Một người Đức nhớ về Việt Nam
Uwe Siemon-Netto | Trà Mi lược dịch
Tôi tin rằng tất cả chúng ta có nhiệm vụ phải làm chứng nhân cho lịch sử… Vì lợi ích của những thế hệ đi sau, chúng ta phải giữ cho ký ức của sự thật lịch sử sống mãi.
Tôi hãnh diện đã được yêu cầu nói chuyện với các bạn hôm nay, gần nửa thế kỷ sau lần đầu tiên tôi đến Việt Nam như một phóng viên chiến trường Tây Đức. Lúc đó các lực lượng chiến đấu Mỹ đầu tiên chưa đổ bộ vào Đà Nẵng. Đó cũng là lúc tôi bắt đầu biết yêu nồng nàn con người và đất nước của các bạn, những người đã nể trọng và gọi dân tộc chúng tôi là “Đức”, cũng có nghĩa là đạo đức.
Một ngày nọ, một chú nhỏ trong đám trẻ bán báo không nhà sống trên đường Tự Do ở Sài Gòn, đến gần tôi và nói:
“Ông là Đức, tôi tên là Đức, vì vậy cả hai chúng ta là Đức, và tôi có một đề nghị với ông. Nếu ông cho phép bạn bè của tôi và tôi ngủ trong xe của ông, chúng tôi sẽ canh giữ và lau chùi nó sạch sẽ cho ông.”
Tôi đã thuê bán thường xuyên một chiếc Citroen 15 mã lực, [còn gọi là] một chiếc trắc xông [traction]. Đây là một chiếc xe rất lớn và rất tốn xăng của Pháp chế tạo vào năm tôi ra đời. Ổ khóa cửa của nó đã mất. Vì vậy, có ai đó coi chừng giùm cũng là điều tốt. Đôi khi có bảy hay tám đứa trẻ ngủ trong chiếc xe này, giữ gìn nó thật sạch từ bên trong đến bên ngoài.
Tôi luôn luôn đậu trên đường Tự Do đối diện với Continental Palace, bên cạnh quán Café Givral, nếu bạn còn nhớ. Nó, chiếc xe, không chỉ là phương tiện đi lại của tôi; quan trọng hơn, nó đã trở thành một phương tiện hữu nghị giữa Đức, các nhà báo, và một đám trẻ tuyệt vời, do Đức dẫn đầu, đi bán dạo các tờ báo như Nhật báo Sài Gòn, Saigon Post và nhiều tờ báo khác.
Tình bạn này kéo dài cho đến khi chiếc traction của tôi trở thành một nạn nhân trong cuộc tấn công Tết năm Mậu Thân 1968 và những đứa trẻ bụi đời đã biến mất khỏi đường Tự Do một thời gian.
Tôi tự hỏi chuyện gì đã xảy ra cho Đức kể từ ngày đó. Có thể anh ấy hiện đang sống tại Hoa Kỳ, có lẽ anh ấy đang ngồi ngay trong phòng này. Sẽ thật là kỳ diệu nếu tôi được nói chuyện và cười với anh ta một lần nữa; anh ấy đã là một đứa trẻ tuyệt vời.
Không phải là tôi đã ở Sài Gòn nhiều; tôi thường tháp tùng các đoàn quân của các bạn ra mặt trận. Và ở đó tôi quan sát thấy các bác sĩ QLVNCH và nhân viên y tế đã dũng cảm cố gắng cứu sống nhiều thương binh. Có lẽ một số bạn ở đây và tôi đã gặp nhau – gần Quảng Trị, Huế, Pleiku hay Pleime, Nha Trang, hay ở đồng bằng sông Cửu Long, hoặc tại các trại tù binh trên đảo Phú Quốc.
Lúc ấy là vào đầu năm 1965.
