Tôi đã thoát khỏi Việt Nam như thế nào
Minh Uông | Trà Mi dịch
Một kỳ nghỉ với gia đình hồi sinh cảm nghĩ về cuộc trốn chạy khỏi Việt Nam thời niên thiếu.
Những hình ảnh kèm theo bài viết này là các bản vẽ theo ký ức và các tác phẩm nghệ thuật mới dựa trên chuyến trở lại quê hương gần đây của tôi.
Năm nay, vợ tôi cho rằng chúng tôi nên về Việt Nam nghỉ hè. Con gái của chúng tôi đã lớn – Lein đã 19 tuổi và Tai 16 tuổi, và nhà tôi cũng nói rằng chúng sẽ không chịu đi cùng với cha mẹ lâu hơn nữa đâu. Thêm vào đó, bà ấy nói nói, “Chúng mình không trẻ mãi.”
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nhà tôi quẫn trí. Tôi biết rất nhiều người phương Tây đang khám phá Việt Nam (nào là “món ăn đẳng cấp thế giới”, “vẻ đẹp thiên nhiên ngoạn mục” và “dân tộc kiên cường nhất của châu Á” là vài mô tả người ta đọc được trên các trang web du lịch), nhưng Việt Nam không đứng đầu danh sách những nơi đi nghỉ hè của tôi. Có lẽ vì tôi đã sinh ra ở đó. Đã hơn 40 năm kể từ khi tôi rời Việt Nam và, cho đến ngày nay, tôi vẫn cảm thấy lo ngại khi nghe tiếng pháo bông nổ. Đối với tôi, chúng làm dội lại, một cách sống động, trong ký ức của tôi những ngày cuối cùng, đầy sóng gió, của cuộc chiến.
Đó là ngày 30 tháng 4, 1975, và Sài Gòn, thủ đô của Việt Nam Cộng hoà, bị bao vây. Tôi mới 10 tuổi, nhỏ nhất trong tám người con. Tôi đã sống với cha mẹ và bốn anh chị em của tôi trong một căn nhà một phòng. Việt Cộng đã đang trên đường tiến về phía quốc hội. Những vang của những quả bom đã phát nổ gần đó. Cha mẹ tôi, hy vọng đem chúng tôi thoát khỏi sự hỗn loạn, đã nói với anh và chị em tôi lấy xe đạp và đi đi. Bố Mạ chúng tôi nói khi mọi thứ đã lắng xuống, chúng tôi mới trở lại.
Đó là lần cuối tôi nhìn thấy bố mạ cho đến 14 năm sau.
Đó là những gì sẽ xảy ra khi bạn phải bỏ chạy khỏi quê hương. Bạn không biết rằng bạn sẽ trở thành một phần của một dòng người tị nạn. Tôi biết được rằng tôi là một trong số gần 130.000 người đã bỏ chạy khỏi Sài Gòn ngày hôm đó và một trong những khoảng hai triệu “thuyền nhân” đã rời Việt Nam bằng thuyền và các phương tiện khác trong hai mươi năm sau tháng 4, 1975. Nhưng tôi đã không chủ ý để đến nước Mỹ; Tôi rời khỏi nhà của tôi khi cha mẹ tôi nói tôi cần phải đi.
Chiến tranh đã là một hằng số của thời thơ ấu của tôi, nhưng tôi đã chưa bao giờ cảm thấy nó ngay trước mắt như ngày hôm đó.
Thịnh, anh cả của tôi, lái xe máy chở người vợ đang mang thai và hai đứa con của họ và chạy nhanh đàng trước. Cường, anh trai khác của tôi, đang trên xe máy của mình. Chở trên ghế sau là hai túi quần áo của tôi và của anh ấy. Anh Cường đã theo sát phía sau anh Thịnh. Tôi đi với Phú, người anh thứ ba. Tôi ngồi phía sau xe đạp của anh đi ngang qua các đường phố đông đúc. Trong lòng tôi là một túi cơm nếp, vẫn còn ấm từ buổi sáng khi mẹ tôi mới nấu. Tôi thấy mọi người đột nhập vào các tòa nhà. Những người khác chở những máy móc lớn và bàn ghế văn phòng trên xe của họ.
Buổi chiều hôm đó chúng tôi đã đến Nhà Bè, một làng đánh cá nhỏ cách Saigon 10 dặm. Chúng tôi thấy chiếc xe máy của anh Cường, nhưng không tìm thấy anh ở đâu. Anh Thịnh tôi nói với chúng tôi là anh Cường đã nhảy lên một chiếc tàu nhỏ, lúc nó đang rời bến.
