Điểm sách: Edward Miller, Misalliance. Ngo Dinh Diem, the United States and the Fate Of South Vietnam

Jarema Słowiak | Trần Giao Thuỷ lược dịch

Cuốn sách Misalliance của Edward Miller khai phá mối quan hệ của Hoa Kỳ với Tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm và vai trò của ông trong lịch sử đất nước. Mặc dù là một nhân vật gây tranh cãi, Diệm vẫn là chủ đề tranh luận trong giới sử học Hoa Kỳ. Miller lập luận rằng việc dựa vào những câu nói rập khuôn về Diệm là thất bại, không nhìn thấy ông như một nhân vật lịch sử. Dùng nhiều nguồn tài liệu tiếng Việt, cả bản in và truyền miệng, Miller muốn cho người đọc thấy con người thực sự của Diệm cùng những mục tiêu và động cơ trong chính sách của ông, vốn đã bị những chính khách, nhà báo và những sử gia đương thời của Diệm hiểu lầm và diễn giải sai. Cuốn sách được chia thành chín chương và gồm một mục lục, chú thích và danh sách những chữ viết tắt và những tài liệu chính phủ đã xuất bản. Tuy nhiên, nó không có một danh mục tài liệu tham khảo riêng, khiến việc tìm kiếm những ấn phẩm cụ thể trở nên khó khăn.

Misalliance, Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam, Edward Miller

Chương đầu tiên, Man of Faith, đi sâu vào cuộc sống của Ngô Đình Diệm trước khi ông được bổ nhiệm làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam vào tháng 6 năm 1954. Nó xóa tan những huyền thoại về tổng thống Việt Nam và vai trò của ông trong lịch sử Hoa Kỳ. Miller khéo léo trình bày việc bổ nhiệm ông không phải là âm mưu của CIA hay áp lực bên ngoài mà là kết quả của những hoạt động hậu trường lâu dài của anh em nhà Ngô và những người cộng sự của họ. Ông cũng đề cập đến vấn đề ý thức hệ Nhân vị của Ngô Đình Nhu và đảng bí mật Cần Lao mà không có thành kiến thông thường của người Mỹ.

Chương thứ hai, New Beginnings, trình bày khái niệm xây dựng quốc gia của Hoa Kỳ và những kế hoạch phát triển nó ở Nam Việt Nam. Miller phân biệt giữa chủ nghĩa hiện đại cao, thúc đẩy sự thay đổi từ trên xuống trong những dự án lớn do trung ương kiểm soát và chủ nghĩa hiện đại thấp, ủng hộ những sáng kiến ​​cỡ nhỏ, dựa vào địa phương. Ông đề cập đến sự hợp tác giữa giới học thuật Hoa Kỳ với những viên chức chính phủ Hoa Kỳ về những dự án xây dựng quốc gia và thái độ ban đầu của người Mỹ đối với Ngô Đình Diệm.

Chương thứ ba, The Making of an Alliance, trình bầy năm đầu tiên Diệm cầm quyền từ tháng 6 năm 1954 đến tháng 5 năm 1955. Chương này nêu chi tiết những biến động và khủng hoảng quan trọng nhất trong giai đoạn này, chẳng hạn như vụ đảo chính hụt của tướng Nguyễn Văn Hinh, cuộc đấu tranh giành quyền lực với Pháp và những tổ chức chính trị-tôn giáo như Hòa Hảo và Cao Đài, những bất đồng và sự hợp tác khó khăn với đặc phái viên bậc đại sứ Hoa Kỳ Joseph Lawton Collins, và cuộc chiến giành quyền lực ở Sài Gòn chống lại tổ chức tội phạm Bình Xuyên. Miller thoát khỏi quan điểm thông thường của người Mỹ bằng cách biện luận một cách thuyết phục cách người Mỹ đánh giá quá cao và cường điệu vai trò của chính họ và khám phá động cơ của Ngô Đình Diệm và phe của ông ta.

