cố định. Tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó. “Chống Pháp” thì dễ lượng định hơn. Tinh thần chống Pháp của Diệm, hay họ Ngô, chỉ là những triển biến vào khoảng cuối đời, và động lực không hẳn do lòng yêu nước, mà nặng về tôn giáo cùng quyền lợi bản thân hay dòng họ. Diệm xuất thân từ một gia đình trung gian bản xứ Ki-tô, phục vụ Bảo hộ Pháp rất tận tụy.

Khả, cha Diệm, từng lên tới chức chánh thông ngôn tòa Khâm sứ Huế dưới thời Pierre Rheinart des Essarts—người đã đưa con nuôi của nước Pháp là Bửu Lân [vua Thành Thái – DCVOnline] lên ngôi đầu năm 1889—rồi chuyển sang làm thương biện [thông dịch] Viện Cơ Mật. Ngày 10/4/1892 Khả dịch văn thư của Phủ Phụ chính xin Toàn quyền Jean de Lanessan đừng gửi ra Huế những người từng làm nghiêng ngửa triều đình như Trương Vĩnh Ký [tức Petrus Key, 1837-1898], Nguyễn Trọng Tạo, Lê Duy Hinh, hay anh em Diệp Văn Cương, v.v. Khả cũng tham dự chiến dịch đánh phá phong trào kháng Pháp tại Hà Tĩnh-Quảng Bình của Ngự sử Phan Ðình Phùng (1847-1895) trong hai năm 1895-1896. Sau khi hài cốt Ngự sử Phùng trong khu vực kiểm soát của Khả ở tây bắc Quảng Bình bị đào lên nghiệm chứng, đốt thành tro, ném xuống sông Lam “theo [lối trừng phạt] truyền thống,” Khả được đặc cách lên Thái thường tự khanh (Chánh tam phẩm) năm 1896. (15)

15. Xem Chính Ðạo, Hồ Chí Minh (1892-1969), Con người & Huyền thoại, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1993-1997), tập I:161-62; Phụ bản 5, trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, 1883-1945, tập II:602-4. Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược, đã dẫn lời “một đại quan về hưu” để bài bác chi tiết trộn tro than Ngự sử Phùng bắn xuống sông Lam. “Ðại quan về hưu” này chắc không thể biết rõ sự việc bằng Khâm sứ Huế, người viết báo cáo vào tháng 2/1896, hay báo cáo của chính Nguyễn Thân. Ðó là chưa nói đến thói quen chối tội của các phạm nhân chiến tranh [war criminals], hoặc âm mưu ngụy tạo lịch sử để bảo vệ cho thượng cấp và đồng đạo (kiểu “Việt Cộng ném lựu đạn trước đài phát thanh Huế tối ngày 8/5/1963,” “nhân viên an ninh Mỹ ném mìn plastic tối 8/5/1963,” “toàn dân Việt Nam ghi ơn Ngô Tổng thống”). Xem, Vũ Ngự Chiêu, “Vài Ý Nghĩ Về Thượng Tọa Thích Quảng Ðức”; Ði Tới (Montréal, Québec), XII, số 83 (7-9/2005), tr. 40-7; Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 84 (8/2005), tr. 194-206. Ðáng tiếc vì không được huấn luyện về phương pháp nghiên cứu và viết sử, lại không có tư liệu, Trần Trọng Kim khiến tập phổ thông lược sử có nhiều dữ kiện và nhận định lầm lạc.

