Trong đống rác lịch sử (Kết)
Nguyễn Hữu
Tác giả Lê Nguyên Phu đã dựa vào bóng tối lịch sử, cố tình giả mạo chứng cớ không hợp lý chứng tỏ sự gian manh nhưng không đủ khôn ngoan để tạo ra câu chuyện khả tín.
Đặt vấn đề về trước những sự kiện lịch sử
(Tiếp theo phần III)
Tiết III Không dung nạp đảng phái và đàn áp đối lập
Trang 257, Về Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông Phu viết là “theo chân quân đội Trung Quốc trở về Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai. Lần trở về này vì thiếu ý thức chính trị, chẳng những đã để mất chính quyền vào tay Việt Minh, mà còn chịu tai kiếp thứ hai là bị Việt Minh đánh bại vào năm 1946, phải cuốn cờ chạy sang Trung Quốc một lần nữa.”
Sự thất bại của Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng như các đảng phái quốc gia khác không phải là thiếu ý thức chính trị mà do nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Những yếu tố khách quan như: Sự lật lọng của Tướng Lãnh Quốc Quân Tàu, sự thờ ơ của quân phiệt Nhật đối với các phần tử quốc gia Việt Nam và sự tráo trở của thực dân Pháp tạm thời bắt tay với Việt Minh để thanh trừng các thành phần ái quốc. Những yếu tố chủ quan như: Bộ máy tuyên truyền và tổ chức của Việt Minh lúc ấy được sự hậu thuẫn của đa số dân chúng hơn các đảng phái quốc gia, sự thiếu kiên quyết của các đảng phái chính trị đối với phe Việt Minh và căn bệnh trầm kha thiếu đoàn kết của người Việt là những yếu tố đã dẫn đến sự thất bại của các đảng phái quốc gia. Việc chính quyền rơi vào tay Việt Minh là do Việt Minh giành trước bằng nhiều thủ đoạn chứ không phải là các đảng phái quốc gia để mất. Có thì mới mất chứ chưa có thì làm sao mà mất? Lý luận bá vơ này là sự thù ghét những người không cùng phe phái, đổ tội lên đầu phe quốc gia mà không cần tìm hiểu lý do.
Trang 258-279, Về tình trạng đảng phái Việt Nam, ông Phu dựa vào tin tức “xe cán chó, chó cán xe” hoặc do ông bịa ra để bêu xấu những đảng phái quốc gia. Phần lớn những người như Vũ Hồng Khanh, Ngô Thúc Địch, Lê Ngọc Chấn, Nguyễn Xuân Tiếu, Nguyễn Tường Tam, Lý Đông A, Hoàng Xuân Tửu, Phan Huy Quát, Hồ Nhật Tân, Hà Thúc Ký, Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân… đều bị ông Phu bôi nhọ bằng nhiều ngôn từ rủa sả. Ngay cả học giả Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Đặng Văn Ký cũng bị xỏ bằng những lời lẽ rất bất nhã “ăn chực nằm chờ” khi các ông này được Nhật giúp đỡ tránh khỏi nanh vuốt của thực dân Pháp tại đảo Chiêu Nam (trang 14). Chuyện này chưa dứt, chuyện kia được nhét vào với cách tung hỏa mù để chứng minh ông Diệm không độc đoán, độc tài mà vì những người này “ít học”, “bất tài”, “không trong sạch”, “có quá khứ lem luốc”, “không có thành tích đáng kề”, “thân Nga”, “thân Nhật”, “tôn Nhật bài Pháp”, “Nho học bất đạt, Tây học nan thông”…
Đồng ý là trong số những người ông Phu nêu tên cũng có thể có những người kém tài đức nhưng đặt vào bối cảnh khi thực dân Pháp còn đè đầu cưỡi cổ dân Việt, nếu không phải là kẻ điên khùng, phải có tấm lòng yêu nước nồng nàn những người này mới dám dính vào “chuyện quốc sự”, tham gia vào những hoạt động chính trị chống Pháp, không những nguy hiểm cho bản thân mà còn liên lụy cho gia đình mà hình ảnh Nguyễn Thái Học và những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng bị Pháp đưa lên đoạn đầu đài vẫn còn ám ảnh nhiều người. Dù những người này có thiếu tài đức, cá nhân tôi vẫn cúi đầu vá cảm phục lòng yêu nước của họ.
Về ông Diệm, trừ việc ông Diệm làm quan cho Pháp nhiều năm, thành tích tranh đấu vì độc lập, tự do cho đất nước trước khi cầm quyền miền Nam Việt Nam của ông còn thua xa các lãnh tụ đảng phái nhưng ông gặp thời, được ông Bảo Đại trao quyền trong bối cảnh người Mỹ nhảy vào Việt Nam nên ông có điều kiện thành công hơn người khác chứ ông Diệm chưa chắc có tài đức hơn nhiều người mà ông Phu nêu tên.
Trang 261, mũi dùi được ông Phu chỉa vào Phạm Văn Liễu, Hoàng Cơ Minh
“lợi dụng lòng yêu nước của đồng bào tỵ nạn Cộng sản, thâu góp tiền bạc nói rằng để đồ binh diệt cọng, mà kỳ thực là để bỏ đầy túi tham, nhưng rồi ăn chia không đều, gây gỗ nhau đến nỗi câu chuyện lường gạt bị đổ bể, cúi mặt không dám nhìn đời.”
Về Võ Đại Tôn, cũng với luận điệu trên ông Phu viết là
“cũng như Phạm Văn Liễu, lợi dụng lòng yêu nước chống cộng của đồng bào tỵ nạn, Võ Đại Tôn đi khắp Âu Mỹ thâu tiền góp bạc của bà con dễ tin “vì tai tiếng đồn đãi, cũng như Hoàng Cơ Minh, y phải làm một chuyến du hành về Ai Lao. Nhưng không may cho y, y bị Cộng sản Việt Nam bắt tại đây, đem về Sài Gòn giam cầm một thời gian rồi phóng thích cho y trở về Úc Châu.”
Là kẻ ngoại cuộc, không biết rõ những việc lủng củng nội bộ của “Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh” hay trường hợp Võ Đại Tôn nên người viết bài này không dám đưa ra kết luận vội vàng. Xưa nay, tin tức từ những tờ báo lá cải được những kẻ thù ghét, ganh tỵ rỉ tai và phóng đại để bôi nhọ nhưng phần đông đều không biết rõ nguyên nhân sâu xa. Chúng ta nên cẩn thận trong việc phán xét một người hay một sự kiện nào đó với lương tâm công chính hơn là từ tin vịt. Độc giả tự tìm hiểu, suy gẫm và đánh giá Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Võ Đại Tôn. Hơn nữa, việc này không dính dáng gì đến việc ông Diệm có dung nạp đảng phái và đối lập hay không nên người viết không phân tích việc này.
