Bốn mươi năm Võ Phiến (I)
Ngô Thế Vinh
Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy. [Võ Phiến nói chuyện với Đặng Tiến 28-10-1998]
Nhà văn lưu đầy
Có thể nói Võ Phiến là một trong số các tác giả được viết và nhắc tới nhiều nhất. Trước khi quen biết nhà văn Võ Phiến, tôi đã rất thân quen với những nhân vật tiểu thuyết của ông như anh Ba Thê đồng thời, anh Bốn thôi, ông Năm tản, ông tú Từ lâm, chị Bốn chìa vôi từ các tác phẩm Giã từ, Lại Thư nhà, Một mình…
Rồi qua người bạn tấm cám Nghiêu Đề, qua toà soạn Bách Khoa, tôi quen ông từ những năm trước 1960 cho tới khi ra hải ngoại về sau này.
Võ Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh
Võ Phiến viết Bắt Trẻ Đồng Xanh, đăng trên Bách Khoa tháng 10 năm 1968, tựa đề từ cuốn sách dịch của Phùng Khánh Phùng Thăng The Catcher in the Rye của nhà văn Mỹ J.D. Salinger, nhưng nội dung bài viết thì lại nói về kế hoạch cộng sản miền Bắc đưa trẻ em từ trong Nam ra Bắc huấn luyện rồi sau đó đưa trở về miền Nam. Cộng sản cũng đã làm như vậy sau khi ký hiệp định Geneve 1954. Võ Phiến viết:
“…trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc… họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh…”
“Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai hoạ xẩy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở.”
(Võ Phiến, Bắt Trẻ Đồng Xanh, Bách Khoa 10/1968)
Bắt Trẻ Đồng Xanh hoàn toàn không phải là tuỳ bút hay truyện ngắn mà là một bài chính luận, một bạch thư tố cáo dã tâm của người cộng sản Việt Nam, chưa bao giờ thực sự muốn có hoà bình, nếu có hoà đàm thì đó chỉ là bước hoãn binh chiến lược, họ vẫn chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh khác. Bài viết như một tiên tri, một báo động đã thực sự gây chấn động dư luận bên trong cũng như ngoài nước, với cái giá Võ Phiến phải trả là bị Việt Cộng lên án, và cả hăm doạ tính mạng tiếp sau cái chết của ký giả Từ Chung tổng thư ký báo Chính Luận, do bị đặc công CSVN ám sát. Theo Lê Tất Điều, đã có lúc Võ Phiến nghĩ tới tạm lánh xuống vùng Hoà Hảo, một khu được coi là miễn nhiễm với mọi xâm nhập của cộng sản. Đó cũng là lý do tại sao, Võ Phiến có thời gian làm giáo sư văn chương trường Đại học Hoà Hảo, Long Xuyên. Trong nghịch cảnh cũng có cái may, nơi đây anh quen một đồng nghiệp trẻ Đỗ Văn Gia, lúc đó cũng đang dạy bộ môn Triết học Đông phương. Sau này ra hải ngoại, chính anh Đỗ Văn Gia trong thời gian làm giảng viên văn học và ngôn ngữ Việt Nam tại Đại học Cornell từ 1982, đã giúp nhà văn Võ Phiến rất nhiều tư liệu ban đầu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền Nam.
Bánh tráng xứ Nẫu trên đất Mỹ
Từ thập niên 1980, lúc đó hai anh chị Võ Phiến đều là công chức quận hạt Los Angeles, ngôi nhà số 5621 Baltimore St. Highland Park là nơi Võ Phiến đã sống quãng thời gian 23 năm. Nhà có vườn rộng đủ loại cây trái chanh cam bưởi, nhiều nhất là những cây hồng giòn sai trái nặng trĩu cành, có cả bức tượng bán thân của Võ Phiến, tác phẩm điêu khắc của Ưu Đàm, con trai của hoạ sĩ Rừng. Trong nhà, ngoài những kệ sách, không có tượng Phật hay tượng Chúa, chỉ có đơn giản một bàn thờ nhỏ cúng gia tiên. Cũng nơi đây, Võ Phiến đã viết một số những tác phẩm tại hải ngoại: bộ Văn Học Miền Nam, Thư Gửi Bạn, Nguyên Vẹn, Truyện Thật Ngắn, Đối Thoại…
Những lần tới thăm anh Võ Phiến, thường là thứ Bảy cuối tuần vì khách cũng như chủ nhà còn ở tuổi lao động đi làm. Khách thăm thường đi theo nhóm. Khi thì với Nguyễn Mộng Giác và anh Từ Mẫn Võ Thắng Tiết, khi thì với Tạ Chí Đại Trường, Thạch Hãn Lê Thọ Giáo; khi thì với anh chị Trần Huy Bích, chị Bích thì rất thân thiết với chị Võ Phiến.