Nguyễn Thân còn ủy thác Khả đứng ra tổ chức một trường dạy tiếng Pháp và quốc ngữ mới—tức loại tiếng Việt dùng trong việc giảng đạo Ki-tô của Hội truyền giáo—cho vương tôn nhà Nguyễn ở Huế. Thoạt tiên, Khả được đề cử làm Giám đốc trường Quốc Học này, nhưng Toàn quyền Pháp chỉ cho làm Phó Giám đốc, đặc trách nhà cửa, lương bổng và hành chính. Với mục đích Tây hóa vua Thành Thái (1889-1907), viên chức Pháp đưa Khả lên chức Ðề đốc kinh thành, lo bảo vệ và kiểm soát Thành Thái. Khả lập ra một toán thân binh cạo răng trắng, hớt tóc ngắn, mang súng trường, nhưng nhiệm vụ chính yếu—nếu tin được báo cáo của Hiến binh Pháp—chỉ để giúp vua “tổng hợp mọi tật tội Ðông-Tây” lùng sục và bắt cóc gái đẹp quanh kinh thành. Sau khi bị ép về hưu vì chống việc truất phế Thành Thái, dưới chiêu bài phải duy trì ngai vua, Khả được hàm Thượng thư bộ Lễ.(16)

16. Có tài liệu ghi Khả là Chưởng giáo đầu tiên của trường Quốc Học; E. Le Bris, “Le Quoc Hoc”; BAVH (1916), số 1, tr. 80. Ðây có lẽ dựa theo Dụ năm 1896 của Thành Thái, nhưng Toàn quyền Pháp không chấp thuận. Giám đốc trường này là một người Pháp. Về chức “Thượng thư” của Khả, chúng tôi chưa thấy một tài liệu nào. Trong bản dịch một bài thơ nói về chuyến du ngoạn lên núi Ngự Bình [Ecran du Roi] của vua Tự Ðức—“Une ascension sur l’Écran du Roi: Poésie de S. M. Tu Duc, traduite par Ngô Ðình Khả, Ministre honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-27—Khả chỉ ghi “hàm Thượng thư,” [Ministre honoraire] khác xa với Thượng thư thực sự, nói chi “Thượng thư đầu triều.” Trần Lục, hay Père Six ở Phát Diệm, tay chân tín cẩn của Giám mục Puginier, cũng được thưởng hàm Thượng thư và Bắc đẩu Bội tinh.

Khôi, anh cả họ Ngô, bắt đầu “tham chánh” năm 1910, sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ. Khoảng sáu [6] năm đầu, Khôi phục vụ tại văn phòng Bộ Công do cha vợ làm Thượng thư. Sau ngày Bài được thăng Thượng thư Bộ Lại, nhờ tiếp tay Khải Ðịnh (1916-1925) lên ngôi, Khôi đi “ngồi” huyện, phủ, rồi lên tới Bố chính, Tuần vũ, Tổng đốc các tỉnh miền nam Trung Kỳ, tức An Nam.

Phần Diệm, năm 1916-1917 được tập ấm Cửu phẩm, làm việc tại Tân thư viện Huế (tức Musée Khải Ðịnh), nơi đặt trụ sở Hội Bạn của Cố đô Huế. Năm 1918-1919, Diệm vào trường Hậu bổ Huế. Người đỡ đầu có lẽ là Nguyễn Ðình Hòe, một phụ tá cũ của Khả trong chiến dịch truy giết Ngự sử Phùng, lúc đó làm Giám đốc trường Hậu bổ (năm 1921 giữ chức Tổng thư ký Viện Cơ Mật). Thời gian này, triều đình đã bỏ lối thi Hương và thi Hội cũ, và trường Hậu bổ mở thêm phân khoa “pháp chính” [hành chính và luật] của trường Ðại học Hà Nội. Học viên học tại Huế hai năm đầu, và năm thứ ba phải ra Hà Nội. Có lẽ Diệm được chuyển qua chương trình này. Diệm còn có hai bài đăng báo chữ Pháp Bulletin des Amis de Vieux Hué [Ðô thành hiếu cổ].

