Câu chuyện lều chõng dưới triều các vua nhà Nguyễn (P1)
Nguyễn Văn Lục
Chữ Lều Chõng lấy lại nhan đề một cuốn tiểu thuyết của Ngô Tất Tố. Nó biểu tượng tiêu biểu cho việc thi cử thời xưa.
“Ngày nay nghe đến hai từ ‘lều chõng’ có lẽ nhiều người sẽ lấy làm lạ vì những từ ấy từ biệt chúng ta mà đi tới chỗ mất tích đã gần ba chục năm nay. Nhưng mà trước hơn hai chục năm đi ngược trở lên, cho đến hơn một nghìn năm, ‘lều’ ‘chõng’ đã làm chủ vận mệnh của giang sơn cũ kỹ mà người ta tán khoe là ‘bốn nghìn năm văn hiến’. Những ông ngồi trong miếu đường làm rường cột cho nhà nước, những ông ở nơi tuyền thạch, làm khuôn mẫu cho đạo đức phong hóa, đều ở trong đám ‘lều chõng’ mà ra.
Lều chõng với nước Việt chẳng khác một đôi tạo vật đã chế tạo đủ các hạng người hữu dụng hay vô dụng. Chính nó đã làm cho nước Việt Nam trở nên một nước có văn hóa. Rồi lại chúng nó đã đưa nước Việt Nam đến chỗ diệt vong. Với chúng, nước Việt Nam trong một thời kỳ dài kinh qua nhiều cảnh tượng kỳ quái, khiến cho người ta phải cười, phải khóc, phải rụng rời hồn vía.”
Trên đây là phần mở đầu cuốn “Lều Chõng” của Ngô Tất Tố. Truyện “Lều Chõng” được in trên báo Thời Vụ từ số 109 ra ngày 10/3/1939, đến năm 1941 mới được in thành sách.
Nhận xét của Ngô Tất Tố rất bi quan về thi cử như một người đã từng thất bại ê chề, đồng thời chứng kiến vận nước nổi trôi, rồi kết cục mất vào tay người Pháp trong nỗi bất lực của triều đình Huế. Sự thất bại ấy hình như Ngô Tất Tố muốn trút hết lên đầu giới quan lại được đào tạo và tuyển chọn qua hệ thống thi cử triều Nguyễn.
Cái tinh thần hoài niệm thi cử chữ Nho như còn nhắc nhở đâu đây trong câu, “Anh về học lấy chữ nhu, chín trăng em đợi, mười thu em chờ” khi đang đi vào buổi thoái trào.
Lều chõng, bút lông, chữ Hán đang phải đối đầu với bút sắt, chữ Quốc ngữ mà miền Nam đi trước một phần tư thế kỷ so với miền Bắc chỉ vì người Pháp có mặt sớm hơn ở Nam Kỳ. Cụ thể, nổi bật nhất là hai khuôn mặt lớn của xứ Nam Kỳ tiêu biểu cho hai thời đại: Phan Thanh Giản, Kinh lược trấn Tây từ Hà Tiên đến Nam Vang (1798-1887) và nhà bác học không qua thi cử cả Hán lẫn Tây học Trương Vĩnh Ký (1837-1898).
Nào phải mình Ngô Tất Tố bất mãn với thi cử!
Phan Bội Châu, một người đỗ đạt qua thi cử triều Nguyễn, đậu cử nhân khoa Canh Tý năm thứ 12 niên hiệu Thành Thái, 1900 cùng thời với Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh. Vậy mà Phan Bội Châu nào có kiêng nể gì với những lời phê phán nặng nhẹ. Hơn ai hết, Phan Bội Châu đã nhận thức được cái bất lực của triều đình Huế và đi tìm một giải pháp cứu nước qua Phong trào Đông Du.
Gia đình Ngô Tất Tố vốn dòng dõi nho học, nhưng thi cử không may, ông nội thi rớt nhiều lần, đến ông bố cũng vậy. Riêng Ngô Tất Tố có dự kỳ thi năm Nhâm Tý, Duy Tân thứ 6 (1912). Kỳ này trường Hà Nam lấy đậu 30 người. Ông mới chỉ qua được kỳ khảo hạch, lúc vào thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất.
Khảo hạch là hai điều kiện người dân phải có để dự thi Hương. Một là được quan chức địa phương xác nhận có đạo đức tốt; hai là có trình độ học lực chứng minh bằng cách đỗ kỳ thi ám tả cổ văn. Hội đủ hai điều kiện trên sẽ trở thành khoá sinh; khoá sinh trở thành thí sinh khi chính thức đi thi. Ông Ngô Tất Tố đỗ Khảo hạch nên đã được dự thi Hương, nhưng ông đã hỏng ở trường nhất (thi về năm đạo văn sách, hỏi về văn chương, luân lý, nam bắc sử, Đông Dương chính trị, hình luật) nên chưa có được Tú Tài (phải đỗ 3 trên 4 trường). Ba năm sau, 1915, ông lại lều chõng đi thi và đã đỗ đầu kỳ thi Khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh. Vào thi Hương, ông qua được Kỳ Đệ Nhất, nhưng lại hỏng kỳ thứ hai. (Ngô Tất Tố, “Chuyện Người đương thời”, trang 11-16.)
Khoa năm Nhâm Tý, Duy Tân thứ 6 (1912) ngoài môn quốc ngữ đã có từ khoa Kỷ Dậu, 1909, còn có môn Pháp ngữ (1 bài Pháp văn dịch ra quốc ngữ, 1 bài chữ Hán dịch ra chữ Pháp). Trong bài thơ Đi Thi Tự Vịnh, Tú Xương viết hai câu chót:
“Bốn kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa,
Á, ớ, u, âu, ngọn bút chì.” (Tú Xương, Đi Thi Tự Vịnh)
Mỗi kỳ thi kéo dài trong suốt một ngày. Thi xong 4 kỳ, thời gian kéo dài chừng 20 ngày. Vào buổi trưa, phải đưa bài viết đi đóng dấu Nhật Trung, đóng vào ngay chữ chót mới viết để quan trường xem biết thí sinh đã làm được đến đâu rồi. Nhưng vẫn phải đỗ ba kỳ mới được vào kỳ bốn. Từ thời Tự Đức, kỳ đệ nhất thi Chế Nghĩa, kỳ đệ nhị thi thi phú, kỳ đệ Tam thi Văn Sách. Kỳ đệ tứ thi lại một bài chế nghĩa, một bài thơ và một bài phú.