Đặt vấn đề: Việc đem các ông Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Võ Đại Tôn ra xỏ xiên có dính dáng với việc ông Diệm không đán áp đảng phái và đối lập hay không? Điều này có biểu lộ thói ba que, đụng đâu chửi đó không?
Trang 267, Về Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên, ông Phu viết là “Bình Xuyên của Bảy Viễn, cũng như Cao Đài và Hòa Hảo đều đứng chung trong một mặt trậncó tên gọi là Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp do Thierry d’Argenlieu đứng ra thành lập ngày 24-4-1946.”
Điều này có phải là sự cố tình giả mạo lịch sử không? Trước năm 1954, người Pháp cù cưa tráo trở trong việc trao trả độc lập cho Việt Nam, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp được thành lập vào ngày 20-04-1946 với mục đích chống Pháp mà Chủ tịch là Thầy Huỳnh Phú Sổ với sự tham gia của Cao Đài, Bình Xuyên, Quốc Dân đảng (31). Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp được sự tham gia đông đảo của các thành phần không phải là Cộng Sản để ủng hộ Bảo Đại trong cuộc thương nghị với Pháp giành độc lập, thống nhất và hòa bình cho Việt Nam. Trong khi đó, Hồ Chí Minh, dưới sự cố vấn của Tàu Cộng, cũng cần điều đình với Pháp, muốn ngăn chặn những thành phần yêu nước không Cộng Sản nên đã cho lệnh ám sát các phần tử không Cộng Sản như Nguyễn Văn Sâm, Huỳnh Phú Sổ, Trương Đình Tri… (32). Sau khi ông Huỳnh Phú Sổ bị Việt Minh thủ tiêu, quân đội Hòa Hảo ngã về phía thực dân Pháp để chống Cộng quyết liệt nhưng không có nghĩa là tay sai của Pháp.
Đặt vấn đề: “Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp do Thierry d’Argenlieu đứng ra thành lập” hay là do ông Huỳnh Phú Sổ thành lập? Nếu do Thierry d’Argenlieu thành lập thì theo tài liệu nào?
Trang 270, Ông Phu khẳng định “còn Cao Đài, Hòa Hảo nguyên chỉ toàn cán bộ võ biền đâu còn có ai để tham gia các chính quyền về sau. Chính họ đã tự loại mình khỏi sân khấu chính trị, chứ đâu phải vì Ngô Đình Diệm độc tài, độc đoán.”
Võ biền trong chiến tranh cần lắm chứ! Nhờ vào những người võ biền như Trình Minh Thế, Nguyễn Thành Phương (Cao Đài), Nguyễn Giác Ngộ (Hòa Hảo)… mà ông Diệm có thể thống nhất quân đội. Hơn nữa, trong các nhóm Cao Đài, Hòa Hảo không chỉ có võ biền mà còn nhiều hạng người khác nữa. Ông Nguyễn Bảo Toàn (Hòa Hảo, Dân Xã Đảng), Hồ Hán Sơn (Cao Đài, Việt Nam Phục Quốc Hội) là những người có nhiều uy tín lúc bấy giờ, đã củng cố địa vị cho ông Diệm trong việc truất phế ông Bảo Đại. Ông Diệm đã giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng ngày 15-1-1956 loại trừ những người này. Có thể là do việc này mà ông Hoàng Cơ Thụy (thành viên trong Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng) sinh ác cảm với chính quyền ông Diệm và tham gia vào vụ đảo chánh 11-11-1960.
Trang 270, Ông Phu tiếp tục mạ lỵ nhóm Tinh Thần là
“có khoảng trên dưới 10 nhân vật… ủng hộ lập trường của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Diệm cũng coi họ như đồng chí .. nhưng khi có tranh chấp giữa Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia, nhóm Tinh Thần mất tinh thần, một mặt sợ đụng chạm với Pháp, một mặt e ngại sự hăm dọa của Bình Xuyên, nên bỏ rơi Ngô Đình Diệm trong giờ phút nguy hiểm nhất và rút chân ra khỏi chính quyền…. Chính họ đã phụ rẩy [rẫy], bỏ rơi Ngô Đình Diệm, chứ không phải Ngô Đình Diệm đã ly khai với họ.”
Bảng Tuyên Cáo Caravelle gồm 18 người ký. Nhiều người trong nhóm này từng tham gia chính phủ ông Diệm khi ông mới về chấp chánh. Họ tự nguyện rút tên ra (hoặc bị buộc phải từ chức) sau những lần cải tổ nội các mà không có chứng cớ là họ sợ đụng độ với Pháp hay e ngại Bình Xuyên.
Trang 277, Để nói chuyện dân chủ, ông Phu nêu lên bằng chứng là đất Mỹ cũng chẳng có dân chủ với câu chuyện là:
“Tôi có vài người quen hành nghề bác sĩ tại vùng còn dân da đỏ cho biết là được chỉ thị lúc trị bệnh cho người da đỏ phải cho tiêm thuốc không sinh đẻ để dân tộc nầy sẽ không còn người thừa kế, vì chỉ có tử mà không có sinh. Thật là tối ư dã man, độc ác có khác gì độc tài đảng trị của Nga và Trung Cộng?”
Sự độc ác, dã man của Việt Cộng cũng chẳng kém gì Nga và Trung Cộng. Những vụ chặt người bừa bãi bằng rựa thành khúc, phơi bày trước dân chúng để uy hiếp tinh thần đồng bào ở thôn quê biểu lộ sự man rợ khủng khiếp không bút nào tả xiết. Người viết bài này có cảm giác là “tác giả” cố tình tránh né chữ Việt Cộng vì trong suốt tác phẩm chữ Cộng Sản chung chung được dùng thay cho chữ Việt Cộng. Cộng Sản là lý thuyết, người, phe nhóm, quốc gia theo lý thuyết ấy mà Việt Cộng, Tàu Cộng hay Nga Cộng mới xác định rõ rang là thành phần nào.
Điều ông Phu nêu trên, cách đây hơn 100 năm thì còn có thể lừa gạt được những kẻ ngờ nghệch nhưng không phải hiện thời. Ai là người quen ông Phu vậy để mọi người xem thử là người quen của ông Phu thuộc loại nói láo hay nói thật? Chỉ thị của ai, tại đâu và vào khi nào? Thuốc không sinh đẻ là thuốc gì vì nếu thuốc ảnh hưởng đến việc không sinh đẻ thì thuốc ấy cũng có thể giết dần con người? Nếu có những việc này xảy ra trong thế giới hôm nay, chúng ta nên thông tin cho người da đỏ để chấm dứt việc làm phi nhân này.