Tốt nghiệp, nhờ Thượng thư Bài nâng đỡ, năm 1922 Diệm được bổ nhậm ngay. Ðược cấp trên đặc biệt chú ý vì thanh liêm và tinh thần diệt Cộng cao. Năm 1929 [1926?], Diệm lên tới chức quan đầu tỉnh, Quản đạo Ninh Thuận (Phan Rang), rồi Tuần Vũ Bình Thuận (Phan Thiết). Theo một số nhân chứng, khi làm quản đạo Ninh Thuận, ngoài những ngon tra tấn quen thuộc như tra điện, kìm kẹp, Diệm bắt tù nhân Cộng Sản vuốt lạt tre, hay dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn để lấy khẩu cung. Ít nhất bảy [7] trong số 500 nghi can Cộng Sản bị tra tấn đến chết.(17)

17. Lời chứng của Nguyễn Thi, cựu Ủy viên Hành Kháng tỉnh Ninh Thuận, trên báoNhân Dân ngày 16/7/1954, dẫn trong Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, 5 tập (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1964-1978), tập I (1964), tr. 36. Hai tác giả khác ghi là việc Diệm dùng đèn cầy đốt hậu môn tù nhân CS khi làm Tri phủ Hòa Ða; Nguyệt Ðàm và Thần Phong, Chín năm máu lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Ðình Diệm (Sài Gòn: 1964), tr. 18. Theo hai tác giả này, nhân chứng là Cử nhân Nguyễn Trác, cựu Nghị viên trưởng An Nam. Xem thêm, Bùi Nhung, Thối nát (Sài Gòn: 1969); Hoàng Trọng Miên, Ðệ nhất phu nhân (Los Alamitos, CA: 1989), I:128-29. Theo tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ, Diệm tốt nghiệp thủ khoa năm 1921; năm 1929 đã làm quan đầu tỉnh. Khi ở Quảng Trị năm 1930-1931, tri huyện Diệm dùng những thủ đoạn nghiêm khắc để đàn áp, v.v.

[“From 1922 to 1929 he was a district chief in the territorial administration of Annam and during the next four years he served as a province chief. While in Quang Tri province during the 1930-1931 Communist-led insurrections he used drastic methods in repressing agitators and revolutionaries, thus incurring the enmity of left-wing nationalists. In 1932-1933 he headed a commission to investigate charges of corruption in the upper echelons of the Annamese administration;” Ngo Dinh Diem (1957) [p.5]].

Có lẽ vì thế, Giám Mục Thục cả quyết rằng sau này Cộng Sản đã thuê sát thủ ra Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương.(18)

18. Thư ngày 21/8/1944, Thục gửi Decoux; CAOM (Aix), PA 14, c. 2. Thư này do tác giả công bố lần đầu trong Luận án tại Ðại học Wisconsin-Madison năm 1984, rồi trên báo Lên Ðường (Houston) năm 1989; in lại trong Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-A: 1939-1946, tr. 200. Vài cá nhân đặt nghi vấn là Pháp ngụy tạo tài liệu trên. Nghi vấn này do sự thiếu hiểu biết về phương pháp bảo quản tài liệu văn khố (khác với thư viện) Hơn nữa thủ bút và chữ ký của Thục khó thể giả mạo. Tưởng cũng nên ghi thêm rằng một vài cá nhân (như Lê Trọng Văn) đã tự động tẩy xóa bút phê của Decoux cũng như ghi chú của nhân viên văn phòng Toàn quyền và dấu cùng chữ ký thị thực của Văn khố Aix-en Provence Pháp trên phóng ảnh tài liệu trên, in vào sách họ.

Tóm lại, từ Khả xuống Khôi, Thục rồi Diệm, lòng trung thành với Pháp khá vững chắc. Khôi từng nhờ Nhu nói với Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Paul Arnoux ngày 18/8/1944 tại Huế rằng Khôi “xin thề trên thập tự giá” là lúc nào cũng coi Bảo hộ Pháp như “bát cơm” [bol de riz] của họ Ngô. (19)

19. Báo cáo số 1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Sureté gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856.

