Hồi ký hay truyện ký (Kết)

Nguyễn Tà Cúc

hueTừ giải khăn sô cho huế của Nhã Ca đến mourning headband for hue của dịch giả Olga Dror: hồi ký hay truyện ký?

Mourning Headband for Hue: An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968 – August 20, 2014 by Nha Ca (Author), Olga Dror (Translator)
Mourning Headband for Hue: An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968 – August 20, 2014 by Nha Ca (Author), Olga Dror (Translator)

Nghiêm Xuân Hồng, một nhà văn di cư vào Nam rồi di tản sang Hoa Kỳ tránh họa Cộng sản, đã không đồng ý với thái độ trung lập, đứng giữa, phản chiến, v.v. vì ông cho rằng đó là một thứ “bẫy chiến lược” của người Cộng sản:

Chú thích (1): Ngay từ năm 1954, khi Nehru còn quá tin tưởng ở sức quyến rũ cá nhân của mình đối với các lãnh tụ Trung Cộng và cổ xúy chính sách trung lập, nhóm Quan Điểm trên mặt tờ báo ‘Tiếng Miền Nam’ đã nhiều lần tố cáo chính sách trung lập như cái bẫy chiến lược của quốc tế cộng sản.[Nghiêm Xuân Hồng, Cách mạng và Hành động (1789-1917-1933-1949, trang 398, Quan Điểm xuất bản, Sài gòn, 1962]

Và ông kêu gọi chống trả để tự vệ:

Vấn đề chính yếu ngày nay là hiểm họa xâm lăng của hàng ngũ sô-viết. Thiết tưởng chúng ta không thể nuôi một ảo tưởng gì về cuộc đấu tranh này. Nó hiện vẫn còn là một cuộc “so gươm khủng khiếp” như lời Henrich Heine đã tiên đoán từ 1842. Một trận so gươm khủng khiếp giữa những người còn muốn giữ tính chất người, và những đoàn người man rợ muốn dầy xéo nhân tính! Nó sẽ khủng khiếp đến mức độ khiến “thần linh cũng phải che mặt thương hại cho con cháu loài người, thương cho thế gian phải chịu đầy ải lâu dài và biết đâu chẳng thương cho cả số mệnh của chính thần linh nữa” [Lời của Henrich Heine, trích dẫn bởi Lâm Ngữ Đường, trong cuốn Secret Name, dịch bởi Từ Chung, Ngôn Luận xuất bản]. Cho nên, thiển nghĩ không thể kết luận tập sách này bằng cách nào khác. Trên quan niệm hành động, thế giới tự do, cùng những lớp người có khát vọng tự do, sẽ bắt buộc phải áp dụng ngay những phương châm hành động của người bôn-xê-vích để trả đũa lại những đợt tấn công của chúng. Và đây chỉ là một trường hợp tự vệ chính đáng!

[Nghiêm Xuân Hồng, sđd, trang 400]

Như thế, lời nhận xét [“anh em một nhà bị lừa phỉnh” v.v.] của Nhã Ca khó có căn cứ khi sau 1975, đúng như Nghiêm Xuân Hồng đã viết, cuộc “so gươm khủng khiếp” ấy đã kết thúc bằng các trại tù từ Nam ra Bắc, từ các thây người chìm sâu đáy biển và cũng từ các cảnh đổi đời oan nghiệt kết quả của các cuộc đổi tiền hay kinh tế mới vv… Người viết muốn nhấn mạnh một lần nữa ở đây, rằng Nhã Ca không phải là nhà văn đầu tiên và quan trọng trong Văn học Miền Nam đã cổ võ cho một thứ thái độ bấy giờ vẫn được gọi là “phản chiến” hay “đứng giữa,” “trung lập.” Trước 1975, nhà văn Miền Nam [trừ người Cộng sản nằm vùng như Vũ Hạnh hay Lữ Phương] vẫn có khuynh hướng đối nghịch nhưng không hề có thái độ phi văn nghệ bằng cách xỉ mạ nhau. Bởi thế, khi Nhã Ca sử dụng loại chữ nghĩa phán quan rất nôm na “anh em một nhà bị lừa phỉnh đẩy tới chỗ giết nhau, cũng đã 60 năm, 70 năm. Vậy mà cho tới nay chưa tỉnh. Tại Huế cũng như tại quê nhà và đâu đó trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thể có được một ngày giỗ chung, bàn thờ chung” là một sự rất bất thường trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của truyền thống Miền Nam ấy.

Cách đây 70 năm, Khái Hưng bị người Cộng sản thủ tiêu năm 1947, Nhượng Tống bị ám sát năm 1949. Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (Đạo Hòa Hảo) bị người Cộng sản âm mưu bắt giữ và mất tích từ năm 1947. Tạ Thu Thâu bị giết năm 1945. Phan Văn Hùm bị bắt rồi biệt tích cũng vào năm 1945. Cách đây 60 năm, vụ án Nhân văn-Giai phẩm bùng ra tại Miền Bắc và Thụy An lấy đũa chọc mù một mắt trong tù. Cũng cách đây 60 năm, hơn một triệu người Bắc bỏ nhà cửa thân nhân di cư vào Nam. Cách đây 40 năm, 1975, cả triệu người Việt vượt biển, tạo thành chữ “thuyền nhân” (boat people) trong lịch sử nhân loại với báo cáo về những vụ hãm hiếp và giết người man rợ do hải tặc gây ra. Dịch giả Phùng Thăng [1943-1975] cùng con gái, rồi Hồ Điệp (ngâm thơ nổi tiếng) bị sát hại tại Kam pu chia trên đường vượt biên. Hàng trăm ngàn quân dân cán chính Việt Nam Cộng hòa bị bắt giam. Văn nghệ sĩ chết trong tù có Nguyễn Mạnh Côn, thả ra thì qua đời có Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương…Tô Thùy Yên cứa vào cổ tay tự tử mà không chết cũng trong tù… Danh sách này còn dài dằng dặc. Ai giết ai? Ai lừa phỉnh ai? Câu hỏi ấy hãy để lịch sử trả lời bằng con số và nhân chứng. Mà lịch sử ấy không chỉ liên quan đến người Việt, nó liên quan đến lịch sử thế giới với đại hồng quân Liên bang Xô viết, với Trung hoa, với Kam-pu- chia…nghĩa là đến khắp nơi nào có họng súng và nhà tù của người Cộng sản.