Nói chung, Ngô Tất Tố đã thất bại trong thi cử, Tú tài cũng không có, bỏ đi làm báo và để lại cho đời hai tác phẩm đáng giá Tắt Đèn và Lều Chõng cũng như trên 1400 bài báo dưới nhiều bút danh. Nếu ông đỗ cử nhân hay tiến sĩ liệu ông có để lại được cho đời một gia tài văn học như thế không?
Cám ơn triều đình Duy Tân, cám ơn Tây và cám ơn đời nhờ đó ông đã thi rớt!
Mục đích thi cử ở nước ta: Chọn người có tài, nhưng chọn bao nhiêu người? Và số phận những người thi rớt
Chọn người có tài
Ngay từ đời nhà Lý, 1072, đã mở khoa thi mà mục đích là chọn người có tài ra giúp nước:
“Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước thì không thể nào không có khoa cử.”
(Phan Huy Chú, “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí”, chương II, phần Khoa Mục Chí.)
Mục đích thi cử đã rõ ràng là tìm người có tài.
Đến đời nhà Nguyễn Gia Long, bài tựa cuốn sách “Quốc Triều Hương Khoa Lục” của Cao Xuân Dục do Hoàng Cao Khải viết, lại một lần nữa nói rộng thêm vai trò người thi đậu như sau:
“Triều ta sùng chính đạo, trọng giáo hóa, chuộng nhân tài, dấy văn học. Thế tổ Cao Hoàng Đế đại định thiên hạ, bắt đầu mở khoa thi Hương, các thánh kế tiếp nối theo, phép tắc ngày càng chặt chẽ. Những người thi đậu phần đông là bề tôi giỏi, việc chọn được nhiều kẻ hiền tài như vậy thật rõ ràng đáng chép lại lắm.”
Về nguồn gốc cuốn “Quốc Triều Hương Khoa Lục”, theo như bài tựa của Hoàng Cao Khải cho biết, trước đó đã có Phạm Quân Thiếu Du, tức Phạm Đình Toái, ghi chép từ Khoa Đinh Mão đời Gia Long (1807) đến năm Canh Ngọ đời Tự Đức (1870) còn thì chưa rảnh mà làm tiếp. Khi ấy, Cao Xuân Dục đã được thăng chức Tổng Đốc Sơn Hưng Tuyên. Có dịp gặp Phạm Đình Toái và được ông này trao cho bản in “Quốc Triều Hương Khoa Lục năm 1873”. Nhưng mãi đến năm 1893, ông Cao Xuân Dục mới cho xuất bản, gọi là phần chính biên. Như thế, Cao Xuân Dục chỉ tiếp nối công trình của Phạm Đình Toái mà làm tiếp. Lại nữa, cuốn sách được chia hai phần: Phần đầu được gọi là chính biên do Cao Xuân Dục phụ trách. Phần sau, kể từ năm 1894 trở đi cho đến khi chấm dứt chế độ thi cử, nó được bổ túc, cập nhật và được gọi là Tục biên do ông Cao Xuân Tiếu, con của Cao Xuân Dục biên soạn.
Nhờ vậy, tác phẩm Quốc Triều Hương Khoa Lục được hoàn chỉnh, rõ ràng nhất về khoa lục của triều Nguyễn.
Trong Quốc Triều Hương Khoa Lục, tôi nhận thấy nhóm dịch giả Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm cùng Cao Tự Thanh hiệu đính và giới thiệu không thống nhất trong nhận định.
Cái bất nhất của nhóm dịch giả, hiệu đính là nhận định của họ về Hoàng Cao Khải và Cao Xuân Dục: Một bên là “tên đại Việt gian họ Hoàng” (trang 30), bên kia là “cách thể hiện chính xác lập trường dân tộc qua việc xử dụng nhuần nhuyễn “bút pháp Xuân Thu” ở Cao Xuân Dục.” (trang 26) trong khi cả hai không khác gì nhau trong việc “đàn áp các nhóm nghĩa quân chống Pháp” (trang 17)
Đây phải chăng là một khập khễnh trong tư duy của những người biên khảo theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan?
Mục đích thi cử là để chọn người có tài. Ai cũng đồng ý như vậy. Nhưng dựa trên tiêu chuẩn nào để biết đó là một người có tài? Phải chăng dựa trên đề tài thi? Hay dựa trên quyển thi của thí sinh trúng tuyển? Hoặc dựa trên sự tuyển chọn khắt khe của quan trường? Câu trả lời thật không đơn giản!
Tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã trích dẫn các văn bài của Trạng Nguyên Nguyễn Trực, Trạng nguyên Lương Thế Vinh, Bảng nhãn Lê Quý Đôn. (Nguyễn Thị Chân Quỳnh, “Khoa cử Việt Nam, Tập Hạ – Thi Hội Thi Đình” do Trung Tâm Nghiên cứ Quốc Học. Nhà xuất bản Văn học. 2007. Phần II Thi Đình, Chương năm: Đề mục – Văn bài).
Tôi cũng được đọc bài Văn Sách Thi Đình của Trạng Nguyên Vũ Kiệt và sự đối đáp giữa Vũ Kiệt và nhà vua. Sự đối đáp giữa ông Trạng và nhà vua xem ra cũng không ra ngoài khuôn phép, “Thần mong bệ hạ hãy tuyển chọn những người công minh trong sạch và ngay thẳng, lấy danh vị giao cho họ trọng trách.” (“Trạng nguyên Vũ Kiệt và bài Văn Sách thi đình của ông”. Trích Danh nhân Kinh Bắc. Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh.)
Người đời nay thật không dễ để đánh giá các văn bài ấy. Chỉ nghĩ rằng nó đã không ra ngoài khuôn sáo ước lệ lặp lại người xưa.