Ngày 21/8/1944, Giám mục Thục trình lên Toàn quyền Jean Decoux bản tóm lược rõ ràng nhất công lao và lòng trung thành với Bảo hộ Pháp của họ Ngô, và cá nhân Diệm:

Các anh em tôi cũng liên tục dâng hiến mạng sống họ cho nước Pháp trong dịp Cộng Sản nổi loạn. Diệm, em tôi, đã ngã xuống vì những viên đạn súng lục của một người Tàu Chợ Lớn, được gửi tới Phan Rang, nơi Diệm hăng say ngăn chặn sự xâm nhập của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ [Mes frères, eux mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d’un chinois de Cholon, envoyé à cet effet à Phan Rang, où Diệm défendait énergétiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyées de la Cochinchine]. (20)

20. CAOM (Aix), PA 14, c. 2. Xem thêm chú 18 supra.

Dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp “yêu nước, chống Pháp” của Diệm, là cuộc “đảo chính cung đình” ngày 2/5/1933. Ngày này, Toàn quyền Pierre Pasquier (12/1928-1/1934) và Quyền Khâm sứ Léon Thibaudeau (2/1933-7/1934) đột ngột bắt Bài và toàn bộ nội các về hưu. Theo báo Tiếng Dân ở Huế, tin trên chấn động dư luận. Bẽ bàng nhất là chính Bài không hề được báo trước. Và, khi Thibaudeau tuyên bố nội các mới, có Trần Thanh Ðạt thông dịch, một số tân Thượng thư chưa kịp về đến kinh đô.(21)

Nguồn: phamquynh.wordpress.com
Nguồn: phamquynh.wordpress.com

21. Tại hải ngoại, một cựu thẩm phán Cần Lao bịa đặt rằng Bài đã được hỏi ý từ trước, đích thân Phạm Quỳnh thông dịch, và các tân thượng thư đều có mặt. Thói trộm không khéo chùi mép này chứng tỏ sự thiếu lương thiện trí thức của một số người hoài Ngô. Xem thêm Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:1111-145.

Nguyên Pasquier quyết thực hiện một cuộc “đại cải cách” ở An Nam, đánh bóng uy tín vua Nguyễn để làm giảm bớt và điều-kiện-hóa các phong trào quốc gia mới—như cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, và nhất là sự du nhập và phát triển của phong trào Cộng Sản từ giữa thập niên 1920, bùng nổ thành những cuộc bạo động, khủng bố tại các đồn điền miền Nam, cùng phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh trong hai năm 1930-1931. Pasquier và Thibaudeau đoạn tuyệt dần với nhóm hợp tác cựu trào (Nguyễn Hữu Bài, Ki-tô giáo). Nhóm này chủ trương đồng hóa và thống trị theo kế sách của Giám mục Paul Puginier và Louis Caspar—nhằm Ki-tô hóa vua quan rồi khiến toàn thể dân Việt sẽ cải đạo, và vĩnh viễn trở thành “bạn của nước Pháp.” Từ thập niên 1890, nhóm hợp tác cựu trào trở thành một thứ kiêu binh của cái mà Phạm Quỳnh cũng như Bảo Ðại gọi là “một văn phòng phụ thuộc nho nhỏ của Tòa Khâm,” tức triều đình Huế, lúc nào cũng mang công lao của khối giáo dân bản xứ trong việc thiết lập chế độ Bảo hộ (dưới chiêu bài bảo vệ đạo) ra áp lực Pháp.

Ngựa mới của Pasquier là phe tân trào (tiêu biểu bằng Phạm Quỳnh, Bùi Bằng Ðoàn, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt, Lê Dư, v.v.) Phe này chủ trương hợp tác tinh thành, hay Pháp-Việt đề huề. Quan chức Pháp đã chọn phe tân trào, vì chủ trương hợp tác [collaboration] có nhiều triển vọng thành công trước sự lớn mạnh của các phong trào quốc gia mới. Từ thập niên 1920, Pasquier đã chiêu hồi những thành phần chống Pháp như Phan Bội Châu và sử dụng các văn thân từng bị dính líu vào phong trào chống sưu thuế 1908 tại miền Trung. Huỳnh Thúc Kháng, chẳng hạn, được cử làm Chủ tịch Hội đồng Dân biểu Trung Kỳ, và xuất bản tờ Tiếng Dân bằng quốc ngữ mới, với chủ trương “thờ người Pháp để cầu tiến bộ”. Trong khi đó, nhóm hợp tác, nói theo Phạm Quỳnh, tạm thời chấp nhận “tôn quân cũng là yêu nước”, ngưng đòi hỏi thể chế cộng hòa. Ðể làm giảm sự bi phẫn của nhóm cựu trào, Pasquier và Thibaudeau đặc cách Diệm—con nuôi Bài [son fils putatif]—lên làm Thượng thư Bộ Lại. Tuần phủ Bùi Bằng Ðoàn (1890-1955) cũng được đặc cách lên Thượng thư Bộ Hình. Ngày 6/5/1933, năm [5] tân Thượng thư mới có mặt tại Huế nhân dịp gắn huy chương cho Bài và bốn [4] cựu thượng thư. Ngày 17/5, Thibaudeau chủ tọa phiên họp Nội các đầu tiên. Mười ngày sau, 27/5, Pasquier và Bảo Ðại chủ tọa phiên họp tân Nội các. (22)