Ông Phu nên biết rằng ở Mỹ, y sĩ không chữa bệnh theo chỉ thị như những ông Chánh Án, Biện Lý, Thẩm Phán thi hành luật pháp của ông Diệm mà có toàn quyền trong việc tham khảo và chữa trị bệnh nhân theo luật pháp ấn định. Xã hội Mỹ là nơi thiên hạ đưa nhau ra tòa kiện tụng dễ dàng, nên nếu bác sĩ trị bệnh ẩu tả, người bệnh hay thân nhân của họ có thể kiện bác sĩ hay bệnh viện ra tòa. Việc kiện cáo có thể dẫn đến việc bác sĩ phải bồi thường hay tù tội nặng nề khi liên quan đến sanh mạng. Việc này không phải là những việc nói chơi. Ông Phu là “luật sư” nên biết tội “phao tin thất thiệt để phỉ báng chính quyền Mỹ” sẽ xảy ra điều gi nếu không có bằng chứng và nhân chứng.
Về vấn đề chính phủ ông Diệm có dung nạp đảng phái và đàn áp đối lập hay không, người đọc có thể xem lại những sự kiện xảy ra trước 1-11-1963. Một vài sự kiện tiêu biểu sau đây có thể chứng minh là ông Diệm đã xem thường trí thức, loại trừ đối lập và đàn áp đảng phái:
• Đầu năm 1955, Ngô Đình Cẩn với sự đồng ý của chính phủ ông Diệm đã bao vây, tàn sát nhóm Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng ở các tỉnh miền Trung.
• Ông Diệm tìm cách loại bỏ các ông Phan Quang Đán, Nguyễn Trân dù họ đắc cử dân biểu bằng cách đổ cho họ tội “gian lận”.
• Ngày 15-1-1956 ông Diệm giải tán Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng, loại trừ những người đã củng cố quyền hành cho ông như các ông Nguyễn Bảo Toàn (Hòa Hảo), Hồ Hán Sơn (Cao Đài) … rồi sau này những người này đều bị đám mật vụ của ông Nhu thủ tiêu.
• Ngày 19-2-1956, ông Diệm cho quân đội Quốc Gia bao vây Tòa Thánh Tây Ninh, Hộ Pháp Cao Đài Phạm Công Tắc phải trốn tránh sang Cao Miên vì sợ chính quyền ông Diệm bắt và kết tội “phá rối trị an”.
• Ngày 15-03-1958, ông Nghiêm Xuân Thiện viết bài “Gởi ông Dân Biểu” trong đó so sánh việc bầu cử thời Pháp thuộc “còn khá hơn là những cuộc bầu cử của quý vị vì không có ai được dùng xe cam nhông chở lính vào Sài Gòn để giúp “việc bỏ phiếu”. Hậu quả là ông Nghiêm Xuân Thiện bị nhốt vào tù và báo Thời Luận bị đóng cửa.
• Các lãnh tụ của các đảng phái quốc gia như Vũ Hồng Khanh (VNQĐD), Hà Thúc Ký (Đại Việt) bị chính quyền ông Diệm bắt giam nhiều năm không xét xử đến khi chế độ ông Diệm sụp đổ mới được chế độ mới thả ra.
• Ngày 26-04-1960, nhóm Caravelle ra Tuyên Cáo kêu gọi chính phủ hãy mở rông các quyền tự do, tránh bắt bớ và giam giữ thành phần đối lập nhưng ông Diệm đã không để ý. Nhân vụ binh biến 11-11-1960, ông Diệm cho bắt một số người đã ký tên vào bảng tuyên cáo như các ông: Trần Văn Văn, Phan Huy Quát, Phan Khắc Sửu… cùng những thành viên của các đảng phái quốc gia vì tình nghi tham gia đảo chánh.
• Đảng Đại Việt Quốc Xã của ông Nguyễn Xuân Tiếu ngưng hoạt động vì chính quyền ông Diệm theo dõi, phá rối và bắt ông Tiếu vào tù khoảng năm 1962. Ông Nguyễn Xuân Tiếu từng giúp đỡ tiền bạc, vật chất cho ông Diệm khi ông Diệm bị Việt Cộng bắt giam ở rừng núi Thái Nguyên, Bắc Việt. Chính ông Diệm đã từng mỉa mai những đảng viên Đại Việt Quốc Xã là “chuyên viên thất nghiệp” (33).
Đặt vấn đề: Ông Ngô Đình Diệm có dung nạp đối lập và đảng phái hay không? Nếu không, vì lý do gì ông Diệm không chấp nhận các đảng phái đối lập?
Tiết IV Chính quyền Ngô Đình Diệm có phải đã bắt tay với Cộng Sản Bắc Việt?
Trang 279-286, ông Phu biện hộ là ông Diệm không bắt tay với Cộng Sản và “lý do này do chính người Mỹ tung ra đầu tiên” mà đám tướng lãnh thường viện dẫn.
Người viết bài này đồng ý là ông Diệm không bắt tay với Cộng Sản nhưng không phải do cách biện luận hay chứng cớ mà ông Phu nêu ra mà vì những lý do sau đây:
• Ông Diệm là người Kitô giáo và có hận thù sâu đậm với Việt Cộng vì họ đã thanh toán thân nhân ông (ông Ngô Đình Khôi và ông Ngô Đình Huân, con ông Khôi).
• Ông Diệm đặt tình nhà hơn nợ nước qua việc dù ông có thấy sự sai trái của người thân trong gia đình ông như ông Thục, ông Cẩn, ông bà Nhu hay tay chân thân tín, ông vẫn bao che.
• Ông Diệm là người mang nặng trong đầu cách trị dân của quan lại thời phong kiến, kiểu “dân chi phụ mẫu” thì việc bắt tay với Việt Cộng không thể thực hiện được.
Nếu ông Diệm, ông Nhu có tìm cách nói chuyện với Cộng Sản miền Bắc cũng chỉ là để dò la tin tức với mục đích đối phó, bắt bí chính quyền Mỹ sau khi ông Diệm nhận ra là họ không còn ủng hộ ông nữa.
Đặt vấn đề: Tại sao ông Diệm, ông Nhu cho người thăm dò tin tức Việt Cộng?
Về Ông Võ Văn Hải
Trang 283-285: ông Phu trình bày là ông Diệm đã dự trữ một số tiền kếch sù qua những khoản tiền viện trợ có thể chi dụng cho cả miền Nam Việt Nam trong nhiều năm, phòng hờ nếu bị Mỹ cúp viện trợ. Điều này không ai biết mà theo ông Phu thì chỉ có Ông Diệm, ông Nhu và ông Võ Văn Hải biết. Tất cả những người trong cuộc đều đã về bên kia thế giới, muốn tìm nhân chứng phải cầu hồn người chết. Điều này hơi vô lý vì ông Nhu biết thì bà Nhu phải biết. Dù không có tính “ăn không được thì phá”, bà Nhu cũng không thể để yên cho ông Võ Văn Hải sau 1-11-1963 nhưng từ sau vụ đảo chánh 1963 đến 30-04-1975, không ai đề cập đến số tiền này.