Cuối năm đó tôi bị chấn cột sống khi đi theo một chiếc trực thăng tải thương của Mỹ và chúng tôi bị bắn rơi ở phía tây An Khê, và vì vậy các bác sĩ người Mỹ đã chăm sóc cho tôi. Nhưng dẹp qua cái quốc tịch của bác sĩ và nhân viên quân y: Trong năm năm tôi ở Việt Nam, tôi rất trân trọng sự hy sinh, lòng dũng cảm và tính chuyên nghiệp của tất cả các bạn, những người Mỹ, người Việt Nam, người Đại Hàn và người Úc.
Vì vậy, các bạn và tôi có thể đã gặp nhau. Thật khó mà không thấy khi tôi đến thăm đơn vị của các bạn, ở trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, tôi là phóng viên Tây Đức duy nhất tại Nam Việt Nam, và huy hiệu của tôi xác định tôi là một người Đức.
Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi thậm chí đã trở thành đồng đội của các bạn vì tôi đã bắt một cán binh Việt Cộng.
Đây là một sự kiện khá thú vị. Và đây là những gì đã xảy ra.
Vào tháng Hai năm 1965 tôi đi theo một toán A-Team của Lực lượng Đặc biệt Mỹ và tham gia vào cuộc tập nhảy dù phía tây của Mỹ Tho. Tôi rơi xuống đất. Tôi cuộn dù và nhận thấy đất lún dưới chân tôi. Tôi lùi lại. Mặt đất lại trồi lên lại. Tôi nhảy, với cả hai chân, mạnh xuống chỗ đó. Mặt đất lõm xuống. Tôi nghe thấy có tiếng rên. Một lần nữa tôi lùi lại, dỡ bỏ lớp cỏ và thấy chiếc nón cối ngụy trang của một cán binh VC và nòng khẩu súng trường loại cũ M-1 của hắn.
Trước hết tôi lấy khẩu súng, rồi nâng anh VC ra khỏi hố. Hắn là một anh chàng nhỏ bé gầy guộc trong bộ bà ba đen, và anh ta đang run rẩy. Tôi nói với hắn: “Hãy can đảm, đồng chí, với anh thì cuộc chiến đã chấm dứt.” [“Courage, camarade, pour toi la guerre est fini.”] Tôi không biết anh ta có nói tiếng Pháp hay không, nhưng chắc chắn hắn hiểu những gì tôi nói: “Hãy can đảm, anh bạn, với bạn chiến tranh đã chấm dứt.” Bấy giờ hắn mới mỉm cười.
Tôi giao anh VC và khẩu súng trường lại cho toán lính Mỹ nhưng vẫn giữ cái nón cối của hắn làm chiến tích. Suốt 46 năm sau đó nó nằm trong thư viện của tôi đến khi vợ chồng bạn tôi anh Dr. Lý Văn Quý và chị Châu đến nhà tôi ở Pháp hồi cuối tháng Mười. Tôi đã tặng cái nón cối VC lại cho họ như một món quà lưu niệm. Không phải vì tôi đã thực hiện một hành động anh hùng vĩ đại.
Tuy nhiên, tôi đã vui vẻ để giúp bạn. Vì vậy, đây – cái nón cối. Đây là chiến tích của tôi. Bây giờ nó là của hai bạn. Nó sẽ vào bảo tàng chiến tranh của bạn ở đây, tại Little Saigon.
Đó là một sự kiện lành mà tôi nâng niu làm kỷ niệm. Một vài tuần sau đó, tôi có một kinh nghiệm đau buồn ở phía tây thành phố Nha Trang. Nhưng nó có nghĩa để tôi hiểu được nhiệm vụ của mình. Vì nó đã cho tôi thấy bộ mặt thật của chiến tranh Việt Nam. Lý do tại sao bây giờ tôi nói đến sự kiện này vì nó cho thấy nguyên cớ tại sao rất nhiều người Mỹ chưa bao giờ hiểu rõ về cuộc xung đột ở Việt Nam.