22. TTLTQG 2 (TP/HCM), RSA/HC, HS 1869; Nam Phong số 184 (5/1933); Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:793, 1111-129. (Ðoàn sau này hợp tác với Hồ Chí Minh).

Một số mật báo viên ghi, và ngay chính Diệm man khai (ngày 24/12/1947 với Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper) rằng “Giệm” là “quan đầu triều Bảo Ðại.”(23) Thực ra, từ tháng 5/1933, Bộ Lại mất đi ảnh hưởng của những năm Bài được kiêm nhiệm chức Tổng lý [Chủ tịch Viện Cơ Mật], và chỉ ngang hàng với các Bộ khác. Người có uy thế nhất là Phạm Quỳnh (1892-1945), Ngự tiền Tổng lý của Bảo Ðại kiêm Thượng thư Giáo dục. Quỳnh không những chỉ chuyển lệnh của Toàn quyền và Khâm sứ Pháp cho Bảo Ðại, mà còn đồng thời dịch, và thiết kế việc thực thi các lệnh trên, cùng báo cáo kết quả lên Khâm sứ.

23. Theo Tổng Lãnh sự Hong kong, Diệm tuyên bố là bạn lâu đời của Bảo Ðại, đã phục vụ như “Tể tướng” những năm cũ, và hai gia đình có liên hệ gần gũi [“Ngo Dinh Giem [Diem] claimed that he was an old friend of Bao Dai, had served as his Prime Minister in former years, and that their families enjoyed close relations.”]; CÐ 450, 30/12/1947, Hongkong gửi BNG; FRUS, 1947, VI:153. Việc tự đánh bóng để “bán mình” [sell yourself] cho Mỹ này không được tài liệu văn khố Pháp chứng minh. Thực tế, Diệm, như đã lược nhắc, chỉ được đặc cách lên hàng Thượng thư Bộ Lại, mà phận sự và quyền lợi đồng đều với bốn bộ khác, và năm 1935, chỉ được Bảo Ðại cho lại chức Thượng thư hàm. Xem chú 28 infra.

Thibaudeau còn cử Diệm làm Tổng Thư ký Ủy ban Cải Cách, và yêu cầu Diệm soạn kế hoạch canh tân Bộ Lại. Diệm, có lẽ do ảnh hưởng Bài, đưa ra hai điều kiện: (1) Phải thống nhất Bắc và Trung Kỳ; bổ nhiệm Tổng Trú sứ (Résident Général) như đã qui định trong Hoà ước 6/6/1884; và, (2) cho Viện Dân biểu quyền thảo luận.(24) Ðề nghị này giống hệt kế hoạch của Bài: Muốn cải cách, việc đầu tiên phải bỏ chức Thống sứ Hà Nội và Khâm sứ Huế (tức tái sát nhập Bắc Kỳ vào An Nam), sau đó cho An Nam ngân sách riêng. Nói cách khác, phải trở lại với Hiệp ước 6/6/1884–đòi hỏi mà Bài đã gieo xuống đầu óc thơ dại của Duy Tân từ năm 1915-1916, đưa đến việc vua bị truất phế rồi đầy qua Réunion cùng cựu hoàng Thành Thái (Bửu Lân) vào cuối năm 1916. Pasquier, dĩ nhiên, không chấp thuận.