Chúng tôi nghỉ ngơi một thời gian. Và, không biết phải làm gì khác, chúng tôi ăn bữa trưa với cơm nếp và uống nước chanh tươi mua từ một gian hàng gần đó. Một người nào đó có radio mở thiệt lớn. Chúng tôi nghe nói Việt Cộng đã chiếm thủ đô. Sài Gòn đã nằm dưới sự cai trị của Cộng sản. Chúng tôi đã thấy một số người dân địa phương bắt đầu tháo những lá cờ Việt Nam Cộng hoà trước nhà của họ xuống và thay thế chúng bằng những lá cờ Cộng sản.
Những người khác bắt đầu xuất hiện tại bến cảng với tất cả tài sản của họ. Ở đàng xa, chúng tôi thấy một chiếc tàu nhỏ của hải quân Việt Nam từ từ di chuyển ra khỏi vịnh về phía đại dương. Anh em của tôi và người đứng đầu của những gia đình khác đã quyết định chung tiền với nhau và mướn một chiếc thuyền để bắt kịp với con tàu. Chúng tôi chỉ biết rằng nó đã đi đâu đó. Đi khỏi Việt Nam.
Khoảng 25 người trong chúng tôi bước lên một chiếc thuyền đánh cá nhỏ, trong đó có bốn anh em với chị tôi, và đi ra biển. Chúng tôi bắt kịp với chiếc tàu hải quân và được phép lên tàu. Tất nhiên hướng đi là ra vùng biển quốc tế và để được một tàu sân bay của Mỹ vớt lên. Trên đường ra biển, chúng tôi thấy những chiếc tàu của những người đã được cứu thoát bỏ lại. Những chiếc thuyền đó đã trở thành vị cứu tinh của chúng tôi. Khi động cơ thuyền của chúng tôi đã có vấn đề, chúng tôi đã bám vào một chiếc thuyền bỏ trống, chuyển tất cả mọi người qua và tiếp tục cuộc hành trình. (Tất cả, chúng tôi đã làm như vậy bốn lần.)
Rồi một ngày kia chúng tôi gặp một chiếc thuyền đánh cá đã lênh đênh trên biển từ cả một tháng. Thuỷ thủ đoàn không hay biết về những gì đã xảy ra cho đất nước của chúng tôi. Họ mời chúng tôi lên tàu và đã cho chúng tôi một bữa ăn có cơm nóng và đồ biển mới bắt được. Sau đó, chúng tôi chia tay. Họ muốn trở lại làng đánh cá để chăm lo cho gia đình của họ.
Khoảng một tuần sau khi chúng tôi rời Nhà Bè, nhóm của chúng tôi là 59 người lại bị nhồi nhét vào một tàu đổ bộ của hải quân. Nó là chiếc thuyền thứ tư bị bỏ rơi mà chúng tôi đã lên. Chúng tôi cố gắng vượt được một quãng đường dài trước khi động cơ tàu ngưng hoạt động. Sau đó, chúng tôi đã trôi giạt trên biển, không có thức ăn. May mắn thay, chiếc thuyền này đã được thiết kế để mang theo nước ngọt trong thân tàu. Trong khi đó, chúng tôi nghe tin trên đài phát thanh rằng các tàu của Mỹ đã về lại Mỹ. Hy vọng của chúng tôi đã bị nghiền nát.
Sau ba ngày lênh đênh trên đại dương, chúng tôi đã được một tàu buôn của Singapore đi về hướng Đài Loan, cứu vớt. Khi được đưa lên tàu, tôi cảm thấy rất đói, chóng mặt và buồn nôn vì say sóng.
Nhưng tôi là một trong những người may mắn. Có khoảng từ 200.000 đến 400.000 người cố chạy trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền nhưng không bao giờ đến bến bờ bình an.
Tôi đã ăn đủ bữa lần đầu tiên sau ba ngày chỉ uống nước. Thuỷ thủ đoàn làm cho chúng tôi một món mì. Chiếc tàu này là quá lớn và nó không lắc lư. Tôi đã hết say sóng. Điều khổ nhất về thể chất, đã qua.
Chúng tôi ở tại một căn cứ quân sự trên núi của Đài Loan. Sau một tháng, tất cả chúng tôi đã được đưa tới một trại ở Guam. Ở đó, chúng tôi cùng tạm cư với hàng trăm người tị nạn Việt Nam khác. Tại đây tôi đã gặp lại anh Cường, người anh đã bỏ chiếc xe máy ở Nhà Bè, trong lúc xếp hàng ăn trưa. Tôi hỏi anh về túi của quần áo của tôi. Anh giải thích rằng khi anh đến bến cảng và nhìn thấy một chiếc thuyền đang rời bến tàu, anh đã ném cả hai túi quần áo của chúng tôi và nhảy lên thuyền. Túi quần áo của tôi trúng thành tàu và rơi xuống nước. Chúng tôi cũng đoàn tụ với chị gái khác của tôi và gia đình chị ấy.