Tổng thống Richard M. Nixon sau đó đã trích dẫn bài báo của tôi về vụ này trong cuốn sách của ông, The Real War. Vì vậy, xin thứ lỗi cho sự phù phiếm của tôi nếu tôi trích dẫn một Tổng thống Hoa Kỳ đã trích dẫn tôi: Nixon đã viết,
“… nhà báo Đức Uwe Siemon-Netto đã vẽ nên một minh họa sinh động về cách các toán du kích cộng sản sử dụng khủng bố để đạt mục đích của họ. Siemon-Netto, người đi cùng một tiểu đoàn của Việt Nam đến một ngôi làng lớn mà Việt Cộng đã đột kích năm 1965, đưa tin: ‘lủng lẳng trên cây và trên nhiều cột trong sân làng là ông xã trưởng, vợ ông, và mười hai người con của họ, những cậu con trai, kể cả một em bé …”
Bọn Việt Cộng đã ra lệnh cho tất cả mọi người trong làng phải chứng kiến cảnh gia đình này bị tra tấn trước, và sau đó bị treo cổ.
“Họ bắt đầu bằng em bé và sau đó từ từ tra tấn đến các em lớn hơn, rồi tới người vợ, và cuối cùng đến ông xã trưởng. … Họ ta tay rất lạnh lùng, giống như một hành động trong chiến tranh, như bắn súng phòng không …”
Tất cả trích dẫn phía trên là trích đoạn của Nixon từ một câu chuyện của tôi. Nixon giải thích rằng đây là cách người Cộng sản giành được trái tim và khối óc của người dân nông thôn. Họ đã không giành được con tim và tâm trí [người dân] bằng tình thương nhưng bằng những hình thức đe dọa và tàn nhẫn nhất. Dân làng nói với tôi rằng cán bộ Việt Cộng đã vào làng nhiều lần trước và cảnh cáo ông xã trưởng rằng nếu không ngừng hợp tác với chính phủ Việt Nam [Cộng hòa] thì ông sẽ nhận lãnh những hậu quả nghiêm trọng.
Nhưng ông vẫn trung thành, do đó, vào giữa đêm họ quay lại và đánh thức tất cả mọi người trong làng để chứng kiến vụ thảm sát, đồng thời một cán bộ tuyên truyền đã nói với mọi người: “Đây là những gì sẽ xảy ra với quý vị nếu không theo chúng tôi; nhớ đó!”
Tôi xấu hổ nhìn nhận rằng tôi không còn nhớ tên của ngôi làng đó. Nhưng điều đó không thực sự quan trọng vì những việc này hồi đó đã xẩy ra trên khắp miền Nam Việt Nam mỗi đêm.
Tuy nhiên, công chúng Mỹ phần lớn không biết đến những sự kiện này vì giới truyền thông của họ đã không nói cho họ biết. Trong những cuộc họp báo hàng ngày ở Sài Gòn – cuộc họp khét tiếng lúc 5 giờ – chỉ thuần là những phiên họp để đưa số thống kê. Người tóm tắt thông tin thường xuyên báo cho phóng viên con số lớn các “sự kiện” xảy ra trong 24 giờ trước đó.
Bản tường trình nghe như một bản báo cáo bán hàng: “Quân Đoàn I, 184 lần chạm địch; Quân đoàn II, 360 lần; Quân đoàn III, 225; Quân Đoàn IV, 480.” Tất cả chỉ có thế. Không có thêm chi tiết nào khác. Vì gần như không thể có được do số lượng quá nhiều của những cuộc đụng độ trong vòng 24 giờ.
Ký giả chúng tôi đã không thể nghiên cứu những sự kiện này trừ khi chúng tôi có mặt ở đó như trường hợp của tôi khi đi cùng với một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 22 quân lực VNCH. Tuy nhiên, những gì tôi thấy gần Nha Trang đã thực sự vô cùng quan trọng vì nó tiêu biểu cho bản chất của giai đoạn đặc biệt này của cuộc chiến Việt Nam.
Hành vi khủng bố để đe dọa dân chúng là đặc trưng của giai đoạn thứ hai trong chiến lược chiến tranh du kích của Tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng quốc phòng của Bắc Việt Nam.