Riêng các con số và nhân chứng người Việt, kể cả những nhân chứng đã nằm lại dưới đáy biển hay trên đất người, có lẽ chứng minh rằng hình như Nhã Ca đã nhầm lẫn giữa nhà cầm quyền Cộng sản và dân chúng Việt Nam. Theo thiển ý, chính bà và gia đình cũng đã phải rời khỏi Việt Nam không phải vì người dân Việt Nam không biết “xưng tội, cầu nguyện sự khoan dung, tha thứ” mà chắc chắn phải vì người nắm quyền Cộng sản, thắng cuộc chiến bằng vũ lực, cho tới nay đã vẫn còn không “dung thứ” các quyền tự do tư tưởng và tôn giáo và vẫn còn “hạch tội tranh công hay đấu tố chụp mũ”. Hãy đọc lời kêu cứu mới đây của mục sư Nguyễn Mạnh Hùng:

Mới đây đêm 09-6-2014, công an các cấp từ tỉnh Bình Dương tới cấp phường cùng lực lượng ô hợp hùng hậu khoảng mấy trăm người đến khủng bố tinh thần, đánh đập thô bạo 29 Mục sư cùng 49 sinh viên trường thần học Mennonite tại đường D10, Mỹ Phước, Bến Cát, Bình Dương. Trước khi tấn công vào nhà nguyện, họ cho cắt toàn bộ điện nước khu vực nhà nguyện và một số hộ xung quanh để che dấu tôi ác dã man của họ. Sau khi đánh đập, họ bắt toàn bộ nam giới cởi trần đưa 2 tay lên đầu áp giải về đồn công an như áp giải tù binh gây ra cảnh kêu khóc thảm thiết làm náo loạn cả một khu dân cư…” [Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Giáo hội Mennonite, “Tình hình đàn áp đạo Tin Lành ở Việt Nam”, http://www.chuacuuthe.com/2014/07/tinh-hinh-dan-ap-dao-tin-lanh-o-viet-nam/]

Trong khi đó, người dân cả nước đã hành động cụ thể bằng cách kết hợp để công khai vinh danh các cựu quân nhân thuộc quân lực Việt Nam Cộng hòa hay Dòng Chúa Cứu thế đã giúp Giáo hội Mennonite phổ biến lời kêu cứu tới thế giới và người Việt ngoài nước. Lời kết án này càng làm người viết ngạc nhiên hơn khi Trần thị Thu Vân lấy bút hiệu Nhã Ca, vốn là chữ của Phan Khôi trong Kinh thánh Tin lành Việt ngữ. Theo tinh thần của câu trả lời trên, chẳng lẽ bà lại có thể kết án giáo hội Mennonite khi họ báo động về tội ác của người Cộng sản, kể cả với các em thiếu niên theo học trường Kinh thánh tại Bình Dương?!

Theo chúng tôi, không cần nhắc tới Tổng thống Lincoln chi cho xa xôi. Hãy nhắc đến Đài kỷ niệm Nạn nhân Cộng sản được Tổng thống George W. Bush khánh thành tại thủ đô Hoa Kỳ vào ngày 12.6.2007. Sau nữa, ngoài người bản xứ Hoa Kỳ, dĩ nhiên chúng ta cần phải nhắc tới Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại đây. Trong “nhiều cái đầu” của cộng đồng này, có hiện diện ít nhất của bốn người với bốn xuất xứ khác nhau trong giới cầm bút nhưng cùng một sự phân biệt rạch ròi giữa nhà cầm quyền Cộng sản và người dân Việt Nam, nghĩa là có thể họ đã từ chối đeo cái án tàn sát do Nhã Ca tròng vào cổ và bởi thế không cần về làm giỗ chung với kẻ sát nhân nếu họ không muốn nhất là khi kẻ sát nhân này lại không ăn năn mà còn tiếp tục giết người.

Trong số bốn người ấy, còn có người [Võ Phiến] chỉ trích trực tiếp hay có người [Tưởng Năng Tiến] từ chối không chia trách nhiệm với người Cộng sản và yêu cầu phải có những phiên tòa xử các tội ác của họ từ cuộc thảm sát Tết Mậu thân tại Huế tới các vụ Nhân văn-Giai phẩm, thu vàng bán bãi vượt biên vv…Bốn người đó là: nhà văn Võ Phiến, chuyên viết tạp luận, giám khảo tuyển chọn tác phẩm đoạt Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc trước 1975 tại Miền Nam; ký giả kỳ cựu Đinh Từ Thức, bút danh Sức mấy, Nhật báo Chính Luận, Sài gòn– bị chính phủ bắt giam và được thả chỉ vài ngày trước khi Miền Nam mất– chuyên viết xã luận; nhà văn Ngô Thế Vinh, Sĩ quan Quân Y, nhà văn duy nhất bị chính phủ Việt Nam Cộng hòa đưa ra tòa về tội “làm suy giảm tinh thần chiến đấu của binh sĩ” qua truyện ngắn “Mặt trận tại Sài gòn” và nhà xã luận Tưởng Năng Tiến, một tác giả chuyên bàn về hậu quả của chế độ Cộng sản.