Trùng Dương từng gọi chị Võ Phiến là “người đàn bà đằng sau bộ Văn Học Miền Nam 1954-75.” Nhưng tưởng cũng nên ghi nhận thêm ở đây, một số khuôn mặt bằng hữu khác đã cung cấp các bộ sách tiếng Việt giai đoạn 1954-75 từ các thư viện Đại học Pháp, Mỹ giúp anh Võ Phiến tư liệu để có thể hoàn tất bộ Văn Học Miền Nam. Như Đặng Tiến từ Âu châu, Trần Huy Bích qua liên thư viện Đại học UCLA, Đỗ Văn Gia từ Đại học Cornell, hoạ sĩ Võ Đình và trước đó từ 1983, học giả Huỳnh Sanh Thông từ Đại học Yale (dịch giả The Tale of Kiều), là người giới thiệu Võ Phiến xin được grant/ trợ cấp từ Chương Trình Nghiên Cứu Đông Dương thuộc Uỷ Ban Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội Hoa Kỳ (Indochina Studies Program, Social Science Research Council).
Và khách tới thăm thường ở lại ăn trưa với anh chị Võ Phiến. Bữa ăn gia đình do chị Võ Phiến chăm sóc, đôi khi có thêm một hai món khách đem tới. Cho đến nay, có một món chị Võ Phiến cho ăn không thể nào quên, đó là bánh tráng thuần túy Bình Định nhúng nước, chấm với nước mắm chanh ớt. Chanh thì có sẵn trên cây, chén nước mắm nhĩ đỏ au những lát ớt cũng hái từ vườn nhà. Món ăn giản dị và lạ miệng như vậy mà ai cũng lấy làm ngon, và khách cảm thấy ngon hơn nữa khi chủ nhà dí dỏm liên hệ món bánh tráng xứ Nẫu tới chiến thắng của vua Quang Trung, bánh tráng đã được dùng như lương khô trong cuộc hành quân thần tốc từ Nghệ An tiến ra Thăng Long dẹp tan 20 vạn quân Thanh.
Nói chuyện với Đặng Tiến 1998
Ngày 11/04/98 anh Võ Phiến đã gửi cho tôi bản photocopy 3 trang viết tay bài nói chuyện với Đặng Tiến kèm theo ít dòng ghi chú: “Thưa anh, đây là bản soạn, không phải nguyên văn lời nói. Khi nói có lời Đặng Tiến xen vào đôi chỗ. Theo lẽ thì phát thanh vào 28-10-1998. Không biết rồi có đúng vậy không.” Thân, Võ Phiến.
Đặng Tiến bút hiệu Nam Chi, cây bút phê bình văn học từ cuối thập niên 1950, là “bạn cựu” của nhà văn Võ Phiến [bạn cựu là chữ của Võ Phiến để chỉ những cố tri], Đặng Tiến với Võ Phiến như Bá Nha Tử Kỳ, Đặng Tiến liên tục theo dõi và rất tâm đắc với những thành tựu văn học của Võ Phiến rất sớm từ 1954 tới mãi về sau này, và cũng đã có rất nhiều bài phê bình điểm sách của Võ Phiến.