Điều vô lý hơn nữa là nếu có khoản tiền kếch sù như vậy, chắc chắn ông Võ Văn Hải không dại gì mà chỉ để trong những ngân hàng Việt Nam mà phải có phần lớn ở những ngân hàng ngoại quốc. Ông Võ Văn Hải cũng thừa biết Việt Cộng sẽ làm gì với những kẻ giàu có và đã từng cộng tác trong chính phủ ông Diệm. Nếu có số tiền kếch sù như vậy, ông Võ Văn Hải phải có thừa phương tiện để rời Việt Nam trước khi Việt Cộng chiếm Sài Gòn.
Điều ông Phu viết nghe không thuận lý, còn khó tin hơn là việc “ông Thiệu lấy 16 tấn vàng” của những kẻ thích phao tin thất thiệt trong khi đám đầu lãnh Việt Cộng chia nhau ăn mà còn cười là “Tụi Ngụy cứ phá nhau đi!” Ông Phu đưa ra kết luận là “Võ Văn Hải đã sang đoạt ngân khỏan Quốc Gia mà không ai biết rõ”. Điều này sự vu khống đối người đã mất nếu không có chứng minh cụ thể. Ông Phu là người tinh thâm Hán học chắc còn nhớ câu: “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu” (ngậm máu phun người dơ miệng mình trước).
Đặt vấn đề: Tại sao ông Lê Nguyên Phu chỉa mũi dùi vào ông Võ Văn Hải? Có phải vì ông Võ Văn Hải đã có những báo cáo không thuận lợi cho chính quyền ông Diệm với người Mỹ và đã có hành động ủng hộ Phật Giáo năm 1963?
Tiết V – Lý do thứ năm và cũng là lý do sau cùng: Ký thị Phật Giáo
Nhiều sử liệu khả tín khác đều cho là ông Ngô Đình Diệm không kỳ thị Phật Giáo nhưng đã dung dưỡng cho ông Ngô Đình Thục và bà Nhu lợi dụng quyền thế quá quắt để đặt niềm tin Kitô giáo vào đầu óc người Việt.
Về Ông Thích Hộ Giác
Trang 290, để bài xích Phật Giáo qua ông Thích Hộ Giác, ông Phu viết theo báo cáo của Cảnh Sát rồi bịa ra: “Chiều chú nhật rãnh [rảnh] rang Phật sự, Thích ta áo quần là lượt, lái xe mới tinh, chở vợ con đi hứng mát trên xa lộ. Người đẹp kề bên, con thơ ở cạnh, Thích cao hứng lái xe nhanh, lại vui chuyện với vợ con, sơ ý lạc tay lái đụng phải nạn nhân đi bộ trên lề đường.”
Nếu là báo cáo của cảnh sát thì chắc chắn là cảnh sát không ghi áo quần lượt là, không ghi là xe mới tinh hay xe cũ mèm và chắc chắn là không ghi là hứng mát trên xa lộ. Trong những biên bản của cảnh sát giao thông, cảnh sát không có thì giờ hay lý do để ghi là người bên cạnh tài xế đẹp hay xấu và tài xế cao hứng lái xe nhanh mà chỉ ghi ước lượng tốc độ nếu cần thiết. Lái xe trên xa lộ thì tốc độ phải nhanh cần gì phải cao hứng? Lạc tay lái trên xa lộ thì tính mạng người lái xe chắc dễ đi đời lắm? Và xa lộ nào mà có người đi bộ trên lề đường? Có chết chóc hay bị tổn thương gì mà đòi bồi thường? Luận điệu này là những sự bịp bợm, thói ngụy tạo chứng cớ của những tên “luật sư” không cần biết phải quấy mà chỉ biết kiện tụng để có ăn.
Điều này có xảy ra thực không hay là một sự gian trá? Với giọng điệu xuyên tạc đầy láo khoét này chứng tỏ một điều rõ rang: Đầu óc gian manh nhưng không đủ khôn ngoan để tạo ra một sự việc có thể gọi là khả tín.
Đặt vấn đề: Tại sao Việt Cộng lợi dụng được phong trào Phật giáo trong việc tranh đấu lật đổ chính quyền ông Diệm? Hành động của Ông Thục và ông bà Nhu có làm cho dân chúng chán ghét không?
Diễn biến vụ Phật Giáo
Trang 286-313 Để trình bày diễn tiến vụ “tranh đấu bạo động” của Phật Giáo, ông Phu khẳng định hết điều này đến điều khác, sự kiện lộn xộn gian trá với cách lý luận cù nhầy rồi đưa ra kết luận là bàn tay người Mỹ qua Đại Úy James Scott đã gây ra huyết án 8-5-1963.
Theo những liệu khả tín thì sự việc có thể tóm tắt như sau.
Ông Ngô Đình Thục thấy nhiều cờ Phật Giáo treo vào dịp lễ Phật đản, cảm thấy khó chịu hay ganh ghét nên đã gọi ông Hồ Đắc Khương, trách là tại sao không thi hành lệnh cấm treo cờ tôn giáo và gọi vào Phủ Tổng Thống phàn nàn với ông Diệm. Có lẽ nể lời ông Thục, ông Diệm cho cái lệnh miệng là “cứ như cũ mà làm”. Do cái lệnh miệng này, ông Quách Tòng Đức theo lệnh cũ cấm treo cờ tôn giáo. Đám thừa hành địa phương sốt sắng ra lệnh dẹp. Khối Phật Giáo cho rằng bị chính phủ ép. Việc đến tai ông Ngô Đình Cẩn, ông ra lệnh cho ông Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng cho xe phát thanh khắp nơi nói rằng sẽ không có việc hạ cờ Phật Giáo để trấn an dân chúng nhưng rồi một số cờ vẫn bị đám thừa hành hạ xuống. Việt Cộng hoặc người Mỹ (?) lợi dụng cảnh rối ren, ồn ào tại Đài Phát Thanh Huế ném bom gây tử thương cho 8 em. Thế là sinh chuyện lớn.
Qua sự dàn xếp của các ông Trần Kim Tuyến, Nguyễn Đình Thuần, Bùi Văn Lương, Trương Khuê Quang…việc dàn xếp sắp xong để ông Diệm ký vào văn bản đòi hỏi của khối Phật Giáo. Bà Nhu nói xốc vô với ý là những tăng sĩ này là cái thá gì mà Tổng Thống ký ngang hàng với họ nên ông Diệm lại phê vào văn bản với giọng kẻ cả là “Những điều này là những điều chính phủ vẫn thi hành với Phật Giáo”. Những người đứng ra dàn xếp lại phải đến thuyết phục, năn nỉ ông Thích Thiện Minh. Nội vụ gần như được giải quyết xong.