Nhìn lại, nhiều người thất bại trong con đường cử nghiệp lại thành công lớn trong văn học. Tú Xương thi rớt lên rớt xuống lại là nhà thơ trào phúng sâu sắc bậc nhất đất Bắc có phải là người có tài không? Ngố Tất Tố chưa hề đỗ tú tài như Tú Xương mà ngồi chiếu nhất văn học hiện thực phê phán bên cạnh những Nam Cao, Vũ Trọng Phụng hẳn ông phải là người có tài!
Trường hợp các phụ nữ bị cấm không được thi cử, vậy mà vẫn có những người như Đoàn Thị Điểm, Thanh Quan và nhất là Hồ Xuân Hương. So với văn chương của Hồ Xuân Hương thì ai là người trong số các tiến sĩ, cử nhân triều Nguyễn có thể sánh bằng?
Và như một Nguyễn Trường Tộ, một nhân tài xuất chúng của đất nước mà việc học chỉ là vay mượn vá víu. Như trong Di Thảo số 3: Bài trần tình. Ông viết:
“Tôi thuở bé không được dạy bảo, lớn lên lưu lạc nhiều nơi, nhưng những hoài bão và những việc làm của tôi có chỗ khác hơn người (…). Ở triều đình. Tôi không có địa vị, yến tiệc tôi không dự. Những việc trọng đại tôi không có liên quan gì, mà không biết giữ mình, sống bấp bênh theo chúng là hơn.” (Trương Bá Cần, “Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo”, Di Thảo số 3, trang 12)
Một người như ông đã để lại nhiều Di thảo, nhiều bản Điều Trần, những đề nghị cải cách về nhân sự, về phát triển kinh tế, về khai thác hầm mỏ, về kế sách ngoại giao, về quân sự, về sách lược đối với Pháp. Thử hỏi các ông cử nhân trong suốt hơn trăm năm triều Nguyễn, 5232 ông cử nhân, chưa kể hàng ngàn, hàng vạn các ông Tú Tài, tất cả đã có bao nhiêu ông làm nên công trạng?
Hỏi là để hỏi vậy thôi. Tôi xin đặt ra vấn đề thứ hai là: Chọn bao nhiêu?
Chọn bao nhiêu?
Số đi thi thì nhiều, chọn thì ít. Hình như thời nào cũng vậy. Nhưng ít là bao nhiêu? Có thể có một tỷ lệ thuận theo đó càng đỗ ít thì chất lượng thi cử càng bảo đảm chất lượng? Nhưng ít bao nhiêu, ít đến ít quá ít thì mục đích chọn của thi cử có còn nữa không? Cho đến bây giờ khi viết những dòng này, tôi vẫn không cắt nghĩa được tại sao lại khắt khe trong thi cử đến thế!
Nói một cách khoa học thì chọn như thế chỉ cho một kết quả xác xuất may rủi. Nói bình dân gọi là rút thăm hay xổ số. Thi cử đỗ đạt quá ít đã nảy sinh ra khá nhiều lối giải thích, lối an ủi mà thực sự chả có liên quan gì đến thi cử.
Ông Trời cũng bị vào cuộc và bị vạ lây.
Chẳng hạn, người ta tự an ủi là học tài thi phận, tại số trời, tại đất, tại mồ mả chưa phát, thầy địa lý nói, thầy tướng số bảo, tại năm tháng hạn, tại hồn ma báo oán. Đã có khá nhiều những giai thoại về thi cử như thế chắc không cần phải kể ra đây. Những giai thoại như thế chẳng nên tiếp tục kể lại mặc dù bây giờ chỉ là mua vui.
Nếu thi rớt chỉ là tại vì thế này, tại vì thế kia thì mục đích chọn lựa người có tài có còn có ý nghĩa gì không?
Cái đúng nhất có lẽ cần nói là tại chế độ thi cử, tại nội dung bài thi, tại chế độ chấm thi và nhất là tại chế độ học. Chế độ thi cử như thế thay vì chọn người tài ra giúp nước chỉ là nguyên do chính làm tiêu hao nhân tài!
Tại chế độ học
Một chế độ học như vẹt, học như quốc kêu, học những điều sáo nghĩa, vịn vào sách này nói, nhất là Tử nói. Những điều học như thế đã trờ thành lỗi thời, kéo dài hết từ đời này sang đời kia, chỉ cho một mớ kiến thức xô bồ, hỗn độn thì bảo sao việc học không trở thành vô bổ.
Sự phê phán lại chủ yếu dựa vào văn tài theo kiểu “văn hay chữ tốt”. Giám khảo chấm văn hơn là chấm nội dung tư tưởng với những lời phê:
“Văn rườm rà mà ý cạn, hay văn hẹp hòi mà quê mùa, chỉ biết học theo khuôn sáo, không biết học rộng hơn, càng tủn mủn tìm tòi, chương cú vụn vặt, không còn có chút khí cách hùng hồn nữa.” (Phan Huy Chú , ibid., phần Khoa Mục chí, trang 33)
Vì thế cái nia sàng thi cử đó đã thải loại hàng triệu người trong đó không thiếu những nhân tài cho đất nước mà cái tội duy nhất chỉ là thi không đỗ. Thi không đỗ đáng lẽ đổ lên đầu triều đình, người ra đề thi, chương trình học, người dậy học và người chấm thi.
Đã thế, các khảo quan ra nhiều đề thi lắt léo nhằm đánh rớt thí sinh, không cho họ cơ hội tiến thân. Giỏi là thuộc bài? Phải chăng thuộc bài là nhân tài? Chọn người thuộc bài chọn đúng người?
“Tìm tòi những câu hiểm hóc, cốt hỏi cho học trò không nhớ thì mới là giỏi.” (Phan Huy Chú, ibid., Khoa mục Chí, trang 34).