Riêng tôi, không được nghe buổi phát thanh ấy, nhưng nếu có thì nội dung chắc sẽ không khác với bản gốc viết tay của anh Võ Phiến. Qua anh Phạm Phú Minh, eMail liên lạc với Đặng Tiến hiện ở Pháp, anh trả lời là hoàn toàn không nhớ. Tôi không ngạc nhiên vì cũng đã 17 năm qua rồi. Tiếp đó tôi gửi phóng ảnh 3 trang viết tay của Võ Phiến buổi nói chuyện với Đặng Tiến, với hy vọng anh ấy có thể sẽ nhớ ra và cho tôi biết thêm chi tiết. Nhưng rồi ba ngày sau cũng vẫn Đặng Tiến trả lời: “Gửi NTV: Tôi không nhớ ra, sẽ moi trí nhớ trả lời anh sau. Giữ liên lạc. ĐT”
Với anh Võ Phiến, câu chuyện 17 năm trước thì không hy vọng gì anh còn nhớ, tôi vẫn ghi lại đây nội dung buổi nói chuyện rất ngắn ấy, với 3 trang viết tay [chỉ có 938 chữ] như một chút tư liệu văn học, có giá trị như một Tổng Quan về Văn học Miền Nam giai đoạn 1954-75.
Thưa anh [Đặng Tiến],
“Cuối thời tiền chiến, ông Vũ Ngọc Phan kiểm điểm một thời kỳ văn học 30 năm của Việt Nam. Trong mọi bộ môn sáng tác bằng văn xuôi ông chỉ đếm được ba người ở Nam phần và Trung phần (VP ghi chú thêm bằng bút chì bên lề: Hồ Biểu Chánh, Thanh Tịnh, Nguyễn Vỹ). Tất cả đều viết truyện. Về bộ môn kịch, ký, tuỳ bút… không có ai cả.
Cuối thời 1954-75, ông Cao Huy Khanh kiểm điểm riêng về bộ môn tiểu thuyết trong 20 năm ở Miền Nam. Ông bảo số người viết truyện xấp xỉ 200; trong số ấy trên dưới 60 người có giá trị. Giả sử có ai ngờ vực Cao Huy Khanh quá nặng tình bè bạn, và ai đó hạ số ước lượng xuống còn một nửa – tức 30 tiểu thuyết gia thì 20 năm này cũng gấp 10 lần 30 năm trước. Ấy là chưa kể đến những tuỳ bút gia, kịch tác gia của thời kỳ sau.
Về mặt khác, hồi tiền chiến ở Trung phần – từ Phú Yên vào đến Bình Thuận – chưa có nhà văn nhà thơ nổi tiếng; và ở khắp các tỉnh Nam phần – ngoài ông bà Đông Hồ ra – cũng chưa thấy vị nào tiếng tăm rộng rãi trên văn đàn. Nói vậy là căn cứ theo ông Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh.
Thế rồi trong khoảng 20 năm sau 1954 lần lượt xuất hiện những văn thi sĩ tên tuổi ở Phú Yên (VP ghi chú thêm: Võ Hồng), ở Ninh Thuận Bình Thuận (VP ghi: Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Đức Sơn), ở Cà Mau (VP ghi: Sơn Nam), Long Xuyên (VP ghi: Nguyễn Hiến Lê), ở Gia Định (VP ghi: Tô Thuỳ Yên), Vĩnh Long (VP ghi: Nguyễn Thị Thuỵ Vũ), Sóc Trăng (VP ghi: Vương Hồng Sển)… Số văn nhân thi sĩ tăng cao chừng ấy, địa bàn văn học nghệ thuật mở rộng đến chừng ấy, như vậy là một đóng góp.
*
Một đóng góp khác là cái tinh thần tự do, phóng khoáng của thời kỳ văn học này. Thiên hạ nói nhiều về sự đàn áp tinh thần trong những thời ngoại thuộc: hoặc thuộc Tàu, hoặc thuộc Tây. Thực ra, không cứ những thời ấy, ngay lúc nước nhà độc lập, các chế độ quân chủ phong kiến hay chế độ dân chủ cộng hoà ở ta cũng không dung thứ thái độ khích bác nhà cầm quyền. Ngay khi độc lập dân chủ, vẫn thường chỉ có một cái tự do được ban phát rộng rãi, là tự do ca ngợi bề trên.
Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử xấu xa. Phần tử ấy không thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo…
Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá.
Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.