24. Báo cáo ngày 10/5/1933, Pasquier gửi Colonies; CAOM [Aix], INF, c.366, d.2905; trích in trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:785-809, 1111-145. Xem Phụ bản báo Tiếng Dân trong sách này.

Ngày 9/7/1933, Diệm ra Quảng Trị ở với cha nuôi ít ngày. Trở lại Huế, ngày 12/7, Diệm nạp cho Thibaudeau một bản sao đơn từ chức đã trình lên Bảo Ðại. Lý do nêu ra là cơ cấu tổ chức hiện tại không phù hợp với Hiệp ước 6/6/1884–Hiệp ước này qui định Pháp chỉ giữ một chế độ bảo hộ kiểm soát (protectorat de contrôle) mà không phải bảo hộ trực tiếp (protectorat direct).(25)
25. Báo cáo số 303-A.P., 22/7/1933, Gougal gửi Colonies; CAOM (Aix), INF, c.366, d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:804-6.

Thibaudeau gọi Bảo Ðại từ Ðà Lạt về Huế giải quyết. Bảo Ðại bảo thẳng Diệm rằngviện dẫn lý do chính trị để từ chức là hành động phản nghịch. Ngày 18/7, Diệmviết lại đơn từ chức khác nêu lý do muốn dành thì giờ cho việc tu hành. Lần này, Diệm được toại ý. Ngày 22/7, Thibaudeau đổi Thái Văn Toản thay Diệm nắm bộ Lại, và đưa Tôn Thất Quảng, Tổng đốc Thanh Hóa, mới lập công lớn trong việc đàn áp đẫm máu tại các tỉnh Bắc An Nam, lên nắm Bộ Công và Nghi Lễ thay Toản.(26)
26. Ibid., III:806-7.

Ngay sau ngày Bài bị cách chức, vài tờ báo Nam Kỳ công khai đả kích Pasquier. Theo Luật sư Lê Văn Kim, những bài đả kích trên từ Huế gửi vào. Tháng 12/1933, Diệm còn vào Sài Gòn gặp Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim, Jacques Lê Văn Ðức v.v. bàn thảo kế hoạch trả thù Pasquier. Tiếp đó, tờ La Tribune indochinoise [Diễn đàn Ðông Dương] và tờ La Lanterne ở Paris mở chiến dịch đòi thay Pasquier bằng cựu Toàn quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) và đưa cựu Khâm sứ Yves Châtel (6/1931-2/1933) trở lại Huế. Biết được tin này, Pasquier truất mọi chức tước của Bài, Diệm và Pierre Nguyễn Ðệ, Bí thư riêng của Bảo Ðại, thuộc một gia đình trung gian bản xứ nổi danh khác ở miền Bắc (Án sát Nguyễn Liên). Diệm còn bị chỉ định cư trú tại Quảng Bình.(27)

27. CAOM (Aix), INF, c.366, d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:808.

May mắn cho Diệm, ngày 15/1/1934, Pasquier chết vì tai nạn máy bay trên không phận Paris. Năm sau, Bài chết tại Quảng Trị. Toàn quyền René Robin (7/1934-1/1937) và Khâm sứ Maurice Graffeuil (7/1934-5/1936, 4/1937-8/1941) phục hồi tước vị hàm [honoraire] cho Bài, Diệm và Ðệ. Diệm được về Huế dạy trường Providence [Thiên hựu] do Linh mục Thục, “anh trai” Diệm, làm Giám học.