Phần Võ Phiến, ông châm biếm một cách cay đắng như sau trong phần viết về Nhã Ca, Bộ môn “Ký”-Văn học Miền Nam:

Sau khi biến cố Mậu Thân ở Huế xẩy ra được hai năm, sau khi nghiền ngẫm chán chê, Nhã Ca phát biểu: ‘Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chịu trách nhiệm…” (sđd, trang 9). Vụ Mậu Thân là một “công trình”! Công trình lớn lao ấy không biết do đâu. Đã không biết do đâu thì lỗi phải bất phân: Chia đôi trách nhiệm? Thành quả công trình nọ, mỗi bên một nửa? Huề?!”

[Võ Phiến, sđd, trang 2053, Nhả xuất bản Văn Nghệ, 1999, Hoa Kỳ]

Ông còn chỉ ra cái mâu thuẫn chứng tỏ Nhã Ca phải biết “công trình” ấy do đâu mà đến: nó đến từ đoàn quân chính quy Bắc Việt, Mặt trận Giải phóng Miền Nam và du kích địa phương:

[…] Chị em Nhã Ca đã đắn đo: ‘Chúng tôi thường dùng tiếng ‘họ’ để chỉ Việt Cộng và để tránh tiếng Giải phóng. Thật không gì mỉa mai tàn tệ bằng tiếng ‘giải phóng’ khi nhìn cảnh đau thương tan tành trong thành phố như thế này,’ (sđd, trang 198). Chị em bà nghĩ vậy, phải quá. Nhưng không biết diễn biến rủi ro nào đã xui khiến sau hai năm suy tưởng, lúc chấp bút thảo nên Giải khăn sô cho Huế, Nhã Ca lại dùng tiếng “Giải phóng” để gọi Cộng quân, và không gọi trong ý nghĩa mỉa mai. Khi thì là ‘quân giải phóng’ (trang 40), khi lại hóa ra ‘anh giải phóng’ (trang 163, 302,489, 514) nghe thân ái ghê…”

[Võ Phiến, trang 2053, sđd]

Quả Nhã Ca hơi “coi thường độc giả “ khi tái bản GKSCH đã lẳng lặng bỏ đi mấy chữ “công trình” đã bị Võ Phiến chỉ trích: hẳn bà không nghĩ người đọc sẽ khám phá được: Lẽ ra ít nhất cũng phải báo cho Mặc Lâm biết!

Phần Đinh Từ Thức, khi phân tích về cuốn Nếu đi hết biển… của đạo diễn Trần Văn Thùy, ông đã viết rất rõ về nguyên ủy của sự “hận thù”:

[…] Muốn giải quyết vấn đề hận thù, phải truy tận gốc. Nó bắt nguồn từ hai guồng máy cai trị tại Bắc và Nam. Chính quyền miền Nam đã tan biến từ năm 1975. Chỉ còn lại chính quyền miền Bắc hiện đang cai trị cả nước. Đây chính là nguồn gốc còn lại của hận thù. Nguyên do của hận thù là bất công. Cá nhân hay tập thể tạo bất công, là gây bất hòa, đưa tới hận thù. Trên lý thuyết, Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang nắm quyền cai trị phải chịu trách nhiệm về những bất công do mình gây ra từ 60 năm qua. Nhưng trên thực tế, hơn hai triệu đảng viên cũng chỉ là công cụ của một nhóm thực sự nắm quyền hành, đó là Bộ Chính Trị. Dù núp dưới danh nghĩa gì, cái nhóm này, thực sự chỉ là một băng đảng ăn cướp. Đừng ngần ngại gọi họ bằng tên thật của họ.

Họ đã cướp công cách mạng của các đảng phái Quốc Gia. Họ đã cướp quyền cai trị mà chính họ từng long trọng tuyên bố thuộc về toàn dân. Họ đã cướp của cải, vàng bạc của dân để hối lộ cho tướng Tầu. Họ đã cướp mạng sống của người dân trong vụ Cải Cách Ruộng Đất. Họ đã cướp tự do sáng tác của các văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Họ đã cướp cả Miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 đến Mũi Cà Mâu (họ nói phải đánh Miền Nam để dành lại độc lập từ tay Đế Quốc Mỹ, nhưng do những tài liệu đã được công bố, trước năm 1975, Bắc hay Nam Việt Nam đã lệ thuộc ngoại bang nhiều hơn? Miền Nam đâu có nghe lệnh Mỹ giết dân như Miền Bắc tuân lệnh Tầu trong vụ Cải Cách Ruộng Đất? Miền Nam đâu có nhượng một tấc đất nào cho Mỹ như Miền Bắc đã nhượng cho Tầu?). Họ đã cướp mạng sống của hàng triệu binh sĩ Bắc cũng như Nam vì chủ xướng cuộc chiến mệnh danh giải phóng Miền Nam. Họ đã ăn cướp hạnh phúc của hàng triệu gia đình có thân nhân phải đi cải tạo. Họ đã ăn cướp tài sản của những người phải đi Kinh Tế Mới. Và họ đã ăn cướp của cả dân tộc Việt Nam nửa thế kỷ tiến bộ. Tóm lại, dân tộc Việt Nam không có hận thù gì với nhau, nên không cần đặt vấn đề hòa giải dân tộc. Hiện tại, chỉ có hận thù giữa băng đảng ăn cướp đang nắm quyền cai trị, và khối dân tộc bị trị. Kẻ nào, thành phần nào gây ra bất công, là nguyên nhân của bất hòa, phải đóng vai chủ động trong việc hòa giải. Do đó, không phải người dân hòa giải với nhà cầm quyền, ngược lại, Bộ Chính Trị phải hòa giải với dân. Thay vì thể hiện hòa giải qua hành động, như nhận lỗi và sửa lại những gì đã làm sai, đền bù những gì đã gây thiệt hại v.v…Họ kêu gọi người dân, nhất là những nạn nhân của họ, hãy hòa giải với họ. Nghĩa là chấm dứt chỉ trích, chống đối, hãy tiếp tay họ, chấp nhận để họ tiếp tục gây bất công, hận thù. Đây là điều phi lý, ngược ngạo.”