Tôi thật sự nghi ngờ rằng nhiều người Mỹ có thể quay lưng lại với cuộc chiến tranh Việt Nam, nếu giới truyền thông của họ liên tục miêu tả những hành động vô nhân đạo đã xảy ra ở khắp mọi nơi ở miền Nam Việt Nam. Họ đã không làm, một phần vì các nhà báo không có phương tiện để làm như vậy, một phần cũng vì nhiều phóng viên và biên tập viên của họ đã có chương trình khác. Tôi nói “nhiều” chứ không phải “tất cả”.
Ba năm sau, Tết Mậu Thân ở Huế, tôi đang đứng cùng đồng nghiệp Peter Braestrup của Washington Post ở vành của một ngôi mộ tập thể và đã vô tình nghe Peter hỏi một người quay phim cho một đài truyền hình Mỹ: “Tại sao bạn không quay cảnh này?” Người quay phim trả lời: “Chúng tôi không đến đây để tuyên truyền chống Cộng.” Điều này cho thấy một tư duy đáng xấu hổ của nhiều đồng nghiệp của tôi; tôi tin cách suy nghĩ đó là yếu tố quan trọng đã tạo thành ước vọng chấm dứt chiến tranh với bất cứ giá nào [của công chúng Mỹ].
Tướng Giáp biết điều này sẽ xảy ra. Ông biết rằng các cử tri Mỹ sẽ mệt mỏi với cuộc chiến này. Vì ông biết rất rõ những điểm yếu của một xã hội tự do, đặc biệt là khả năng chú ý ngắn của nó. Sáu mươi năm trước, ông đã viết: “Kẻ thù” – thực tế là tất cả các nền dân chủ phương Tây – “không có vũ khí tâm lý và chính trị để chống lại một cuộc chiến kéo lâu dài.”
Ông tiên đoán sự mệt mỏi chiến tranh, phong trào hòa bình, khuynh hướng đạo đức giả của ý thức hệ đã bỏ qua bản chất ghê tởm của một phong trào cách mạng độc tài; sự thiên vị để nhấn mạnh đến những thiếu sót của phe mình; xã hội dân chủ đang hy sinh lớp thanh niên, tuổi trẻ của họ cho “đồng minh” bị cáo buộc là tham nhũng; và cuối cùng mong muốn “tìm một lối thoát danh dự,” và “hòa bình trong danh dự,” rồi đi đến một thỏa hiệp công bằng.
Điểm rất đáng chú ý về vai trò của giới truyền thông tại Việt Nam là có một số phóng viên người Mỹ, những người sau này trở thành những nhân vật phản chiến hăng hái, đã biết rất rõ về sự nguy hiểm này. Ngày 13 Tháng Giêng 1965, Một columnist cũng là sử gia Mỹ nổi tiếng Stanley Karnow trích dẫn tuyên bố của tướng Giáp về sự bất lực của các quốc gia tự do để chống lại cuộc chiến tranh kéo dài và cảnh cáo người đọc về những hậu quả của nhược điểm này trong cấu tạo của bất kỳ hệ thống dân chủ nào.
Và chẳng bao lâu sau, Karnow đứng đầu giới cầm bút kích động cho cái gọi là “hòa bình trong danh dự,” và biết quá rõ rằng một cuộc hòa giải thật sự là danh dự thực sự không thể có được.
Hôm nay chúng ta nghe tiếng vọng của việc này về vấn đề ở Afghanistan. Một lần nữa chúng ta lại nghe những lời kêu gọi cho một cuộc thương thuyết hòa giải. Chúng ta nghe đến những cuộc đàm phán bí mật giữa Mỹ và Taliban. Không ai nghĩ đến việc phong trào độc tài toàn trị này có thể nhượng bộ những gì khi thương thuyết.