Chương 4, Revolutions and Republics, Misalliance là một cuốn sách khám phá những thay đổi về chính trị và kinh tế ở Nam Việt Nam sau Trận chiến Sài Gòn. Cuốn sách bắt đầu với hậu quả của Trận chiến Sài Gòn và sự thay đổi lớn trong chính trường Hoa Kỳ đối với Nam Việt Nam. Sau đó, cuốn sách thảo luận về khái niệm Cách mạng Quốc gia do Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đưa ra, cuộc trưng cầu dân ý truất phế cựu hoàng Bảo Đại và sự ra đời của Việt Nam Cộng hòa. Tác giả lập luận rằng những khái niệm về dân chủ, cải cách ruộng đất và xây dựng quốc gia của Diệm và Hoa Kỳ đủ giống nhau để liên minh và hợp tác nhưng cũng đủ khác biệt để tạo ra căng thẳng và gieo mầm cho sự rạn nứt quan hệ trong tương lai.

Chương 5, Settlers and Engineers, tập trung vào chủ đề gây tranh cãi về cải cách nông thôn ở Nam Việt Nam, không chỉ liên quan đến kinh tế và an ninh mà còn nhằm mục đích thay đổi người nông dân Việt Nam thành một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc gia bằng cách dùng lý thuyết Nhân vị. Miller sử dụng ví dụ về ba chương trình nông nghiệp khác nhau để cho thấy rằng trong khi cách cai trị của Diệm có thể thành công, thì khái niệm phát triển vùng nông thôn của ông đã không thành công.

Chương 6, CounteringInsurgents, thảo luận về hoạt động cộng sản mới bắt đầu lại ở miền Nam, mở đầu bằng vụ ám sát Diệm vào ngày 27 tháng 2 năm 1957. Sự kiện này dẫn đến những hoạt động tàn bạo hơn của chính phủ và sự leo thang của cộng sản thành chiến tranh du kích công khai vào năm 1960. Cuốn sách cũng đề cập đến Cuộc đảo hụt của chính lính dù ngày 11 tháng 11, 1960, đây là thách thức thực sự đầu tiên đối với chế độ cai trị của Diệm kể từ năm hỗn loạn 1955.

Chương 7, LimitedPartners, tập trung vào hy vọng của cả chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ liên quan đến chính quyền của tân tổng thống John F. Kennedy. Cuối cùng, những hy vọng đó đã giảm xuống còn “quan hệ đối tác hạn chế” thay vì một liên minh toàn diện. Cuốn sách cũng đề cập đến sự khác biệt giữa người Mỹ và người Việt Nam về phương pháp thực hiện và mục tiêu của Chương trình Ấp Chiến lược.

Chương 8, MixedSignals, bắt đầu bằng sự lạc quan về tương lai của Chiến tranh Việt Nam, nhưng đột ngột chuyển sang Khủng hoảng Phật giáo vào tháng 5 năm 1963. Những người theo đạo Phật Việt Nam, những người coi tôn giáo của họ gắn liền với số phận của quốc gia, với một tầm nhìn dân tộc chủ nghĩa, khiến họ trở thành đối thủ của Diệm. Mặc dù vậy, họ vẫn chung sống với chính phủ. Sau cuộc khủng hoảng, cả hai bên đều cố gắng thỏa hiệp, nhưng khi mọi thứ leo thang và chính phủ dùng vũ lực, dư luận công chúng Mỹ đã phản đối mạnh mẽ chế độ của Diệm. Tác giả lập luận rằng cuộc xung đột là sự xung đột giữa những tầm nhìn đối lập về Việt Nam, không phải là một động cơ tôn giáo.

Chương 9, The Unmaking of an Alliance, là một bản tường thuật chi tiết về giai đoạn cuối cùng trong quan hệ giữa Hoa Kỳ với Ngô Đình Diệm, từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1963. Tác giả, Edward Miller, đã miêu tả bầu không khí căng thẳng ở Sài Gòn, nơi những tin đồn về âm mưu và phản âm mưu là chuyện bình thường và sự ngờ vực lẫn nhau là chuyện hàng ngày. Miller tập trung vào những âm mưu hậu trường của Ngô Đình Nhu, người đã tìm cách đảm bảo an toàn cho chế độ của anh mình trong khi cố gắng đánh bại nhiều nhóm âm mưu khác nhau và hàn gắn mối quan hệ Việt-Mỹ. Tuy nhiên, ông đã mắc một sai lầm chết người khi đánh giá sai ý định của đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge Jr., người đã làm việc không biết mệt mỏi để lật đổ Diệm và gia đình ông, cuối cùng đã thành công vào tháng 11 năm 1963.