Chúng tôi ở lại Guam một tuần. Ngày 4 tháng Bảy, chúng tôi được chuyển đến Fort Chaffee, Ark., một căn cứ quân sự lớn đến nỗi bạn phải đi xe buýt để đi xung quanh tất cả các doanh trại. Hội Hồng Thập Tự đã giúp gia đình tôi tìm người bảo trợ, và hỏi chúng tôi để chọn ba tiểu bang chúng tôi muốn sống định cư. Anh chị em của tôi quyết định về Massachusetts, bởi vì họ đã nghe nói về các trường đại học nổi tiếng – Harvard, MIT, Đại học Boston – ở đó.
Năm người chúng tôi đến Upton, một thị trấn New England đẹp như tranh vẽ, vào một ngày tháng chín se lạnh. Một xứ đạo, Holy Angels Parrish, cấp cho chúng tôi với một căn nhà, có cả TV trắng đen 13-inch. Chúng tôi đã xem rất nhiều tập phim “Sesame Street” và “The Electric Company” để học tiếng Anh. Mặc dù đó là một mùa đông lạnh, chúng tôi yêu cuộc sống mới tại Mỹ.
Tôi đã thường không nghĩ về thời gian đó, nhưng trong năm cuối cùng của tôi tại Viện Pratt ở Brooklyn, tôi cảm thấy bắt buộc phải vẽ lại những ký ức của tôi về chiến tranh và hành trình của chúng tôi từ Việt Nam đến Mỹ. Khi tôi bắt đầu lên kế hoạch chuyến đi của chúng tôi trở lại Việt Nam, tôi nghĩ về những hình ảnh đó và tự hỏi liệu tôi có thể nhận ra một số trong những nơi tôi sắp được về xem.
Sau 30 tháng tư năm 1975. Cha mẹ tôi không biết những gì đã xảy ra với hầu hết những đứa con của ông bà sau vụ đánh bom ở Sài Gòn. Chúng tôi đã đi thoát trên một chiếc thuyền, nhưng chúng tôi không có cách nào để liên lạc với cha mẹ. Chính phủ mới đã lấy trường học và thay tên của nó. Chúng tôi cũng rất lo lắng cho sự an toàn của cha mẹ mình. Chúng tôi không chắc chính phủ mới sẽ làm gì với họ nếu họ biết hầu hết con cái của cha mẹ chúng tôi đang sinh sống tại Mỹ. Cuối cùng, phải mất hai năm trước khi chúng tôi có thể liên lạc được và nói với cha mẹ rằng chúng tôi vẫn bình an.Chúng tôi đã đi thoát trên một chiếc thuyền, nhưng chúng tôi không có cách nào để liên lạc với cha mẹ. Chính phủ mới đã lấy trường học và thay tên của nó. Chúng tôi cũng rất lo lắng cho sự an toàn của cha mẹ mình. Chúng tôi không chắc chính phủ mới sẽ làm gì với họ nếu họ biết hầu hết con cái của cha mẹ chúng tôi đang sinh sống tại Mỹ. Cuối cùng, phải mất hai năm trước khi chúng tôi có thể liên lạc được và nói với cha mẹ rằng chúng tôi vẫn bình an.
Một trong những điểm nổi bật chính của chuyến đi của chúng tôi là đoàn tụ với chị Viên, chị cả của tôi. Hồi còn nhỏ, tôi hầu như không biết chị. Chị ấy đã trưởng thành và sống ở ngoài Sài Gòn. Chị chỉ chỉ ghé thăm gia đình trong dịp Tết, Tết âm lịch của chúng tôi. Sau chiến tranh, chị đã trở thành một góa phụ và nuôi 7 người con trai trong một căn nhà một phòng. Để kiếm sống, tất cả họ đều may đồng phục cho Việt Cộng trong căn nhà nhỏ. Chị ấy kể cho tôi rằng trong đêm, chuột chạy qua chân cô khi chị đang cố dỗ giấc ngủ. Nguồn: Minh Uông / The New York Times
Một bản của bài viết này đã đăng trong báo giấy ngày 20 Tháng 12 năm 2015, trên trang TR6 của ấn bản ở New York với tiêu đề: “Ký ức về những gì gì tôi đã bỏ lại.”
© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Minh Uông, How I Escaped Vietnam. The New Yor Times, 16 tháng 12 năm 2015