Việc không thi đỗ cuối cùng tìm ra được một lời bào chữa, tại số phận. Lời bào chữa đó đã như một trạng sư tài giỏi khỏa lấp tất cả những thiếu sót của thi cử. Mọi người từ trên xuống dưới, ngay cả nạn nhân là các nhà nho cũng đồng thỏa thuận như vậy. Trồng một cây không ra hoa trái thì lỗi tại cây hay tại người trồng? Chuyện đơn giản như thế mà cả ngàn năm vẫn không vỡ lẽ ra được. Việc thi cử trở thành một số phận, bởi vì người ta không chỉ dự thi một kỳ, mà nhiều kỳ, có khi cả một đời người. Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố là một trường hợp điển hình.
Xin trích một đoạn cảnh thi ở trường thi Hà Nội trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố:
“Trên miếng đất giá lạnh của trời đông, bóng người chật như đám hội. Có người tóc đã bạc phơ. Cũng có người hồng mao còn ngất ngưởng trong vành khăn nhiễu. Có người không giấu sự nghèo túng, thân hình gầy guộc so sởi trong manh áo đơn. Cũng có người như muốn khoe vẻ phong lưu, quanh mình quấn mấy lần áo bông sù sụ, hai hàm răng còn run cầm cập. Có người hai vai nặng trĩu khủy tay còn đủ sức thích bên kia gạt bên nọ, len từ ngoài tít vào trong cùng. Cũng có người cất cổ không lên, lều chiếu đều bị lôi sềnh xệch ở mặt đất. Vênh cái mặt dương dương tự đắc, đó là người mới thi lần đầu. […]
Thình lình trong Nhà Thập Đạo, kiểng đông giống với trống khẩu, dõng dạc đánh luôn ba hồi. Các bóng đèn lồng nhất tề lay động. Các áo thụng lam, các mũ cánh chuồn đồng thời rộn rịp như sân khấu rạp tuồng.
Sau khi bốn ông Ngự Sử đã đem chức trách đàn hạch lên bốn chòi canh, các ông khảo quan tức thì cắt nhau mỗi người đi mỗi ngả. Cũng như mọi khoa, hai ông Phân khảo phải coi hai cửa tả hữu, ông Phó Chủ khảo được theo chiếc biển “phụng chỉ” ra cửa Vi Ất. Còn cửa Vi Giáp thuộc quyền ông Chánh Chủ khảo và lá cờ Khâm sai nhà vua ban.
Dứt mấy tiếng yết hậu của trống khẩu và kiểng đồng, hai hàng đèn lồng bắt đầu ở nhà Thập Đạo từ từ tiến ra. Rồi đến một đôi lọng vàng cung kính rước lá cờ khâm sai đi trước.
Rồi đến ông Chánh Chủ khảo và bốn chiếc lọng xanh khúm núm theo sau.
Bộ dạng Quan Chánh chủ khảo mới oai làm sao?” (Ngô Tất Tố, “Lều Chõng”, Chương VIII, trang 44.)
Trường thi thường được chọn một bãi trống như bãi ruộng. Vì thế các kỳ thi thường được mở ra vào mùa thu sau khi việc đồng áng, gặt hái của các sỉ tử cũng đã xong. Ruộng đã gặt nay chỉ còn trơ gốc rạ. Người ta dựng tạm những ngôi nhà cho các quan giám khảo và tùy theo chức vụ mà được chia xẻ chi li từng đôi đũa, cái bát, bao nhiêu bát gạo, mắm muối, v.v. Phần quan Chánh Chủ khảo luôn luôn có 4 cái lọng che, trong khi các chủ khảo chỉ có một lọng
Vùng nào có nhiều người thi đỗ?
Có vùng có nhiều người đỗ, vùng khác ít hơn. Có vùng quá ít. Chẳng hạn sáu tỉnh vùng cao ở ngoài Bắc nơi các dân tộc ít người chỉ cống hiến được 3 nhân tài. Trong ba người thi đỗ này, cả ba đều thuộc các tỉnh như Quảng Yên, Hưng Hoá rất gần với các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Nhưng trong Nam thì còn tệ hơn nữa.
Trường hợp tỉnh Kontum, sở dĩ có một số người Kinh là vì người ta sợ bắt đạo thời Minh Mạng đã kéo nhau lên đó sinh sống, họ chưa hề có ai đi học chữ thánh hiền. Nói chi đến các dân tộc ít người như Bahnar, Sêđăng, Jorai, Kôhô, Churu, Mnông. Việc thi đỗ có sự phân biệt, có được ưu đãi tùy theo địa lý, dân số và sắc dân.
Về tỉ lệ các người thi đậu theo các vùng chỉ có thể bắt đầu từ 1802, lúc mà Gia Long lên ngôi, chọn Huế làm kinh đô, mặc dầu Gia Long khởi nghiệp từ vùng đất Nam Kỳ. Sau này dưới mắt ông, đất Nam Kỳ, cái miền đất hứa, nó hứa đủ thứ, ngay cả cái nghiệp đế vương của ông cũng chỉ còn là “cái miền Nam xa xôi ấy”. Lúc mà cơ ngơi đã ổn định, đất nước thu về một mối, sự chọn lựa người thi đậu ở triều Nguyễn đã hẳn đương nhiên nghiêng về các tỉnh miền Trung, nhất là các tỉnh phía Bắc Trung phần tính từ Thanh Hoá Nghệ an trở vào.
Phần lớn các nhận xét đánh giá trong bài viết này đều dựa vào các kết quả đã được ghi chép đầy đủ trong Quốc Triều Hương Khoa Lục. Riêng phần kết quả ở trường thi Huế trong 105 năm là 1263 cử nhân trên tổng số 5232 của cả nước, tính đến khoa Mậu Ngọ, Khải Định thứ ba, năm 1918. Huế chiếm một phần tư tỉ lệ người đỗ của cả nước.
Con số cho thấy gần mặt trời, tỉ lệ thi đỗ cao.
Thi Hương không nói làm gì, vì có nhiều trường thi ở các tỉnh. Nhưng thi Hội phải trèo đèo lội suối vào đến được Huế đâu có dễ dàng gì. Sĩ tử thi Đình, có khi chưa kịp múa bút, khoe tài thì đã chết dọc đường vì đói khát, bệnh tật, cướp bóc hoặc bị thú dữ ăn thịt.