Nên ghi thêm cuộc đảo chính cung đình này khiến họ Ngô trút mọi thù oán lên Phạm Quỳnh. Năm 1934, Thục còn chống việc cử hành hôn lễ giữa Bảo Ðại và Nguyễn Hữu Thị Lan, đòi phải thực hiện lễ rửa tội trước; nhưng viên chức Pháp, nhất là cựu Khâm sứ Charles, dàn xếp cho một linh mục Pháp bí mật làm lễ kết hôn. Sau đó, năm 1938, Thục được đặc cách Giám mục Vĩnh Long, một giáo phận nhỏ, tách ra từ tổng giáo phận Sài Gòn. (Trái với sự ngộ nhận của nhiều người, việc thăng chức hay bổ nhiệm các giáo mục Ki-tô không thuần do đạo hạnh và khả năng quyên góp, nhưng đôi khi bị chính trị hóa. Năm 1950, Linh mục John Dooley, người Mỹ gốc Ireland, được đặc cách lên Giám mục để trông coi cuộc thánh chiến chống Cộng của giáo dân Ðông Dương. Năm 1963, TGM Thục vận động để được thăng chức Hồng Y, đưa đến việc bị rút phép thông công [ex-communicated], và rồi chết trong điên loạn tại Mỹ). (28)

Nếu tin được Ngô Ðình Nhu (1910-1963), Khôi thường nói với Diệm rằng sở dĩ người Pháp không ưa Khôi vì “[họ Ngô] quá toàn vẹn,” và “Phạm Quỳnh thì khôn khéo, nên được cả Pháp lẫn Nhật quảng cáo tài năng.” (29) Nhu cũng tung tin Phạm Quỳnh biệt đãi hai con trai Cường Ðể, dù trên thực tế, con Cường Ðể làm việc tại văn khố Tòa Khâm, dưới quyền Nhu. Người Pháp chỉ quay mặt làm ngơ, để vừa đặt gan bàn chân Phạm Quỳnh trên lửa, vừa âm thầm theo dõi anh em họ Ngô đang ngả theo ngọn gió Thịnh Vượng Chung Ðông Á.

Theo an ninh Pháp,

“những phần tử trong họ Ngô, đặc biệt là Khôi, nuôi dưỡng lòng hận thù ngày một sâu đậm đối với Phạm Quỳnh người đã thụ hưởng nhiều lợi lộc nhất trong cuộc đảo chính ngày 2/5/1933. Từ một nhà báo, Quỳnh đã trở thành Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục, rồi thăng lên chức Tổng lý khá nhanh, nắm giữ tước cao nhất của hệ thống quan lại (Tứ trụ triều đình) năm 1944. Từ từ theo sự thăng tiến về danh vọng của Phạm Quỳnh, hận thù giữa họ Ngô với Quỳnh càng gia tăng…” (30)

28. Báo cáo số 1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Sureté gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856. Thực tế, trong mùa Hè 1944, người Nhật đã chọn Diệm làm ứng cử viên tương lai chức Thủ tướng An Nam, dưới quyền Hoàng thân Cường Để, và sự trợ giúp của Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Đình Dy, Vũ Văn An, Lê Toàn (tức Ủy Ban Kiến Quốc). Xem thêm Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký (Houston: Văn Hóa, 1996).

29. Nguyên văn: “Francais ne veulent pas de nous, parce que nous sommes trop entiers, à fortiori Japonais qui préfèraient souplesse PHAM QUYNH dont ils vantent talent.” Báo cáo số 1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Sureté gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856. Tháng 4/1945, người Nhật chọn Trần Trọng Kim làm Tổng lý Đế Quốc Việt Nam.

30. “M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh,” tr. 2; SHAT (Vincennes), 10H xxx. Xem thêm chi tiết trong Vũ Ngự Chiêu, “Political and Social Change in Vietnam Between 1940 and 1946,” Ph.D. dissertation, December 1984, Univ. of Wisconsin-Madison, Part I, chapts 3, 4 & 6. Báo Tiếng Dân trong tháng 5/1933 cũng có bài xa gần nhắc nhủ “những người được cái của người khác đừng nên vội mừng” (có lẽ ám chỉ Phạm Quỳnh) và kết luận rằng mọi việc đều do Pháp chủ xướng. Huỳnh Thúc Kháng, tưởng nên nhấn mạnh, cùng chủ trương “thờ người Pháp làm bậc thầy để cầu tiến bộ” như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, v.v.