Sáng hôm sau, bảng Thông Cáo chung chưa được đưa lên đài phát thanh đọc thì bà Nhu họp Phụ Nữ Liên Đới, ra một tuyên ngôn với giọng điệu mạ lỵ Phật Giáo và đưa qua Việt Tấn Xã bắt phải đăng ngay, đồng thời bà Nhu gọi ông Tổng Giám Đốc Thông Tin Phan Văn Tạo la lối. Ông Diệm lại lừng khừng vì thấy sự việc ngoài ý muốn đã xảy ra nên cho lệnh Thông Tin ngưng lại việc đọc bàng Thông Cáo chung. Bà Nhu còn xốc thêm vào ông Diệm làm cho ông trở thành kẻ nuốt lời.
Sau đó, ông Nhu cho lệnh tấn công chùa Xá Lợi, Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát thi nhau “vét chùa”, lùng bắt sư sãi (34). Từ đó, Phong Trào tranh đấu Phật Giáo ngày càng bùng lên mà nhiều nơi có thể có Việt Cộng xúi dục. Nhiều cuộc biểu tình, tự thiêu vì đạo pháp xảy ra khắp nơi phản đối chế độ Ngô Đình Diệm, gây công phẫn khắp thế giới.
Theo tài liệu tổng hợp của ông Nguyễn Văn Lục về biến cố Phật Giáo năm 1963 tại Huế thì cho đến nay, thủ phạm vụ ném bom ngày 8-5-1963 vẫn còn nằm trong bóng tối vì không ai chịu nhận trách nhiệm huyết án này (35). Những tài liệu mà ông Lê Nguyên Phu đưa ra để chỉ danh thủ phạm vẫn là những dấu hỏi, có nhiều nghi vấn chưa được làm sáng tỏ. Chúng ta vẫn chưa thể xác quyết là chính Đại Úy James Scott, nhân viên của CIA nhúng tay vào hay do Việt Cộng khơi mào xách động vì chưa đủ tài liệu khả tín. Vụ Phật Giáo 8-5-1963 chỉ là “giọt nước cuối cùng làm tràn ly” mà hậu quả là người Mỹ mua chuộc và xúi dại đám tướng lãnh làm cuộc đảo chánh 1-11-1963.
Đặt vấn đề: Qua diễn biến Phật Giáo ở Huế năm 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm có thái độ và phản ứng thế nào? Những phản ứng của chính phủ ông Diệm có xoa dịu Phật Giáo hay là gây thêm phẫn uất, làm cho Việt Cộng lợi dụng để gây rối miền Nam?
Chương IV Từ vụ đảo chính ngày 1-11-1963 đến cái chết bất khuất can trường của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu
Trang 360, ông Phu cho là ông Diệm không đồng ý với kế hoạch của ông Nguyễn Hữu Duệ
“đem toàn lực của Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, ba đại đội thiện chiến có thiết giáp yễm [yểm] trợ tấn công vào Bộ Tổng Tham Mưu, bắt trọn ổ tướng tá phản loạn. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chấp thuận kế sách này vì tấm lòng Nhân của Tổng Thống không muốn có cảnh huynh đệ tương tàn, giết hại lẫn nhau, làm tiêu hao tiềm lực chống Cộng về sau và làm sứt mẻ tinh thần đoàn kết của quân đội.”
Kế hoạch tấn công bộ Tổng Tam Mưu có thể thành công (?) nhưng ông Diệm không cho thực hiện. Nói rằng ông Diệm không cho tấn công Bộ Tổng Tham Mưu vì tấm lòng nhân, vì nghĩ đến việc huynh đệ tương tàn chỉ là sự ngụy biệm.
Ông Diệm từng cho Quân Đội Quốc Gia tấn công quân đội Hòa Hảo, Cao Đài dù nhiều người trong quân đội các giáo phái này đã theo ông, gây nhiều đau thương cho giáo chúng. Khi để mặc cho ông Cẩn tàn sát các lực lượng các đảng phái như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông Diệm có nghĩ đến việc làm tiêu hao lực lượng chống Cộng không? Trong vụ binh biến 11-11-1960, ông Diệm hòa hoãn với phe đảo chánh nhưng khi có viện binh đến thì cho lệnh tấn công tới tấp, huynh đệ tương tàn làm mất tình đoàn kết quân đội cũng đã xảy ra. Cảnh giết hại lẫn nhau bất kể đến sự thiệt hại nhân mạng dân chúng hay lính tráng với con số 214 quân nhân, 54 thường dân bị thương và 23 quân nhân, 24 thường dân bị thiệt mạng trong vụ binh biến 11-11-1960 (36) vẫn còn sờ sờ đấy.
Ông Diệm tới bước đường cùng, không lựa chọn việc tấn công vào Bộ Tổng Tam Mưu vì những lý do như:
• Không biết rõ thực lực phe đảo chánh, ông Diệm nghĩ rằng kế hoạch của ông Nguyễn Hữu Duệ chưa chắc đem lại sự thành công.
• Với đầu óc quan liêu, có thể ông Diệm nghĩ rằng ông sẽ điều đình, thuyết phục nhóm tướng lãnh đảo chánh, nếu không thuyết phục được thì tạm thời chấp nhận yêu cầu của họ rồi sau này ông sẽ tìm cách trừ khử.
• Phó mặc số phận như ý chúa và chúa sẽ che chở cho anh em ông.
Đặt vấn đề: Dù có dẹp được vụ đảo chánh ngày 1-11-1963, với sự thất bại của ông Diệm cả trong và ngoài nước trong khi tình hình đất nước đầy dẫy những cuộc tấn công của Việt Cộng, các cuộc đảo chánh khác sẽ xảy ra không nếu ông Diệm không thay đổi chính sách?
Trang 372, Về cái chết của ông Diệm và ông Nhu “lấy công tâm mà xét, chính là một cái chết quật cường đối với Thực Dân Mỹ, một cái chết bi tráng đối với quốc dân trong nước. Tráng vì tay không, không một tấc sắt để giữ mình mà vẫn sẵn sàng đi tìm phản loạn, vì danh dự của người quốc gia, vì chính nghĩa của bản thân, không thèm nhờ vả vào sự che chở của ngoại bang.”
Khi ông Diệm quyết định gặp nhóm tướng lãnh đảo chánh, ông không biết là họ sẽ làm gì ông và ông Nhu. Vì ông không còn được người Mỹ ủng hộ và đối với quốc dân trong nước, đặc biệt là thành phần trí thức, cũng lánh xa ông, dù các tướng lãnh không giết ông Diệm, cơ hội cầm quyền trở lại cũng quá mỏng manh. Tuy nhiên, có thể nói là nhóm đảo chánh từng thấy chế độ ông Diệm đã hành xử với các đảng phái và trí thức đối lập trong nước thế nào nên họ giết ông để trừ hậu họa. Điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Cái chết của ông Diệm, ông Nhu và ông Cẩn sau này cũng là cái chết của những người cầm quyền trong lịch sử Việt Nam đầy dẫy những oán thù. Can trường, bất khuất hay không, người đọc lịch sử cần suy gẫm hai chữ “nhân quả” và tự tìm câu trả lời.