*
Sau tính cởi mở tự do, chúng ta có thể chú ý đến một đóng góp nữa. Tôi muốn nói về hiện tượng suy tưởng triết lý ở Miền Nam trong thời kỳ 1954-75. Đến cuối thời tiền chiến, tiểu thuyết ở ta đã có trên dưới mười loại, trong đó có những loại tâm lý, loại luân lý, nhưng khuynh hướng triết lý thì bấy giờ chưa có trong tiểu thuyết. Qua thời kỳ 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam các băn khoăn triết lý xuất hiện đồng loạt trên nhiều địa hạt sáng tác: trong tiểu thuyết, trong thi ca, trong kịch bản, trong tuỳ bút. Có lúc triết lý tràn lan như một món thời thượng; và nó bị chế giễu.
Tuy vậy nó đã đến đúng lúc, hợp hoàn cảnh. Dân tộc đang chết hàng triệu người vì sự bất đồng ý thức hệ, bất đồng quan niệm sống. Vào lúc ấy sao có thể không suy nghĩ về lẽ sống, sao có thể điềm nhiên phó thác tất cả cho lãnh đạo? Mặt khác, lúc bấy giờ cũng là lúc nhiều trào lưu tư tưởng mới đang gây xáo động lớn ở Tây Phương, phản ứng ở Miền Nam chứng tỏ chúng ta có một tầng lớp trí thức nhạy bén, có cuộc sống tinh thần sinh động.
*
Nền văn học 1954-75 ở Miền Nam Việt Nam trong thời gian qua bị ém giấu, xuyên tạc. Nó gặp một chủ trương huỷ hoại, gặp những bỉ báng hồ đồ. Nó chưa được mấy ai lưu tâm tìm hiểu, phán đoán cách đứng đắn, tử tế. Những điều tôi vừa nêu ra chắc chắn còn thiếu, còn sai còn cạn cợt. Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.
[Xin chào anh Đặng Tiến. Xin chào quí vị thính giả.] Võ Phiến, 10-1998
Bộ Văn Học Miền Nam 1954-75
Khi Võ Phiến nói chuyện với Đặng Tiến là vào thời điểm tháng 10 năm 1998, chỉ một năm trước khi Võ Phiến hoàn tất toàn tập bộ Văn Học Miền Nam [với tập I là Văn Học Miền Nam Tổng Quan xuất bản 1986 và tập cuối cùng là Bút Ký Kịch Miền Nam, xuất bản 1999]. Tưởng cũng cần lưu ý câu phát biểu cuối của nhà văn Võ Phiến: “Việc đánh giá nền văn học ấy gần như chưa được bắt đầu nghiêm chỉnh.”
Như vậy có thể nói, cho dù Võ Phiến đã phải lao động bền bỉ suốt 15 năm [1984-1999] để hoàn tất bộ sách Văn Học Miền Nam nhưng chính ông chưa hề tự coi đó là một công trình hoàn hảo nên vẫn ao ước việc đánh giá nền văn học 1954-75 cần được bắt đầu nghiêm chỉnh.
Cho dù bộ sách Văn Học Miền Nam của Võ Phiến có những hạn chế đưa tới nhiều tranh cãi khá gay gắt. Người ta đã nặng lời trách ông về những phần thiếu sót trong bộ sách ấy: như khi ông đã gạt một số tên tuổi văn học của thời kỳ 1954-75 ra khỏi bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan, rồi cả cách ông phê bình các nhà văn, nhà thơ được ông chọn đưa vào sách cũng bị ông sử dụng cái sở trường văn phong tuỳ bút/ nay thành sở đoản để châm biếm mỉa mai cá nhân với nhiều thiên lệch.