[Đinh Từ Thức, “Chuyện đi, về – đọc nếu đi hết biển…”, 13.2.2009, http://damau.org/archives/3973]

Phần Ngô Thế Vinh, ông đặt một câu hỏi mà ai cũng biết câu trả lời:

Trên đường đi, tôi không thể không có ý nghĩ nếu làm một con toán cộng những năm tù đầy của mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam, con số ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ có oan nghiệt giam cầm huỷ hoại những thân xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của văn nghệ sĩ trong khoảng thời gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ diệt cả một nền văn hóa đến tận gốc: trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?…

[Ngô Thế Vinh, ngày 20.2.2015]

Mới đây, Ngô Thế Vinh viết về Thanh Tâm Tuyền, một nhà thơ Miền Nam bị tù một thời gian dài sau 1975, bị đưa ra Bắc, qua đời năm 70 tuổi tại Hoa Kỳ khiến (bác sĩ) Ngô Thế Vinh tự hỏi phải chăng 7 năm ròng rã hút thuốc lào chống đói chống rét có ảnh hưởng chút nào tới căn bệnh ung thư phổi của Thanh Tâm Tuyền. Nhưng đời sáng tác của ông đã bị cướp đi ngay cả sau khi ra tù. Vâng, nhưng nếu đúng như Nhã Ca phán xét thì một trong ba nhà thơ danh tiếng nhất của Thơ Việt Nam hiện đại, chưởng môn phái Thơ Tự Do, cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về việc tàn phá và tàn sát tại Huế! Ôi những kiếp người đã trượt ngã trên con đồi tịch mịch của lịch sử mà cả cái bóng của mình cũng vẫn còn bị thản nhiên dẫm đạp.

Phần Tưởng Năng Tiến phát biểu mới thật đích đáng. Ông không công nhận làm “tòng phạm” với Đảng trong những vu giết người như vụ Mậu Thân. Ông đòi hỏi phải xử cho phân minh về tội ác, kể cả tội ác Mậu Thân tại Huế, của người Cộng sản trước khi lập trai đàn giải oan, nghĩa là còn ý nghĩa hơn cả những ‘bàn thờ chung” của Nhã Ca:

Hồi đầu thập niên 1950, trong Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Đất, Đảng CSVN đã hiểu lầm và qui sai thành phần đâu chừng vài trăm ngàn người, khiến họ đều phải bỏ mạng. Cuối thập niên 1960 – trong trận Tổng Công Kích Mậu Thân – Đảng cũng đã hiểu lầm những người dân ở Huế là “tay sai của Mỹ/Ngụy,” và đã đập đầu hay chôn sống tập thể khoảng vài ngàn (hay vài chục ngàn) mạng nữa. Cuối thập niên 1970, sau khi giải phóng miền Nam, chỉ vì hiểu lầm rằng những kẻ sống bằng doanh nghiệp (hay còn gọi là bọn tư sản – mại bản) là kẻ thù của nhân dân, nên bằng vào chiến dịch Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Đảng làm cho vô số gia đình tán gia bại sản, khiến cho không ít kẻ đã chết trong uất ức […] Trong vụ này, làm ơn bỏ hai chữ “nhân dân” qua một bên cho đám dân đen chúng tôi được nhẹ nhõm – đôi phần. Dẫu vẫn biết rằng theo truyền thống thì “đâu cần nhân dân có, đâu khó có nhân dân” nhưng làm tòng phạm (với Đảng) trong những vụ giết người tập thể – như vừa dẫn – là điều khó quá. […] Nếu có được sự biện biệt rõ ràng giữa nạn nhân và thủ phạm như thế thì hy vọng (mỏng manh) sẽ có một số vong linh được siêu thoát, sau những Trai Đàn Giải Oan – theo “giải pháp tình thế” hiện tại. Số còn lại thì đành phải chờ thôi. Chờ cho đến khi có sự thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam, và hoàn cảnh cho phép để tỗ chức những phiên toà liên quan đến những vụ án chưa xử – như Nhân Văn, Xét Lại, Đổi Tiền, Mười Ngày Học Tập, Thu Vàng Bán Bãi Vuợt Biên … – và bắt buộc phải xử, trước khi thiết lập những Trai Đàn Giải Oan (thực thụ và chính thức) trong tương lai. Những phiên toà này, tưởng cũng nên nói cho rõ, không có mục đích truy thù hay báo oán. Truyền thống văn hoá bao dung của dân tộc Việt không cho phép bất cứ ai nghĩ đến điều này. Tuy nhiên, quá khứ cần phải được thanh thoả – và không thể thanh thỏa thuần túy chỉ bằng những Trai Đàn Giải Oan – để mọi người đều cảm thấy được nhẹ lòng, và an bình hơn khi hướng đến tương lai.