Nay, nếu xét từng khoá thi, dựa vào Quốc Triều Hương Khoa Lục, người ta thấy những năm đầu triều Nguyễn, sĩ số người đậu tại trường thi Huế thường ít hơn các trường khác, và tình trạng đó tiếp tục kéo dài đến đời Minh Mạng. Nhưng từ năm Giáp Ngọ, Minh Mạng thứ 15, 1834, không hiểu vì lý do gì, không biết tại sao, trường thi Huế bao giờ cũng dẫn đầu về số người thi đậu. Năm dẫn đầu cao nhất là khoa năm Mậu Thân, Tự Đức thứ 1, 1848.
- Trường Thừa Thiên có 52 người thi đậu. Nghệ An 22. Thanh Hoá 16. Hà Nội 28, Nam Định 27, Gia Định 20.
Nếu tính từ Thanh Hoá trở vào thì miền Trung có 90 người thi đỗ trong khi cả miền Nam lẫn Bắc chỉ có 75 người. Chỉ có một lý do biện minh cho tỉ lệ đỗ cao này là nếu số sĩ tử đi thi ở Huế phải nhiều hơn cả, nhưng về điều này đành chịu, vì chẳng có tài liệu nào có thể dùng để chứng minh. (Quốc Triều Hương Khoa Lục, từ trang 176-291)
Trừ Huế ra, các tỉnh miền Trung có tỉ lệ người thi đỗ trội vượt hơn hẳn các tỉnh phía Nam, phía lục châu. Với 1115 người thi đậu cho các tỉnh miền Trung là con số cao nhất so với các tỉnh phía Nam. So giữa các tỉnh miền Trung thì các tỉnh phía Bắc miền Trung, đặc biệt tỉnh Quảng Nam tỷ lệ đỗ đạt cao hơn các tỉnh phiá Nam miền Trung.
Điều này dễ hiểu và cắt nghĩa được.
Lý do vì các tỉnh phía Nam Trung phần đã hẳn còn dấu vết văn minh Chàm sót lại, còn nhiều những rối động chính trị cộng thêm cái tàn dư của Tây Sơn như đám tro tàn chưa kịp dập tắt. Lòng người với dấu vết thời gian in đậm đã dễ dầu gì quên ngay được. Vì thế, về phía triều đình cũng như phía dân chúng các tỉnh phía Nam Trung phần có những khoảng cách biệt chưa nối kịp.
Pierre Brocheux, Daniel Hémery cũng có nhận xét như sau:
“The state had particular trouble dealing with the independence and dynamism of the non-Vietnamese hunting and gathering cultures and itinerant farmers. These peoples, governed by their own authorities under the loose tutelage of Vietnamese mandarins, only offered an annual tribute to the Viet State, and they often rebelled. To give but one example, in 1802, Gia Long reconstituted, to the West of Binh Thuân, a Cham principality comprising Cham Muslims, Rhade, Kahauv, and Cru highlanders, named the Panduranga of Prada. All of them were entrusted to a Cham prince named by Hue.” (Pierre Brocheux & Daniel Hémery, “Indochina. An Ambiguous colonization 1854-1954” (2009), trang 8.)
Hãy xem việc thiết lập các trường thi thì rõ. Như trường hợp trường thi Bình Định. Ngoài Bắc có trường Hà Nội, Hà Nam, sau đổi sang Nam Định. Miền Trung, các tỉnh địa đầu có Thanh Hoá, Nghệ An rồi Thừa Thiên, sau đó nhảy vọt vào Gia Định. Tình trạng đó kéo dài mãi cho đền năm Tự Đức thứ 29, 1876 mới thiết lập thêm trường thi Bình Định với số người thi đậu lần đầu là 12 người.
Nếu nhìn ở khía cạnh địa lý và chính trị thì tỉ lệ đó cũng dễ hiểu, vì nay phần đất miền Trung nằm trong tầm ảnh hưởng chính trị của triều đình Huế. Đó là trung tâm quyền lực mới thay thế thủ đô Hà Nội trước kia.
Vua quan ở đó, Hoàng thân quốc thích ở đó tính ra ở giữa con số 2000-3000 các gia đình thế gia vọng tộc ở đó. Hưởng chút ơn mưa móc là chuyện dễ hiểu.
Đã vậy, thiên nhiên lại khắc nghiệt làm khó con người. Con đường tiến thân hợp lý hơn cả vẫn là con đường cử nghiệp. Cộng thêm, với thời gian, cái niềm hãnh diện về quê hương xứ sở cộng với cái hãnh diện về truyền thống văn hóa cũng làm cho việc thi cử trở thành niềm trăn trở, thao thức cho các con cái gia đình Huế và cho chính Huế. Cái thao thức của một khát vọng đi lên không bằng cái thao thức của sự thoát ly ra khỏi nghèo túng.
Thi cử trở thành ước mơ của con người.
Vì thế, lòng người Huế luôn luôn là trăn trở. Huế luôn luôn có những tiếng thở dài dù là lãng mạn. Và đấy cũng là nét đẹp nhất của tâm hồn Huế.
Về phần đất Nam Kỳ lục tỉnh
Có lẽ phần này phải được lưu ý một cách đặc biệt về mặt địa lý, mặt xã hội và về mật chính trị. Hiểu rõ điều ấy giúp đánh giá đúng mức thực trạng thi cử ở đây.
Đây là vùng đất mới với sắc dân tới từ nhiều nguồn, từ miền Trung đổ vào vì lệnh cấm đạo, từ phía Bắc tới trong cuộc Nam tiến. Và nhiều nhất là người Tầu đủ loại sang nước ta. Cộng thêm vào đó, cái óc thương mại đến từ phía người Trung Hoa tỵ nạn. Đó là những di thần bài Mãn, phục Thanh với các tên tuổi như Trần Thắng Tài, Dương Ngạn Dịch đã đến Cù Lao phố Biên Hoà, Mỹ Tho lập nghiệp.
Đất Gia Định xưa là nguồn di dân từ khắp nơi đổ về đã làm dân số tăng lên gấp 20% so với cả nước.