Nhà văn Mặc Đỗ nhóm Quan Điểm thì thật sự bất bình, Mai Thảo nhóm Sáng Tạo trong lần trò chuyện cuối cùng với Thuỵ Khuê 07/ 1997 cũng không kềm được cảm xúc nói tới “bọn vua Lê chúa Trịnh”, và nói thẳng: “Võ Phiến cũng có chỗ được chỗ không được. Đại khái như phê bình văn học, đối với tôi thì không được. Văn Học Miền Nam tổng quan đó thì không được. Thơ dở. Tạp văn hay.” (2)
Nhưng khách quan mà nói, ngòi bút Võ Phiến cũng không thiếu phần tự trào, và cả châm biếm bản thân mình. Khi trả lời phỏng vấn Lê Quỳnh Mai trong chương trình Văn học Nghệ thuật đài TNVN Montréal 29-10-2000, nhà văn Võ Phiến đã không ngại khi ví mình như một Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng: “Nói tới sự may mắn, chắc chị còn nhớ tới Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, nếu tôi có được một số độc giả chú ý, chẳng qua cũng như anh chàng Xuân Tóc Đỏ trong truyện ấy thôi.” (4)
Bản thân Võ Phiến cũng đã biết rất rõ phản ứng của giới cầm bút về bộ sách Văn Học Miền Nam. Trong thư nhà văn Võ Phiến gửi Lê Thị Huệ Gió-O ngày 16/02/2001:
“Anh chị em cầm bút thời 1954-75 ở Miền Nam, nhiều người phiền trách tôi về bộ sách này lắm. Tôi chịu trận thôi. Viết mà cốt cho ai cũng… thương (!) thì thành ra cái quái gì.” (3)
Nếu độc giả bình tâm đọc lại Lời Nói Đầu của cuốn Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Võ Phiến đã bàn qua về “lý do biên soạn cuốn sách đầy những lôi thôi thiếu sót này.” [sic]
Ông đã giải thích rất rõ:
“Trước hết mình không phải là một nhà phê bình nhà biên khảo gì ráo mà tự dưng xông ra làm công việc biên khảo phê bình là chuyện không nên. Hơn nữa hoàn cảnh thật là khó: xung quanh không có tài liệu mà mình thì không có điều kiện để đi tìm tài liệu, lấy gì tham khảo?”
Ông cũng tiên đoán được cả những hệ luỵ như: “viết cái gì có liên quan đến kẻ khác, có chê khen người nọ người kia mà viết qua quýt thì bị mắng mỏ xỉa xói tưng bừng là cái chắc.”
Cân nhắc như vậy, nhưng ông vẫn viết tiếp:
“Ấy vậy mà nghĩ đi nghĩ lại chán chê rồi tôi lại quyết định cứ viết cuốn sách này. Trước hết là vì chỗ nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn. Thật vậy, thời kỳ 1954-75 gặp cái rủi ro hiếm thấy, là trong suốt hai mươi năm trời không có được lấy một nhà phê bình chuyên nghiệp. Nhưng trước khi có sự công bình, sự sáng suốt, hãy chỉ mong được chút lưu tâm…
Thời kỳ 1954-75: câu chuyện hủy diệt văn hóa phẩm Miền Nam từ 1975 đến nay không ai là không biết. Ta đã không thể ngăn chận được việc phá hủy, không thể bảo tồn được cái thành tích văn học nọ, thì ngay lúc này cũng nên có một tổng kết, một kiểm điểm sơ lược, để về sau những ai lưu tâm còn có chút căn cứ sưu khảo. Không thế, sao đành?”
Vì chỗ
“nặng tình với một thời kỳ văn học kém may mắn… rốt cuộc đành miễn cưỡng viết cuốn sách này trong những điều kiện rất không nên viết. Viết như là một sơ thảo, một bản nháp, một gợi ý, nhắc nhở, một cách nêu vấn đề, để sau này những người có đầy đủ tư cách và điều kiện sẽ viết lại một cuốn xứng đáng.” (1)
(Còn tiếp phần Kết)
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi.
Tham Khảo:
(1) Võ Phiến, Văn Học Miền Nam Tổng Quan. Lời Nói đầu. Nxb Văn Nghệ 1986. http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=3056
(2) Thuỵ Khuê , Lần trò chuyện cuối cùng với Mai Thảo, 07/ 1997, http://hopluu.net/a1153/noi-chuyen-voi-nha-van-mai-thao-va-tran-vu
(3)Lê Thị Huệ. Võ Phiến, Văn Chương Mất Trí Nhớ. 11-2012, http://www.gio-o.com/Chung/LeThiHueVoPhien.htm
(4) Lê Quỳnh Mai phỏng vấn nhà văn Võ Phiến. Tác giả, với chúng ta. Nxb Khôi Nguyên, Montréal Canada 2004.