Tóm lại, thành tích chống Pháp hay cách mạng từ năm 1933 của Diệm chưa được một tài liệu nào xác nhận; chỉ có những tư liệu văn khố chứng minh ngược lại—anh em họ Ngô mưu cầu quyền lực bằng mọi giá, bất chấp khuôn thước đạo đức truyền thống. Ngay cả huyền thoại “chống Cộng” từ năm 1922 qua tài liệu Switzerland, cũng cần duyệt xét lại. Nội dung buổi nói chuyện năm 1962 với các viên chức Mỹ chứng tỏ Diệm chẳng biết gì vai trò của địa bàn Trung Hoa cùng hoạt động của DALBURO Nga ở Vladivostok, Thượng Hải hay Hương Cảng (Hong Kong). Diệm cũng thần thoại hóa quyết định từ chức của mình, ngoài tinh thần chống thực dân, còn vì không đồng ý với chính sách “chống Cộng” của Pháp. Theo Diệm, Cộng Sản là sản phẩm của các chính phủ tả phái Pháp, một nhận định phiến diện, trước sự du nhập và phát triển của một trường phái ý thức hệ mới của Tây phương—tức chủ thuyết duy vật, đứa con hoang ngỗ nghịch của thần quyền, công khai chống lại Ki-tô giáo, gọi Ki-tô là thuốc phiện tinh thần. Thực ra, họ Ngô chống Cộng phần lớn vì lệnh Vatican và viên chức Pháp; kiến thức về Marxist-Leninism hay nguyên nhân khiến chủ thuyết này bành trướng ở Nga, Trung Hoa, Indonesia hay Việt Nam rất mơ hồ. Ngoài ra, Diệm có vẻ “rất linh động và sáng tạo” trong việc diễn giải thành tích dĩ vãng để “bán mình” [sell oneself] cho chính phủ Mỹ. Năm 1963, Ðại sứ Henry Cabot Lodge đi đến kết luận, không hẳn chủ quan, rằng Diệm và họ Ngô thuộc loại “dối trá và tội phạm” (liars and criminals). (31)
31. Memorandum of a Conversation, Saigon, Jan 16, 1962; FRUS, 1961-1963, II:41-2; IV:tài liệu 69 (deception, IV:127), 77 (medieval view of life; IV:143), và 221.

(Còn tiếp)

© 2004, 2012 Chieu N. Vu. All Rights Reserved.


Nguồn: Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm (1897-1963): Thời kỳ chưa nắm quyền, 1897-1954. Chính Đạo. Hợp Lưu, Thứ Năm, 7 Tháng Mười Một-2013.

2 Comments on “Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm (1897-1963): Thời kỳ chưa nắm quyền, 1897-1954 (P2)

  1. kiểu “ăn Ngô thì no, ăn Hồ thì đói”

    Tôi chưa từng nghe ai nói đến cái câu này.

    “Nguyễn Thân còn ủy thác Khả đứng ra tổ chức một trường dạy tiếng Pháp và quốc ngữ mới—tức loại tiếng Việt dùng trong việc giảng đạo Ki-tô của Hội truyền giáo—cho vương tôn nhà Nguyễn ở Huế.”

    Nguyễn Thân chỉ là chức võ tướng nhỏ trong triều đình nhà Nguyễn thì làm sao có quyền viết ra sắc chỉ bài sai để hiệu triệu lập ra Quốc Tử Giám.

    Chỉ bấy nhiêu đó thôi đã chứng tỏ bài viết này không có giá trị lịch sử và lý luận.

  2. Theo Việt Sử Tân Biên của tác giả Phạm Văn Sơn xuất bản vào cuối thập niên 50-60 thời Đệ Nhất Cộng Hoà cho biết: “Nguyễn Thân là người hung ác, hiểm độc lắm và hay giết người. Trong lúc dùng binh, ông giết người ta không biết bao nhiêu mà kể. sau về hưu trí ở làng Thu Xà bị bệnh điên cuồng mà chết. Người ta nói ông bị những oan qủy báo oán. Và tòa nhà lộng lẫy của ông lập ngay trên một trái núi con ở Thu Xà, người ta cũng đồn cái nhà ấy nhiều ma, cho nên khi ông chết đi rồi thì nhà bị bỏ hoang…[10]