Sơn Nam viết:
“Đời Minh Mạng, giai đoạn kéo dài 20 năm thêm khá đông tù tội bị đầy vào đồng bằng, qua đất Kampuchia với dụng ý thâm độc: bắn một mũi tên, nhưng giết nhiều con chim, xua đẩy những mầm mống khởi loạn ra xa kinh đô Huế, thâu thêm thuế trong tương lai gần, đồng thời nuôi dưỡng giới quan liêu từng lấy việc tham ô, xu nịnh làm sinh kế, xa kinh kỳ, bọn này tha hồ làm những việc phi pháp. Triều đình không tốn kém đầu tư, địa bàn thống trị mở rộng thêm.” (Sơn Nam, “Đồng bằng sông Cửu Long, Nét sinh hoạt xưa”, NXB TP Hồ Chí Minh, 1985, trang 32)
Trích đoạn văn này, người viết chỉ muốn chú trọng tới phần trình bày về vấn đề sinh hoạt địa lý nhân văn, dân số của đồng bằng sông Cửu Long mà không nhất thiết đồng ý với cách diễn đạt của Sơn Nam.
Vấn đề của triều đình là nắm quyền kiểm soát thương mại không để cho thương gia người Tàu chi phối. Nhưng dân số gia tăng cũng là một vấn đề phức tạp gây lo ngại cho triều đình Huế.
Sắc dân hỗn tạp như thế cộng thêm sự có mặt của người Pháp đã biến đổi mau chóng toàn diện bộ mặt miền Nam. Cũng theo Pierre Brocheux:
“In 1836 for example, the French administration counted 1,737 rural townships in Cochin-china; in 1878, the French administration counted 2,387 villages and around 1,700.000 inhabitants, spread over 60,000 squares kilometres, an average density of 28 per square kilometer.” (Pierre Brocheux& Daniel Hémery, ibid., trang 8)
Con số trên cũng khá trùng hợp với con số của Sơn Nam đưa ra:
“Dân số còn thấp. Năm 1875, cả Nam Bộ phỏng 1,600,000 người (hơn dân số của tỉnh Bình Định chút ít). Năm 1895, lên khoảng 2,200,000.” (Sơn Nam, ibid., trang 61.)
“Không lạ gì trong hàng quan lại của triều đình Huế có những người gốc Tàu như Trịnh Hoài Đức. Các quan lại vào miền Nam đa số gốc Trung như Lê Khánh Trinh, Nguyễn Tăng Địch, Nguyễn Hoàn gốc gác Quảng trị. Nguyễn văn Xuân, Võ Văn Giải, Nguyễn Bá Nghi, Võ Duy Thanh. Ngay cả Lê Văn Duyệt, Trương Định, Tống Phước Hiệp, Hà Duy Phiên, Nguyễn Xuân gốc ở Thanh Hóa. Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Thoại từ Quảng Nam, Thừa Thiên.” (Sơn Nam, ibid., trang 52)
Nhưng ngược lại, tỉ lệ thi đỗ ra làm quan ở miền Nam chỉ chưa đạt tới 2% so với toàn quốc. Trong số các tỉnh phía Nam, Gia Định và Biên Hòa có số người đỗ cao nhất. Riêng tỉnh Gia Định có số người đỗ cao hơn tất cả các tỉnh phía Nam cộng lại. Vậy mà so với cả nước, sĩ số thí sinh đỗ của tỉnh Gia Định thường là cầm cờ đỏ.
Tỉ dụ trong khoa Giáp Tý, Tự Đức thứ 17, 1864, Thừa Thiên đỗ 28 người, Nghệ An 19, Thanh Hóa 15, Hà Nội 24, Nam Định 21, An Giang chỉ còn có 10. Con số 10 cũng không phản ánh đúng, vì kể từ đó, đất miền Nam đã rơi vào tay người Pháp.
Trong các khoa thi sau, người ta bùi ngùi không còn bao giờ thấy trường thi Gia Định nữa. (Cao Xuân Dục, ibid., từ trang 360. Năm 1864 cũng là năm đầu tiên trường thi được đặt tại An Giang)
Trong những lý do mà người miền Nam “lơ là” với thi cử có thể do đời sống tương đối dễ dãi, “làm chơi ăn thật” khiến việc học, khoa bảng không trở thành “cần câu cơm” như dân miền Trung. Thôi thì hãy đọc nhà văn tiêu biểu miệt vườn Sơn Nam trong đoạn văn sau đây:
“So với các tỉnh phía Bắc và Trung phần thì đây là nơi dễ sống, vừa làm vừa chơi cũng đủ ăn. Thiên nhiên ưu đãi, thực phẩm có thừa. Đồng bằng sông Cửu Long quả là nơi lạc thổ. Nhiều đìa cá, cá nổi đầu lên như mù u chín rụng chẳng ai thèm bắt. Những người đi khẩn hoang, thường chữ nghĩa không đầy một cái lá me, không rành cách ngôn thánh hiền.” (Sơn Nam, “Đồng bằng sông Cửu Long”, NXB Trẻ (2004)).
“Vùng đồng bằng thua sút các tỉnh khác trong cả nước về học vấn. Học hiệu phần lớn thành lập vào thời Minh Mạng, Thiệu Trị. Toàn tỉnh Hà Tiên, dọc bờ biể từ biên giới đến mũi Cà Mau có nhiều nơi quần cư quan trọng nhưng không thấy “Đại Nam nhất thống chí” ghi một học hiệu nào, dầu là của tỉnh.” (Sơn Nam, ibid., trang 42)
Thiếu thấy đồ, phải “nhập cảng” từ miền Trung mà vẫn thiếu hụt. Thầy đồ nổi tiếng hay chữ là Võ Trường Toản.
Nhiều nhà khá giả trong Nam phải cho con đi ra Huế “du học”. Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông là xuất thân trường học ngoài Huế.