Đặt vấn đề: Tại sao các tướng lãnh đảo chánh phải giết ông Diệm và ông Nhu? Người Mỹ có cố tình để nhóm đảo chánh giết ông Diệm không? Là người quốc gia với ý hướng tranh đấu cho dân tộc, chúng ta có đặt niềm tin vào một thế lực ngoại bang nào đó mà không đề phòng là có lúc họ sẽ đâm sau lưng chúng ta không?
Phần III Thời Kỳ Sau Ngô Đình Diệm Từ 11-11-1963 đến 30-04-1975
Những sự kiện lịch sử được trình bày không có gì mới lạ so với những sử liệu đã có ngoại trừ những sự xấc láo, ngụy biện và sự kiện sai lạc nên tôi không muốn đặt vấn đề nữa.
Đôi điều nhận xét về tác phẩm và tác giả
Viết khảo luận về lịch sử là để ghi lại những sự kiện lịch sử đã xảy ra, tìm hiểu nguyên nhân và rút ra bài học. Dù khó tránh khỏi định kiến khi phê phán, trong việc biên khảo lịch sử ngoài việc nêu sự kiện chính xác còn phải có chút ít công tâm khi phán đoán chớ không phải bịa đặt lịch sử để thỏa mãn ý kiến cá nhân và biện hộ quành xiên cho phe đảng. Những tác phẩm biên khảo có giá trị đòi hỏi cái nhìn sáng suốt, phóng khoáng và ít nhiều tính vô tư khi nhận định, đánh giá một cá nhân hay sự kiện.
Quyển sách Trong Bóng Tối Lịch Sử có quá nhiều sự kiện giả trá, chứng cớ bịa đặt nhằm để phỉ báng, lời lẽ xấc láo không kể người trên, kẻ dưới nên người viết bài này dù không muốn chê trách nhưng bất đắc dĩ xin đưa ra đôi lời nhận xét thẳng thắn.
Nội dung: Qua những trang sách, ngay cả nhân danh, địa danh nhiều người biết như Bùi Kiến Tín thành Bùi Kiện Tín, Rừng Sát viết thành rừng Sặt chứng tỏ tác giả có kiến thức lịch sử hạn hẹp nhưng không chịu kiểm chứng tài liệu. Tác giả dẫn chứng sách vở bao gồm đông, tây, kim cổ để phô trương, so sánh nhưng sự so sánh quá gượng ép vì không hiểu sự việc đến nơi đến chốn hoặc cố tình gán ghép. Nhiều sự kiện sai lạc hay cố tình “xào nấu” rồi dùng cách biện minh ấu trĩ để đưa ra kết luận ẩu tả phù hợp cho sự thóa mạ. Do lòng thù hận và tâm địa hẹp hòi, tác giả Lê Nguyên Phu đã dựa vào bóng tối lịch sử, cố tình giả mạo chứng cớ không hợp lý chứng tỏ sự gian manh nhưng không đủ khôn ngoan để tạo ra câu chuyện khả tín.
Hình thức: Sách có quá nhiều lỗi chánh tả sơ đẳng không phải là lỗi đánh máy mà là do khả năng tiếng Việt quá kém không phân biệt được dấu hỏi, dấu ngã như: vỏ, võ; rể, rễ; nể, nễ; nổ, nỗi; rảnh rang, rãnh rang; trải; trãi; lẩn, lẫn; ngu xuẩn, ngu xuẫn… mà những học sinh chưa xong lớp 9 cũng có thể tránh được. Việc sử dụng một số từ ngữ lạ tai, được dùng sau năm 1975, dù có thể không sai nhưng đối với những người từng ngồi ghế nhà trường trước năm 1975 cảm thấy khó nghe như: đi tập thể (đi chung, trang 41), bồi dưỡng (nghỉ ngơi hay ăn uống? trang 289), đồng chí (trang 191, trang 270)… Điều tệ hại rõ ràng nhất là sự học đòi theo đám văn nô miền bắc dùng chữ Người viết hoa khi viết về “Cha già dâm tặc” Hồ Chí Minh. Ông Phu cũng viết hoa cho ông Diệm làm người đọc có cảm tưởng như quyển sách này do “cán bộ viết văn” trong đám “Trí Thức Xã Hội Chủ Nghĩa” chế biến. Chỉ trừ trong Kinh Thánh, chữ Người viết hoa dùng để chỉ Thiên Chúa, còn đụng đâu viết hoa đó chỉ để làm tăng sự dốt nát, nịnh bợ hèn hạ mà cá nhân tôi nghĩ là viết hoa chữ Người là để phân biệt là thú vật đội lớp người vì nếu là người thật thì cần gì phải viết hoa.
Sự so sánh tầm phào vì hiểu sai chữ nghĩa làm người đọc cảm thấy đáng cười. Ví dụ như ông Phu đem hình ảnh của các cô gái thích đi chơi rông. ban đêm lái xe riêng đưa bạn bè đi chơi từ Sài Gòn ra Vũng Tàu gây ra tai nạn trong “khung cảnh yên bình thời Ngô Đình Diệm” để so sánh với hình ảnh “thân gái dặm trường” của nàng Kiều mang trong lòng nỗi thê lương, chiếc thân phiêu bạt không biết ngày về thì Thi hào Nguyễn Du dù có điềm đạm mấy đi nữa cũng phải phê là “dốt quá!”. Tương tự, “tác giả” dùng chữ “bảng phong thần” để chỉ việc ông Diệm xóa tên ông Lê Ngọc Chấn ra khỏi nội các. Ông Phu so sánh ông Diệm như là tiên và những người cộng tác với ông Diệm như thần nhưng “bảng phong thần” là bảng ghi tên những người đã mất chớ không phải để cho những người còn sống.
Vì đụng đâu chửi đó, chuyện nọ, xọ chuyện kia nên văn bất thành cú, ý tứ lủng củng, bố cục luộm thuộm, tạp nhạp làm người đọc khó theo dõi thích hợp với lối “già hàm” chửi bậy chứ không phải là cách luận tội của những kẻ có học.
Lê Nguyên Phu là ai?
Qua những điều ông khoe khoang trong sách thì ông sanh trưởng trong gia đình quan lại thời Pháp thuộc và tốt nghiệp luật khoa. Ông luật sư từng làm Giám Đốc Hiến Binh, tay chân của ông Diệm nhưng khi mở đầu sách ông lại che dấu là ông “không quyền cao, chức trọng”. Là một Ủy Viên Chính Phủ, gặp ông Diệm thường xuyên, ngay cả những Bộ Trưởng đều phải úy kỵ ông thì hỏi quyền nào mới cao chức nào mới trọng? Đây là thói “đạo đức giả” mà ông hay dùng để phê phán người khác.