[Tưởng Năng Tiến, 2.2007]

Mượn lời Tưởng Năng Tiến, chúng tôi cũng có thể nói, chỉ thay chữ “trai đàn giải oan” bằng “bàn thờ chung” của Nhã Ca: “Hãy tổ chức những phiên toà liên quan đến những vụ án chưa xử – như Nhân Văn, Xét Lại, Đổi Tiền, Mười Ngày Học Tập, Thu Vàng Bán Bãi Vuợt Biên … – và bắt buộc phải xử, trước khi thiết lập những bàn thờ chung (thực thụ và chính thức) trong tương lai. Những phiên toà này, tưởng cũng nên nói cho rõ, không có mục đích truy thù hay báo oán. Truyền thống văn hoá bao dung của dân tộc Việt không cho phép bất cứ ai nghĩ đến điều này. Tuy nhiên, quá khứ cần phải được thanh thoả – và không thể thanh thỏa thuần túy chỉ bằng những bàn thờ của người dân Việt Nam khi người gây ra tội ác vẫn chưa bị xét xử công minh.”

IV. Có phải “Mourning Headband for Huế là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam” [Olga Dror]?

Như thế, vấn đề luôn luôn còn lại là GKSCH có phải thực đại diện cho một phần hay toàn thể tiếng nói của người Miền Nam lúc bấy giờ nếu phản ảnh những sự kiện có thực, không thêm bớt do tác giả chứng kiến và đã được nghe tại chỗ; hay chỉ là một thứ truyện ký-trá hình- hồi ký mà sự trá hình đó sẽ lộ dạng qua lần Talawas rồi lần xuất bản 2008, Hoa Kỳ?

Mặt khác, hình như chính Olga Dror cũng không hình dung được những trở ngại thực sự về việc “đối thoại” liên quan đến cuốn GKSCH (trang lvi, sđd). Nếu Nhã Ca đã không trả lời trực tiếp vào câu hỏi của người phỏng vấn như trường hợp Đinh Từ Bích Thúy, thì việc mong mỏi một sự đối thoại từ giới đại học [đòi hỏi một sự trực diện với tài liệu] hay giới cầm quyền ở Việt Nam [tự công nhận trách nhiệm của người Cộng sản] hay với công chúng [đòi hỏi một sự bạch hóa về sự mâu thuẫn giữa tác giả/truyện ký và dịch giả/hồi ký] lại càng là điều không tưởng. Nhã Ca không công nhận có thay đổi trong GKSCH khi tái bản và nhiều lần nói rõ GKSCH là một cuốn truyện ký, nghĩa là tiểu thuyết hóa sự kiện. Olga Dror nhất quyết minh định rằng “Nó không phải là cuốn tiểu thuyết, không là tác phẩm hư cấu”. Như vậy, đối thoại trên căn bản nào? Đối thoại căn cứ trên một bản gốc nhưng biết chắc là có biên tập lại khi tái bản sau này và không phổ biến rộng rãi cho công chúng? Hay trên một bản tái bản với những thay đổi, mà theo người viết, phải kể là rất quan trọng? Đối thoại bằng những sự kiện đã được tiểu thuyết hóa theo lời chính tác giả hay được coi như sự thật theo dịch giả?

Olga Dror còn thông tin rằng người ta có thể đọc cuốn GKSCH trên các mạng lưới Internet [trang lvi, sđd] nhưng nếu chúng tôi không nhầm, chỉ có bản Hoa Kỳ 2008 hay bản Talawas –là 2 bản đã được biên tập lại– lưu hành trên Internet. Đa số các bản này lại không kèm “Tựa nhỏ: viết để chịu tội” chứa đựng lời kết án quân dân Miền Nam như đã dẫn. Chúng tôi đã có ý tìm kiếm nhưng chưa hề thấy bản Thương Yêu 1969 xuất hiện ở trang mạng nào cả. Như vậy, sẽ rất khó để các nhà nghiên cứu hay độc giả tại bất cứ nơi đâu, trong hay ngoài Việt Nam, có thể bàn thảo với Nhã Ca và Olga Dror giản dị chỉ vì họ không có phương tiện đọc được nguyên bản Thương Yêu 1969 mà bà đã sử dụng. Đó là chưa kể đến bản đã tái bản ở Sài gòn. Trong khi đó, để công bằng cho Nhã Ca, một nhà nghiên cứu phải có ít nhất bốn bản GKSCH đã xuất bản thì mới có đủ tài liệu để so sánh và nhận định. Theo như người viết nhận xét, trong Mourning Headband for Hue, Olga Dror cũng chỉ nhắc tới 2 bản, là bản Thương Yêu và bản Việt Báo, cho nên, nếu thế, chính bà cũng chưa thể đối thoại được với một người có đủ bốn bản về những thay đổi quan trọng có thể liên quan trực tiếp tới giá trị nhân chứng của tác giả và sự chính xác của các sự kiện trong tác phẩm.