Thỏa hiệp loại đó có thể có những điểm: Thay vì bị cấm không được học đọc và viết, phụ nữ sẽ được phép học nửa bảng chữ cái? Trong năm năm đầu sau khi Taliban tiếp quản chỉ có một nửa số phụ nữ bị cáo buộc là ngoại tình sẽ bị ném đá đến chết thôi giống như chế độ đã sử dụng trước khi Taliban bị mất quyền lực? Và phụ nữ sẽ chỉ bị quất một nửa số roi nếu mặc áo trùm mà để hở mắt cá chân?
Một chục năm trước đây, một nhóm nữ quyền hàng đầu của Mỹ, Tổ chức Phụ nữ Quốc gia, công bố những vi phạm nhân quyền khủng khiếp của Taliban đối với phụ nữ trên trang web của họ. Hôm nay không cần mất thời giờ suy nghĩ, có khả năng rất cao là những vi phạm này sẽ được lặp lại một khi NATO rút lực lượng [ra khỏi Afghanistan] vì những lạm dụng đó là một phần trong ý thức hệ Hồi giáo cực đoan cũng như những trại cải tạo lao động [tù khổ sai] trong ý thức hệ cộng sản. Những ai trong các bạn ở đây đã có kinh nghiệm với trại tù Việt Cộng hẳn biết những gì tôi đang nói.
Tôi tin rằng tất cả chúng ta có nhiệm vụ phải làm chứng nhân cho lịch sử – các bạn, các cựu chiến binh của cuộc chiến này, và chúng tôi, những ký giả đã đưa tin về nó. Vì lợi ích của những thế hệ đi sau, chúng ta phải giữ cho ký ức của sự thật lịch sử sống mãi. Chúng ta phải tiếp tục nhắc nhở giới truyền thông ở nước sở tại của chúng ta về vai trò then chốt của họ trong việc bảo vệ tự do. Chúng ta phải cảnh báo những người đi sau chúng ta về những hậu quả khủng khiếp của một nền báo chí xấu, hàn lâm đạo đức giả và một khối cử tri chán nản không kiên quyết. Các bạn đang ở vị trí tốt nhất để làm điều này. Các bạn đã thấy và đã phải gánh chịu rất nhiều.
Hãy cho tôi nói thêm một điều: Tôi là một Kitô hữu, và một người viết sử nghiệp dư. Là một Kitô hữu tôi biết ai là Chủ tể sau cùng của lịch sử. Và là một người viết sử nghiệp dư tôi biết rằng lịch sử luôn luôn mở cửa cho tương lai. Gộp hai yếu tố này lại với nhau cho chúng ta niềm hy vọng – hy vọng cho Việt Nam, hy vọng cho Afghanistan, hy vọng cho nhân loại. Chúng ta không phải là những chủ nhân của tương lai. Nhưng chúng ta có tiếng gọi của lương tâm để giúp làm cho tương lai được tốt đẹp hơn.
Do đó, chúng ta đã không nhìn thấy những điều ác một cách vô ích, và chúng ta cũng đã không đau khổ vô cớ. Tất cả đều có lý do của chúng, và lý do đó là để chúng ta có thể nói lại với thế hệ tương lai những gì thực sự đã xảy ra, bất kể nhiều điều dối trá vẫn đang được nói đi nói lại về Việt Nam.
Trên đây là bài phát biểu của tác giả tại Hội nghị Quốc tế của Cựu chiến binh Quân y Việt Nam Cộng Hòa tại thành phố Westminster, Cal., ngày 15 tháng 4 năm 2012. Uwe Siemon-Netto, cựu biên tập viên tôn giáo vụ của United Press International, là một nhà báo quốc tế trong 55 năm hoạt động ở Bắc Mỹ, Việt Nam, Trung Đông và châu Âu cho các tạp chí của Đức. Tiến sĩ [Thần học] Siemon-Netto hiện quản trị League of Faithful Masks và Trung tâm Thần học Lutheran & Public Life do ông sáng lập tại Capistrano Beach, Calif.
© 2015 DCVOnline
Nguồn: A German Remembers Vietnam By Uwe Siemon-Netto , Tuesday, April 17, 2012.