Trong những năm phò tá “chí sĩ” Ngô Đình Diệm, có lẽ công ông khá to tác trong việc củng cố quyền hành cho anh em ông Diệm. Ông tự xưng là liêm chính nhưng những vụ án hay những việc làm bậy bạ của nhóm tướng lãnh không rõ là ông có giải quyết thế nào? Sau 1963, khi không còn nắm quyền nữa, ông “luật sư” đi biện hộ cho tụi lưu manh du đãng thời ông Nguyễn Cao Kỳ mà không ai muốn dính vào. Nhờ sự quen biết với các luật sư và ông toà Chánh Thẩm Đại Tá Hoàng Văn Tỷ, ông thành công và tự hào với việc ông làm là “riêng tôi có niềm an ủi vô biên, vì nhờ bản án hy hữu này, các tòng phạm đã lãnh án tử hình tuần trước không bị đem ra pháp trường thọ hình” (trang 397) Trong một đất nước mà những người lính đêm ngày đối diện với tử thần trước họng súng Việt Cộng, đám du đãng có tội rõ ráng này có nên đem bắn bỏ không? Và cái loại luật sư biện hộ cho du đãng này có khác gì loại bọ hung góp phần phá nát xã hội miền Nam trong bối cảnh chiến tranh.
Ông Phu là kẻ ghen tài, tâm địa hẹp hòi để lộ qua việc ông dài dòng bới móc việc học hành của nhiều người như Trương Tử Anh, Huỳnh Văn Lang, Phan Quang Đán …nhằm để châm biếm, khi dễ là những người này ít học, thiếu khả năng. Ngay cả việc ông Trịnh Xuân Ngạn đậu bằng tiến sĩ kinh tế với luận án được sửa chữa ông cũng mang ra, dù điều này không có gì đáng phải thắc mắc vì nếu sửa chữa đúng thì đâu có gì sai trái. Ông Phu chế nhạo ông Phùng Bá Tú là “không biết có mang súng vào trường thi? ” (trang 396).
Là con nhà Nho nhưng ông coi những người theo đòi “cửa Khổng, sân Trình” để học ít “chữ nghĩa thánh hiền” là thứ cỏ rác mà chỉ có những người nổi tiếng như “thất thập nhị hiền” (72 đồ đệ của Khổng Tử) mới trọng (trang 397) dù rằng đa số những ông Tàu này cũng “chỉ có tiếng mà không có miếng”. Với lối suy nghĩ phản Nho học này, ông Phu không hiểu dược “danh lợi chỉ là phù vân” trong tinh thần Khổng Mạnh mà chính ông đã dùng để khinh bỉ người khác là “Nho học bất đạt, Tây học nan thông ”. Cái thói hám danh này nằm sâu trong đầu ông Phu nên ông quen theo thói “mục hạ vô nhân” chửi bới, khinh khi, chê bai thích chí. Kẻ ít học, ông cho là“dốt nát”, “ngu xuẫn [xuẩn] ” người có bằng cấp thì ông phê là “không trong sạch”, “gian xảo”, “quỷ quyệt”, “khéo lường gạt”, …Người ông không ưa là “ruồi nhặng”, kẻ ông thù ghét là “hung thần ác sát”….
Là kẻ không những thích khoe khoang hợm hĩnh, ông còn ưa được nịnh bợ qua việc ông “nhà báo lão thành Trần Tấn Quốc trên tờ báo Tiếng Dội” khen là “Từ hơn ba mươi năm nay (nghĩa là từ thời Pháp thuộc cho tới bây giờ) chưa có một lời buộc tội nhân hậu và khoan hòa, như lời buộc tội của tôi, khiến nghười nghe phải cảm xúc kính nễ [nể] ” (trang 195). Báo chí thời ông Diệm là cái loa của chế độ mà! Vụ án liên can đến binh biến 11-11-1960 được xử vào ngày 8-7-1963, Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt tuyên 13 án tù khổ sai dành cho quân nhân, ngày 11-7-1963, 20 án cấm cố cho các nhân sĩ và ngày 12-7-1963 tử hình khiếm diện 9 người (37) mà ông Phu cho là: “Ngoài những bản án tử hình khuyết tịch… những cái án khổ sai, cấm cố hoặc ở tù thường, nhưng đều rất nhẹ” (trang 195). Án khổ sai, cấm cố mà nhẹ à? Thật là may mắn cho những người oan ức không bị loại “chuyên môn làm Thẩm Phán ” nhưng không có công tâm này xét xử.
Thay lời kết
Trong môi trường sách vở Việt ngữ bát nháo hiện nay, sách vở lịch sử nghiêm túc thật khó đoán. Ở trong nước, loại “sử phi sử” không còn mức độ khả tín nào vì chứa đầy sự láo koét, nịnh bợ và gian dối nhằm biện hộ cho việc làm tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế và che dấu những hành động phi nhân, bán nước, phản dân tộc để tiếp tục đè đầu cưỡi cổ dân chúng. Ở hải ngoại, nhiều người viết khảo luận, hồi ký lịch sử nhằm khoe khoang, chạy tội hay bênh vực lỗi lầm trong quá khứ cho cá nhân hoặc phe phái cũng đã cố tình dấu giếm và giả mạo lịch sử. Vì vậy, đối với những người không nghiên cứu lịch sử, lâu lâu mới đụng đến một quyển sách như cá nhân tôi, tài liệu lịch sử khả tín trở nên “vàng thau lẫn lộn” thật không biết đâu mà gạn lọc.
Qua việc đối chiếu với một ít tài liệu, nhận xét cách biện minh và những sự kiện được trình bày, quyển sách này làm lộ rõ những khuyết điểm và lỗi lầm quá lớn của chính phủ ông Diệm hơn là bênh vực cho chính phủ này. Để bênh vực cho chính phủ ông Diệm, người viết lịch sử cần đưa ra những sự kiện chính xác, chấp nhận lỗi lầm và không bịa đặt và biết đẵt sự kiện vào bối cảnh chiến tranh để biện minh cho hành động của chính phủ ông Diệm với cái nhìn sáng suốt, sắc sảo chớ không phải là lối chửi rủa.