Và Sơn Nam diễn giải thêm:
“Thiên nhiên ưu đãi, lương thực và thực phẩm có thừa, công việc nhàn rỗi, áo quần, nhà cửa, chữ nghĩa còn thiếu, nhưng so sánh với một số địa phương khác thì đồng bằng sông Cửu Long quả là nơi “lạc thổ” […] Nhiều đìa cá ở xa đường giao thông, cá nổi đầu lên như ‘mù u chín rụng’, nhưng chẳng ai khai thác; gặp năm cá sụt giá. tát nước, khiêng hoặc gánh cá tới bến nước để bán thì tốn kém, lỗ tiền công. Đìa ấy để dành cho người vùng trên đến mót, lượm, tát chia hai với chủ. Vịt nuôi không cần cho ăn, mùa hạn dưới rạch đầy cá nhỏ, vịt thả rong, chiều tối về chuồng.” (Sơn Nam, ibid., trang 37)
Vì vậy mà chuyện thi cử bị coi nhẹ. Chữ nghĩa người dân miệt vườn “không đầy một cái lá me”. Trường hợp cụ Phan Thanh Giản đỗ tiến sĩ là món quà Huế tặng cho dân miền Nam để khuyến khích họ.
Vì vậy, biên niên sử đời Gia Long đã tỏ ra bận tâm về sự suy thoái của kết quả thi cử, nhưng cũng thừa nhận rằng có nhiều con đường khác đi đến thành công về mặt tài chánh không qua con đường cử nghiệp.
Đến thời Tây, nhiều bậc cha mẹ không dám cho con đi học, vì sợ bắt con mình đem đi Tây.
“Nhứt là các nơi xa ruộng nương, rẫy bái, hễ có trát sức đòi học trò, thì cha mẹ đã xạo xự làm quá hơn là sợ bắt lính, lo chạy mướn đứa nọ, đứa kia con nhà nghèo cho nó đi thế cho con mình.” (Sơn Nam, ibid., trang 62)
Giữa một điền chủ và một ông Huyện, người dân miền Nam đã hẳn biết chọn tương lai của mình về phía người nào. Ôi! đã có một thời kỳ vàng son như thế.
(Còn tiếp)
© DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và minh họa.
TỪ KHOA CỬ ĐẾN KHOA HỌC
Ngày xưa nước ta chưa có khoa học, hay khoa học chưa được phổ biến, chỉ có khoa cử, và khoa cử được phổ biến rộng khắp nhất. Khoa cử tồn tại rất lâu, sớm nhất cũng từ triều Lê. Nguyễn Trãi là một anh tài của đất nước, một người hiểu biết, học rộng, tài cao, chí lớn, không thấy ghi khoa bảng gì, nhưng là vị anh hùng cứu nước danh thơm muôn đời. Ông là con của Nguyễn Phi Khanh cũng người học rộng tài cao, giàu lòng yêu nước. Khi Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt đem về Tàu, Nguyễn Trãi đã ra cửa ải Nam Quan để giả từ cha, Nguyễn Phi Khanh giặn dò ông phải về nuôi chí lớn trả thù cho cha và giành lại chủ quyền cho đất nước. Sau mười năm giúp Lê Lợi làm nên nghiệp lớn, giải phóng được đất nước, chính tài năng của Nguyễn Trãi cũng đã giúp nhà Lê kiến tạo được nền tảng văn hóa của triều đại để lại cho nhiều đời sau.
Vua cho lập Quốc Tử Giám ở kinh đô để đào tạo học vấn, nhân tài, từ đó cũng mở ra các khoa thi tiến sĩ để tìm người hiền tài giúp nước, khoa cử hữu dụng của nước ta cũng bắt đầu từ đó và các các bia tiến sĩ nổi danh ghi lại tên những người đỗ đạt khi ấy đã ghi dấu một truyền thống văn hóa từ đó về sau của nước ta.
Lều Chỏng là cuốn tiểu thuyết lịch sử hết sức giá trị của nhà văn danh tiếng Ngô Tất Tố, nó cho ta thấy lại hình ảnh của khoa cử ngày xưa, và đó cũng là đợt khoa cử cuối cùng của thời xa xưa khi người Pháp từ phương Tây đến đặt nền đô hộ ở nước ta và từ đó văn hóa cũ đã chuyển hướng thành ý nghĩa của văn hóa mới cho mãi tới ngày nay.
Có nghĩa văn hóa xưa là văn hóa khoa bảng và giàu chất từ chương tuy nó không phải không bổ ích như thế nào đó, còn văn hóa mới là văn hóa hướng về thực dụng và khoa học cụ thể, đó là chương trình giáo dục mới mà người Pháp bắt đầu mang vào nước ta. Đó chính là thời kỳ bút sắt thay thế cho bút lông, chữ quốc ngữ bắt đầu thay cho chữ nho và chữ nôm, có thể coi là khởi đầu cho giai đoạn lịch sử cận đại của nước ta.
Trở lại văn hóa và thi cử hồi xưa mục đích là để lựa chọn nhân tài cho đất nước, lựa chọn những người ra làm quan cho các triều đại quân chủ. Cái học chủ yếu là cái học từ chương, văn học, lịch sử, Hán học là chính. Tài của những người khoa bảng ở đây là tài văn học và tài kinh bang tế thế. Tức chính trị thiên về văn hóa và quản lý xã hội theo tài năng là chính. Và cách lựa chọn đó không ngoài việc khoa trường và thi cử, những người có tài văn chương lịch thiệp cũng là những người hiểu biết sâu rộng về đối nhân xử thế là chính yếu, để dễ dàng vượt được những kỳ thi khiểu khoa bảng và ra làm quan giúp dân giúp nước. Cách lựa chọn bằng tiêu chí đó không phải vô lý, vì đã thông minh tài cán mặt này thì cũng có thể thông minh tài cán ở nhiều mặt khác. Tuy quan văn nhưng cũng sẽ giúp nhiều cho quan võ trong chiến trận hay giúp vua trong trị nước nói chung là như thế. Thế nhưng cũng có mặt trái của nó là tạo cho xã hội quan niệm từ chương, đồng thời có người bất tài nhưng chỉ lợi dụng từ chương thuần túy cũng có được công danh phú quý riêng mà thực sự chẳng ích lợi gì nhiều cho xã hội nói chung. Óc trọng văn khinh võ trong thời bình, óc khoa bảng và danh tước, đó cũng làm phát sinh nhiều mặt tiêu cực trong xã hội. Nhưng giai đoạn lịch sử xa xưa của một xã hội, một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp của nước ta khi ấy cũng không thể nào khác. Ngày xưa nước ta cũng có nền khoa học nào đó nhưng không thể phát triển lên được cũng do nhiều nguyên nhân như thế.