Thêm vào đó, ngoài vấn đề sự thật và các thay đổi liên quan đến tác phẩm, những tin tức khác liên quan đến thân thế Nhã Ca khiến phản ảnh văn sử Miền Nam và lịch sử cộng đồng tỵ nạn đương thời có đúng như Olga Dror đã trình bày trong cuốn này không? Nếu không thì cuốn sách dịch-từ-nguyên bản này sẽ tiếp tục được đánh giá như một tài liệu, một văn kiện như Olga Dror mong muốn hay sẽ là một thí dụ cảnh cáo những nhà phê bình Văn học Miền Nam tương lai khi, theo Nhã Ca trong bài nói chuyện thượng dẫn:

Sau khi liệt kê đầy đủ và đối chiếu với các loại quan điểm khác nhau về trận chiến đã được nói lên từ nhiều phía, nhiều nơi, nhiều nước, Olga nhấn mạnh “Mourning Headband for Huế” là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam.[Nhã Ca, “47 Năm Sau Vụ Tàn Sát Tết Mậu Thân Giải Khăn Sô Cho Huế Tới UC Berkeley”: Bài nói chuyện tại UC Berkeley, Feb 25. 2015 trong buổi họp mặt với “Giải Khăn Sô Cho Huế/Mourning Headband for Hue, http://vietbao.com/a234271/47-nam-sau-vu-tan-sat-tet-mau-than-giai-khan-so-cho- hue-toi-uc-berkeley, Ngày 28. 2.2015-Người viết in đậm]

Nếu quả GKSCH “là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam” thì dịch giả Olga Dror nghĩ sao về việc họ bị Nhã Ca kết thêm “tội sát nhân” chỉ vì họ có cái không may mắn là sống cùng thời với người Cộng sản và Nhã Ca? Liệu bất cứ ai, chứ chưa nói đến Olga Dror, có thể có đủ thẩm quyền để tấn phong một tác phẩm, nhất là một tác phẩm đang có quá nhiều nghi vấn về tính chất “hồi ký” của nó và thân thế của tác giả, vào vị trí “đại diện” cho cả một dân tộc như thế không?

Đằng khác, có phải cũng trong cùng cuốn “ký” này, có một nam ký giả ngoại quốc chạy loạn Mậu Thân Huế “râu ria xồm xoàm” trông giống như “con đười ươi trong rừng chạy lạc về phố” [Nhã Ca, GKSCH bản 2008, trang 73] không? Trong khi đó, ở bản GKSCH Thương Yêu 1969 thì người ký giả này tuy cũng “râu ria xồm xoàm” nhưng chỉ “trông như sống trên rừng sâu mới về” (trang 82, sđd) mà thôi. Bỗng dưng 40 mươi năm sau, ông ta lại hóa thành … “con đười ươi”?! Mới đây, Nhã Ca đã nại Tổng thống Lincoln ra làm chứng: lẽ ra bà phải nhìn rất kỹ chân dung vị tổng thống Hoa Kỳ này trước khi biên tập lại GKSCH vào năm 2008! Cái lối viết khinh mạn cả một giống nòi khác, và trong trường hợp này về một người cũng đang chạy trốn cái chết như mình, phải chăng giải thích được thói phát biểu khiếm nhã đến nỗi kết tội cả một thế hệ của chính dân tộc như Nhã Ca đã làm? Đúng, người ta có thể nói “Tôi làm tôi mất nước”, “Tôi là một thằng hèn” hay “Tôi không bảo vệ được binh sĩ và đất nước của tôi nên tôi phải tự sát” (như bao nhiêu quân nhân Miền Nam đã làm) nhưng cao giọng gán tội sát nhân cho cả triệu người khác –có cả những người mất mạng như chuẩn úy Nhựt –để bảo vệ và chiếm lại thành phố Huế thì quả là rất cần nên xét lại, đặc biệt là sau khi Nhã Ca đã quả quyết với Đinh Từ Bích Thúy “Nếp nhà và văn hóa của một dân tộc biết tôn thờ sự linh thiêng, dạy bảo tôi viết vậy”!(7)

Đằng khác, việc Nhã Ca từ chối phản bác những ý kiến trái ngược: “Olga cũng hỏi tôi có muốn phát biểu gì không về vài ba trường hợp chỉ trích Giải Khăn Sô Cho Huế mà Olga trích dẫn trong phần Giới Thiệu của Dịch Giả, tôi cám ơn bà và nói không”; nhưng sau đó, chính bà lại ra lời mạt sát “những cái đầu” không nghĩ như bà đến ít nhất là hai lần thì càng là một sự mâu thuẫn rất rõ ràng. Thực ra, nếu Nhã Ca có trả lời thì cũng chỉ là bầy tỏ một tinh thần mã thượng giữa những người cầm bút –là truyền thống của Văn học Miền Nam–và quan tâm đến vấn đề chung; chứ nếu không, vấn đề kết án dân quân Miền Nam vẫn còn đó, nói sai về lịch sử Hoa Kỳ vẫn còn đó, mạt sát một người Tây phương như một “con đười ươi trong rừng chạy lạc về phố” cũng vẫn còn đó và quả độc giả sẽ là người phán xét sau cùng, không chỉ độc giả đời này mà còn độc giả của bao thế hệ đời đời sắp tới.

Người viết muốn nhấn mạnh một điểm sau đây: người viết hoàn toàn tôn trọng quyền phát biểu của Nhã Ca và quyền nhận định của Olga Dror; nhưng là một người dân trưởng thành tại Miền Nam, được may mắn theo học cả trong hai hệ thống giáo dục tại Miền Nam và Hoa Kỳ, lại nghiên cứu về văn học và sinh hoạt nghệ thuật Miền Nam đủ để có tài liệu làm bằng chứng cho những điều đã dẫn, người viết muốn đưa ra một cái nhìn khác về những phát biểu và nhận định nói trên mà người viết nghĩ rằng sẽ làm thiệt hại cho hình ảnh của một Miền Nam nay được phổ biến, nhất là trong môi trường đại học Hoa Kỳ.