Trong Bóng Tối Lịch Sử của ông Mai Thạch Lê Nguyên Phu là kết tinh của sự dồn nén, uất ức qua bao năm bị thất sủng được phát tiết ra thành cái “quái thai khảo luận” do tính khí ti tiện, đầu óc hẹp hòi bệnh hoạn, tự tôn nhưng kiến thức quá nông cạn. Vì khinh thường độc giả nên ông cầm nhầm chữ nghĩa, lộng ngôn và bẻ cong sự thật. Với kiểu xuyên tạc trắng trợn, ông Phu vô tình hay hữu ý tiếp tay với Việt Cộng trong việc phá rối và gây nghi kỵ, mâu thuẫn giữa những người Việt trong mục đích chống phá sự đoàn kết của những người còn nặng lòng với đất nước.
Tương lai, thế hệ trẻ Việt Nam sẽ có em tìm hiểu về lịch sử đất nước thời ông Diệm. Vớ phải cuốn sách này, chúng sẽ chỉ thấy những sự kiện giả trá, biện luận nhảm nhí, lời lẽ bất nhã, ngôn ngữ bẩn thỉu thô tục, kiến thức ráp nối kiểu “đầu gà, đít vịt”, chúng sẽ nghĩ thế nào về khả năng và tư cách của người Việt cầm bút. Chúng có đặt câu hỏi là những “ông lớn” của chính phủ Ngô Đình Diệm có khả năng và tài đức như người viết quyển sách Trong Bóng Tối Lịch Sử thì chúng có ngạc nhiên là tại sao chế độ ấy chẳng sụp đổ sớm hơn trước áp lực của khối Cộng Sản không?
Tóm lại, quyển sách này chỉ là một thứ ngụy thư rác rưởi, một tuyển tập từ ngữ dùng để rủa sả và cãi vặt chứ không phải là sách. Dù không thích loại thơ thất ngôn bát cú lắm nhưng nhớ đến bài “Ông Vỗ Ngực” của một tác giả vô danh nào đó (38), người viết bài này xin hoạ lại như là lời tổng luận về tác giả và tác phẩm.
Cháu “Ông Vỗ Ngực”
Thất sủng bao năm chợt ngứa nghề
Bày trò khảo luận để khen chê
Khuông phò chí sĩ, công to tát?
Biện hộ lưu manh, tội nặng nề!
Lịch sử, thối tha như rác rưởi ;
Văn chương, khét lẹt tựa cơm khê.
Hỏi ông chứng cớ từ đâu vậy?
Chức Thẩm ông trưng để chực lòe!
Nhân đây, người viết xin ghi đôi dòng nhớ về con dân đất Việt đã hiến thân vì tổ quốc. Trong những năm bị giặc Tàu đô hộ, những người Việt đứng lên giành độc lập từng bị những kẻ dựa thế giặc Minh như Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung, Nguyễn Huân… tàn sát và gọi là “loạn tặc”. Nhiều người Việt từng đứng lên chống thực dân Pháp bị những kẻ như Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân… thủ tiêu còn bị kết tội “phỉ đồ”. Lớp thanh niên thế hệ 1945 đã xếp bút nghiên lên đường theo kháng chiến, sau khi bị Việt Cộng lợi dụng còn bị kết them tội “Việt Gian”. Những thanh niên hy sinh tuổi thanh xuân, từ bắc vô nam đi “Giải Phóng Miền Nam” vì bị “Đảng và Nhà Nước” lừa phỉnh trong nhiệm vụ làm tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế dám nói lên sự thật đã bị kết them tội “ôm chân đế quốc”. Ngày nay, người dân trong nước dám nói lên việc Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam bán đứng tổ quốc cho kẻ thù truyền kiếp của dân Việt, phải vào tù ra khám với tội danh “chống phá Nhà Nước”. Và sau hết, xin đốt nén hương lòng cho những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh xương máu, chiến đấu cô đơn trong cam go để cho những kẻ ăn trên ngồi trốc được sống yên thân gọi họ là “hèn nhát”, “nô tài của Mỹ”…
Mong anh linh những người đã khuất hãy tha thứ cho những kẻ ngu xuẩn, vô ơn đã bôi nhọ họ.
Houston, Texas 01/2010
© 2010-2015 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
(32) Lê Xuân Khoa, Sđd, trang 417.
(33) Xem bài trả lời của ông Chính Đạo trả lời ông Nguyễn Vĩnh Châu
http://www.chuyenluan.net/2004/200404/0404_20.htm
(34) Vĩnh Phúc, Sđd, trang 331-352.
(35) Nguyễn Văn Lục, Lịch Sử Còn Đó, Tân Văn xuất bản, Hoa Kỳ, 2008, trang 244-293.
(36) Đoàn Thêm, Sđd, trang 283
(37) Đoàn Thêm, Sđd, trang 354.
(38) Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa, Sài Gòn 1959, trang 28.
Ông “Vỗ Ngực”
Học thuật văn chương chửa sạch nghề
Tập tòe lên lớp cũng khen chê
Giáo điều khó nuốt lên thơ bạo
Lý luận không tiêu kéo nặng nề
Tình cảm khó khăn như củi gộc
Phê bình nồng nặc tựa cơm khê
Anh em vặn lại cùng kỳ lý
Vỗ ngực, ông giơ Đảng chực loè!
“Vu1eeba ru1ed3i, nhu1eadn u0111u01b0u1ee3c quyu1ec3n su00e1ch tu1eeb mu1ed9t ngu01b0u1eddi thu00e2n thuu1ed9c hu00e0ng cha chu00fa gu1edfi tu1eb7ng vu00e0 khuyu1ebfn khu00edch u0111u1ecdc u0111u1ec3 tu00ecm hiu1ec3u thu00eam vu1ec1 nhu1eefng biu1ebfn u0111u00f4ng trong lu1ecbch su1eed Viu1ec7t Nam thu1eddi u00f4ng Ngu00f4 u0110u00ecnh Diu1ec7m.” NHnnMu1edbi lu01b0u1edbt qua, em cu1ee9 ngu1ee1 tu00e1c giu1ea3 lu00e0 u00f4ng bu1ea1n hiu1ec1n “Nhu00e0 Quu00ea” tu00ean H Hu1ef1u (ESL teacher). Nhu01b0ng em u0111u1ecdc u0111u01b0u1ee3c u0111u00f4i u0111ou1ea1n, thu00ec em chu1eafc chu1eafn N Hu1eefu cu00f3 mu00e1u mu1ee7 cu1ee7a “su1eed da” lu1ee3n Vu0169 Ngu1ef1 Chiu00eau, chu0103ng? u0110oc bu00e0i cu1ee7a N Hu1eefu thu1eadt phu00ed thu1eddi giu1edd, vu00f4 u00edch! nnu0110u1ecdc u0111u1ec3 hu1ecdc, hu1ecdc u0111u1ec3 biu1ebft, biu1ebft u0111u1ec3 su1ed1ng tu1eed tu1ebf vu1edbi nhau (kinh nghiu1ec7m cu1ee7a mu1ed9t ngu01b0 phu1ee7 u0111u00f3 nha!), u00f4 ku00ea Salem, N Hu1eefu (?)nhehehe