Bởi vậy khi người Pháp qua, lối học xưa và lối thi cử xưa dần dần bị hủy bỏ để theo thi cử mới và nhu cầu học thực dụng mới. Đó là lý do tại sao từ thời kỳ Pháp thuộc xã hội ta lần lần bỏ đi cái học theo Tàu xưa kia để chuyển sang cái học theo Pháp hiện đại hơn sau này, và cũng từ đó tạo nên được đầu óc thực nghiệm và nhiều chân tài khoa học về sau cho đất nước.
Như vậy khoa cử tự nó không phải điều gì xấu, nhưng chính mục đích của khoa cử như thế nào, nội dung đào tạo của nó ra sao, ích lợi thiết thực của nó có hay không ở mặt nào mới là những điều đáng nói. Tất nhiên mọi cái đều có mặt xấu mặt tốt của nó và mỗi con người cũng có mặt hay mặt dở của nó đó luôn luôn là lẽ đương nhiên trong xã hội. Đó là lý do khoa cử không hẳn luôn chọn được người tốt cho xã hội, nhưng ít ra các kỳ tuyển chọn bằng thi cử vẫn là tiêu chí công bằng và khoa học hiệu quả nhất mà từ xưa nay ở khắp nơi trên thế giới đều phải áp dụng.
Ngày nay cũng vậy, phương pháp thi cử ra sao, giá trị thi cử thế nào, việc học hành và thi cử của các lớp sĩ tử là vì mục đích gì và có năng lực để được lựa chọn hay không đó mới luôn là các ý nghĩa căn bản. Bởi thế xã hội Việt Nam mới đây đã có một thời kỳ nêu lên hồng hơn chuyên, mù quáng theo sự ngu dốt của học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, lấy lý lịch làm tiêu chí, lấy công nông kiểu chính trị thiển cận làm mục đích, đó thật là giai đoạn phản nhân văn và phản xã hội không thể nào nói hết được. Tất cả những điều đó sau này sẽ là trò cười mãi mãi về sự ngu dốt cho lịch sử mai sau.
Thật ra theo quan điểm nhân văn muôn đời trong xã hội loài người, văn hóa là ý nghĩa cao nhất của con người, vì trong văn hóa đã bao gồm yếu tố văn minh và yếu tố khoa học kỹ thuật khách quan. Mọi con người sinh ra đời đều bình đẳng tự do, như vậy ngoài hoàn cảnh riêng quyết định, thì giáo dục đào tạo chính là yếu tố làm nên văn hóa và lựa chọn theo cách thi cử khoa học đó là ý nghĩa công bằng cao quý và thực tế của xã hội. Bởi nếu không lựa chọn đúng mức cũng khó phân biệt được đâu là vàng thau thật sự có ích cho xã hội. Nên ngoài khoa học kỹ thuật khách quan thì cách đào tạo nhân bản và cách đối xử nhau nhân bản mọi mặt đó chính là yếu tố của xã hội văn minh văn hóa phát triển mà không phải kiểu đấu tranh giai cấp mê tín dẫn đến cuồng tín và ngu dốt mà từng một thời kỳ trong quá khứ học thuyết Mác đã đầu độc và gây hại cho xã hội.
Nên nói tóm lại, tinh thần khoa cử khoa bảng ngày xưa ngày nay trong thế giới hiện đại không còn ý nghĩa thực tiển và cũng không còn giá trị khách quan gì nữa. Bởi ý nghĩa cao nhất của con người là tri thức và nhận thức, nhưng giá trị trí thức không phải giá trị từ chương lý thuyết suông mà phải là giá trị khoa học về mọi mặt trong đó có khía cạnh khoa học tự nhiên, khoa học cơ bản và khoa học nhân văn và xã hội. Không khoa học thì con người chỉ ngu ngơ và không thực tế. Văn học, văn chương nói chung chỉ có thể bổ sung cho khoa học khách quan mà không bao giờ thay thế cho khoa học khách quan được.
Nhưng trong khoa học khách quan đó có khoa học thực nghiệm và khoa học tư duy. Khoa học thực nghiệm khảo sát về thế giới vật chất còn khoa học tư duy khảo sát về thế giới tinh thần, về ý nghĩa tinh thần của con người. Nhưng khoa học không bao giờ có chỗ dừng mà là tiến trình vô hạn của lịch sử. Dó đó quan niệm học thuyết duy vật của Mác là học thuyết nhằm đến chỗ dừng, nó làm bế tắt hết thảy mọi quan điểm khoa học khách quan của con người, đó thật là quan điểm ngu ngốc chưa hề từng có trong suốt lịch sử hàng nhiều ngàn năm của nhân loại. Nên nói chung lại trong khoa học nhân văn có kinh tế học, chính trị học, triết học, văn hóa học, lịch sử học chẳng hạn đều là những chìa khóa mở ra mọi cánh cửa khoa học vô tận cho thế giới loài người. Như vậy mọi cái gọi là ý thức hệ chỉ là điều càn dở. Bởi ý thức hệ thì chứa đựng những điều chủ quan, hạn hẹp, cảm tính nhiều hơn là ý nghĩa và tinh thần mở rộng cũng như sâu xa trong khoa học. Đó là lý do tại sao một thời kỳ dài ý thức hệ làm thui chột con người, làm thui chột xã hội, biến xã hội thành bạo lực và độc tài, trái hẳn lại mọi ý hướng, mọi nhu cầu tự do dân chủ khách quan đích thực mà mỗi cá nhân con người, mọi tập thể con người, mọi thế hệ con người, mọi xã hội con người, và nói chung toàn thể lịch sử loài người phải luôn luôn có bởi vì đó chính là đại lộ thênh thang của tri thức và văn minh thực tế mọi mặt của toàn nhân loại trên thế giới này mà không gì khác.
THƯỢNG NGÀN
(02/10/16)