Cái nhìn khác đó của người viết đương nhiên không đại diện cho ai và có khiếm khuyết, nhưng đó cũng là một điều nữa mà người viết muốn bày tỏ ở đây và cũng là lý do khiến có bài viết này: cũng không ai có quyền đó cả. Khi Olga Dror, qua Nhã Ca, phát biểu rằng GKSCH “là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân Miền Nam Việt Nam”– một Miền Nam, mà theo Nhã Ca, “phải lãnh phần trách nhiệm” về tội tàn sát dân lành tại Huế và tội ác tàn phá thành phố Huế vào tết Mậu Thân 1968 với Giải khăn sô cho Huế đi kèm– thì lời phát biểu đó cần phải có sự phản bác từ bất cứ một người dân Miền Nam nào khác. Sự phản bác đó càng cần thiết khi chính Olga Dror lập lại lời của Nhã Ca về “một ngày giỗ chung” mà bà sẽ vui mừng nếu xẩy ra:

[…] “Nếu một ngày nào đó, dân tộc Việt Nam có thể họp lại mà cùng nhau tưởng niệm những người đã chết vào Tết Mậu Thân tại Huế, cũng như Nhã Ca cũng muốn như vậy/If one day the people of Vietnam would be able to together commemorate those who died at the time of Tet Mậu Thân in Hue, as Nhã Ca also desires.” [Olga Dror, sđd, trang lvi]

Người viết thành thực mong rằng, sau khi được đọc quan điểm của bốn nhân sự thượng dẫn (nhất là của ký giả Đinh Từ Thức), thì Olga Dror phải nhận ra rằng có một khác biệt rất lớn giữa “dân tộc Việt Nam/the people of Vietnam” và chính phủ Cộng sản Việt Nam. Cứ đọc các tin người dân Việt Nam bây giờ làm lễ công khai vinh danh người lính Việt Nam Cộng hòa và tử sĩ cuộc hải chiến Hoàng Sa (1974) thì rõ: cần gì phải đợi chính phủ Cộng sản Việt Nam cho phép mới tưởng niệm hay vinh danh được? Còn nếu nói về dân tộc Việt Nam thì làm gì có chuyện thù hận nhau đến nỗi đó? Ngoài ra, nếu nói riêng đến trường hợp này, nghĩa là đến “bàn thờ chung” của Nhã Ca, thì vấn đề phải đặt ra là chúng ta mang gì tới bàn thờ đó? Mang một cuốn tiểu thuyết hóa sự kiện [Truyện ký/lời Nhã Ca] để gây tranh luận hay mang sự thật không thêm bớt? Nhân danh tưởng niệm, ngày giỗ, hương hoa, nhang đèn và bàn thờ mà làm gì trong khi tiếp tục gây oan khuất cho cả một thế hệ còn sống với lời “hạch tội” (chữ của Nhã Ca) hạch họe người vô tội phải “chịu tội với Huế, với quê hương” vì đã phạm tội ác “tàn phá” và “tàn sát” (trang 12, Bản Thương Yêu)?!

Tổng chi– cộng với bao điều bất nhất liên quan đến tác phẩm GKSCH do chính tác giả của nó phổ biến– nếu những tin tức khác về tiểu sử tác giả Nhã Ca do Olga Dror mang tới cho độc giả cũng không phản ảnh đúng đắn hay đầy đủ một phần văn sử của Văn học Miền Nam và lịch sử của người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ thì sẽ cần phải được phân tích cho phân minh dù chúng ta rất hoan nghênh sự thành tâm và thiện ý của bà. Đó là những vấn đề quan trọng không kém– vì liên quan đến cả lịch sử và văn sử của cả một nửa dân tộc –sẽ được bàn đến trong một loạt bài khác. Người viết, dĩ nhiên, sẵn sàng hoan nghênh sự lên tiếng của tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror để rộng đường dư luận.

V.  Một diễn đàn mở rộng để thu thập tài liệu

Người viết đã mở đầu bài này bằng tin tức liên quan đến một số sử gia hay giáo sư tại các đại học Hoa Kỳ thì cũng phải kết thúc bằng một lời tri ân cho phải phép. Trước đây, khi nghiên cứu về tạp chí Sáng Tạo, người viết đã cố gắng tìm kiếm thêm tin tức về thân thế của Graham Tucker– nhân viên Sở Thông tin Hoa Kỳ, người đã đại diện cho cơ quan này tài trợ cho Mai Thảo đề làm Sáng Tạo– mà cho tới nay vẫn còn thất bại. Người viết có ý nghĩ đó vì, sau khi tỵ nạn tại xứ này, người viết mới thâm cảm được sự hy sinh từ máu xương cho tới tiền của mà đất nước này đã đổ vào Việt Nam Cộng hòa (Miền Nam). Cuộc chiến tranh Việt Nam, kết thúc một cách đau thương cho tự do và dân chủ, nhưng sự thất bại hầu như không thể tránh khỏi ấy không xóa bỏ được lòng hào hiệp của một số người Hoa Kỳ muốn giúp một nước nhược tiểu thoát cùm Cộng sản. Đúng, ngay tại đây có người sẽ phản đối rằng Hoa Kỳ tham chiến vì quyền lợi của chính họ trong cuộc chạy đua thời Chiến tranh Lạnh với Nga -xô. Hơn thế nữa, một số quân nhân Hoa Kỳ đã phạm tội ác rất khó tha thứ được như cuộc thảm sát tại Mỹ Lai. Người viết không từ chối điều đó, nhưng như đã trình bày ở trên, Hoa Kỳ không chỉ được đại diện bằng Mỹ Lai, bằng nhóm nhà văn như Susan Sontag hoặc những giáo sư cực tả ở các đại học Hoa Kỳ. Những giáo sư thượng dẫn và cả dịch giả Olga Dror — những nhà sử học hay bản thân cũng là những tác gia đã có những công trình nghiên cứu giá trị về Việt Nam — nay cố gắng giới thiệu tới cộng đồng đại học và người đọc Hoa Kỳ những tác phẩm giúp nới rộng vòng hiểu biết về cuộc chiến và Miền Nam. Đằng khác, trong bất cứ vấn đề nào, tài liệu, sự chính xác của tài liệu và nhân chứng là những yếu tố không thể bỏ qua để xác định vị trí của một tác phẩm hay phát biểu của tác giả trong bối cảnh khi nó xuất hiện.

Nếu bài viết này có cung cấp được bất cứ tài liệu nào cho các giáo sư thượng dẫn, cho Olga Dror, cho Nhã Ca và cho độc giả thì đó là một niềm khích lệ lớn cho người viết trên hành trình nghiên cứu về Văn học Miền Nam của chính mình.


Nguồn: Lần đầu tiên xuất hiện trên Tạp Chí Da Màu www.damau.org

“Da Màu chủ trương một diễn đàn văn chương không biên giới, một diễn đàn mở rộng cho mọi khuynh hướng sáng tác, mọi tác giả, mọi khai phá đúng nghĩa. Da Màu thúc đẩy sự cảm thông và chấp nhận những dị biệt bắt nguồn từ văn hóa, ngôn ngữ, phái tính, màu da, lịch sử, địa lý, chính kiến… qua các hình thái văn học nghệ thuật.”

Chú thích:

(7) Lẽ ra, không ai nên nại đến bất cứ sự linh thiêng nào để đánh cược cho quan điểm hay kiến thức của mình. Nhã Ca sử dụng lịch sử Hoa Kỳ để thuyết phục người nghe về ngày giỗ chung do bà xướng xuất nhưng nói sai trầm trọng về mấy sự kiện liên quan đến lịch sử Hoa Kỳ chỉ trong vài dòng ngắn ngủi: “[…] tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định “một ngày tủi nhục quốc gia” cho nước Mỹ[…] Nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào vào tháng Tư năm 1865. Liên Bang nước Mỹ, với sự tôn trọng dành cho phía miền Nam- lá cờ miền Nam vẫn được treo, binh sĩ miền Nam vẫn giữ súng cá nhân, liệt sĩ Nam Bắc chung nghĩa trang, cả nước không có một cuộc diễn binh hay lễ hội mừng chiến thắng…” [Nhã Ca, 47 Năm Sau Vụ Tàn Sát Tết Mậu Thân Giải Khăn Sô Cho Huế Tới UC Berkeley: Bài nói chuyện tại UC Berkeley, Feb 25. 2015, http://vietbao.com/p112a234271/47-nam-sau-vu-tan-sat-tet-mau-than-giai-khan-so-cho-hue-toi-uc-berkeley]

Thực ra, thứ nhất, ngày đó có nguyên có tên là “ A Day of National Humiliation, Fasting and Prayer “ và nghị định của Tổng thống Lincoln có nhắc tới “Thượng đế/ Government of Almighty God/God is the Lord/ the offended Power” trong bối cảnh lúc ấy của nền văn hóa Hoa Kỳ, một nền văn hóa không liên quan tới trận chiến Quốc-Cộng mà sau này Nhã Ca và hầu như tất cả văn nghệ sĩ Miền Nam đều bị người Cộng sản giam giữ sau 1975. Thứ hai, “lá cờ Miền Nam” (the Confederate Flag) không hẳn là được chào mừng tại mọi nơi. Năm 2014, Thống đốc Californa vừa ra lệnh cấm các cơ quan sở tại không được phép bán hay bầy bất cứ thứ gì có in hình lá cờ này. Trước đó, tháng 7. 2000, Thống đốc Tiểu bang S. Carolina ra lệnh hạ cờ xuống tại Viện Dân biểu, v.v.

Và có, có một cuộc diển hành rất lớn mừng chiến thắng đã được tổ chức tại thủ đô Washington D.C. kéo dài trong suốt 2 ngày 23 và 24 tháng 5. 1865 dưới sự chủ tọa của Tổng thống Andrew Johnson. Trước đó, cũng có hai buổi mừng chiến thắng thời Tổng thống Abraham Lincoln còn sinh tiền. Tờ Literary Digest, ra ngày 19.5.1919, đã có bài viết về cuộc diễn hành này mà số quân tham dự là khoảng 200.000 với một trong mấy vị tướng mang quân về là tướng William Tecumseh Sherman. Nếu Nhã Ca có xem phim “Cuốn theo chiều gió/ Gone With the Wind” với Scarlett O’hara/Viven Leigh và Rhett Butler/Clark Gable thì sẽ thấy hình ảnh cuộc hỏa hoạn khủng khiếp tại thành phố Atlanta xưa kia vẫn cho rằng do viên tướng này gây ra. Và không, không có lính Miền Nam nào lúc đó còn giữ súng đề làm gì: họ đã giải giới và về đoàn tụ với gia đình sau khi tướng Robert E. Lee đầu hàng ngày 9. 4. 1865 tại Appomattox, Virginia. Riêng đa số quân nhân tham dự cuộc chiến này với quân lực Liên bang thì chính thức giải giới sau cuộc diễn hành mừng chiến thắng tại Washington D. C. Hiện nay, một số tổ chức đang vận động để tổ chức cuộc diễn hành kỷ niệm “The Grand Review Parade” 150 năm trước đây vào ngày 17. 5. 2015 nhưng với sự tham dự của đại biểu của các binh lính da màu nguyên đã không được tham dự vào năm 1865.