Miller sử dụng rất nhiều nguồn tài liệu tiếng Việt, cả bản in và bản truyền miệng, để tạo nên một bức chân dung phức tạp về Ngô Đình Diệm và mối quan hệ phức tạp của ông với Hoa Kỳ. Ông từ bỏ những lời kể đen trắng về Ngô Đình Diệm, chứng minh một cách thuyết phục rằng những điều và hành động phi dân chủ, hấp tấp, nặng nề và khó hiểu đối với người Mỹ thực sự đã được cân nhắc kỹ lưỡng và hoàn toàn phù hợp với ý tưởng dân chủ trong tầm nhìn của Ngô Đình Diệm.

Misalliance là một cuốn sách viết hay, trình bầy những vấn đề phức tạp theo cách dễ hiểu mà không rơi vào sáo rỗng và đơn giản hóa. Nó nhấn mạnh rằng Ngô Đình Diệm là một người điều hành khôn ngoan, độc lập với tầm nhìn riêng của mình về tiến trình hiện đại hóa của Việt Nam, rằng người Mỹ và người Việt Nam đều muốn kéo cỗ xe hiện đại hóa, nhưng mỗi bên theo một hướng hơi khác nhau và theo một lộ trình khác nhau. Chính trị xây dựng quốc gia ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của cả tầm nhìn cạnh tranh của Mỹ về hiện đại hóa, và những tương tác và sự ganh đua giữa những người Việt Nam được Miller trình bầy một cách thuyết phục.

Tuy nhiên, cuốn sách có một số thiếu sót. Đôi khi khó có thể tìm thấy đánh giá rõ ràng về những quyết định do giới hoạch định chính sách của Mỹ đưa ra, đặc biệt là trong vài tháng quan trọng trước cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963. Ngoài ra, Miller có khuynh hướng bỏ qua những chi tiết quan trọng gây bất tiện cho quan điểm của Hoa Kỳ. Ví dụ, khi viết về Cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11, 1960 của Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông, Miller viết rằng “Diệm và Nhu nghi ngờ — hóa ra là không đúng — rằng một số người Mỹ đã khuyến khích cuộc đảo chính.”

Misalliance của Miller trình bầy sai lệch về những sự kiện dẫn đến vụ ám sát Ngô Đình Diệm. Tác giả đã bỏ qua những tài liệu của Foreign Papers of the United States, cho thấy một số nhân viên Toà Đại sứ Hoa Kỳ đã thông cảm với quân đảo chánh và đã biết trước về cuộc đảo chánh. Ví dụ, Joseph Mendenhall, Tham tán Đại sứ quán về Chính trị Vụ, tuyên bố cuộc đảo chính là một nỗ lực của những người không theo chủ nghĩa cộng sản nhằm lật đổ Chính phủ Diệm.

Miller cũng không đề cập đến thực tế rằng đại diện Bộ Ngoại giao chính là Joseph Mendenhall, ngụ ý rằng phúc trình mô tả “triều đại khủng bố” của Ngô Đình Diệm và nói đến bóng ma của một cuộc chiến tranh tôn giáo do một nhân vật (Mendenhall) muốn truất phế Ngô Đình Diệm ngay từ năm 1960 viết. Tác giả cũng không đề cập đến vai trò của đoàn báo chí Hoa Kỳ trong việc biến dư luận Hoa Kỳ chống lại Diệm.

Miller cũng không đề cập đến động cơ chính trị của Tổng thống Kennedy, người đã đề cử một người có thể là đối thủ trong cuộc bầu cử tổng thống vào vị trí đại sứ tại Việt Nam để kéo Đảng Cộng hòa vào trách nhiệm về chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Điều này khiến Kennedy quá sợ hãi về hậu quả chính trị để ngăn cản sứ thần bất tuân của mình, dẫn đến kết cục bi thảm của Ngô Đình Diệm.

Misalliance cũng không có đoạn cuối về số phận của Diệm, vì nó kết thúc bằng cảnh ông lên một chiếc xe bọc thép và được chở đi.

Cuốn sách Misalliance của Edward Miller là một tác phẩm đáng khen, cố gắng đưa ra một góc nhìn cân bằng về cuộc lật đổ Ngô Đình Diệm, mặc dù có thể đã có một số cố tình bỏ sót. Nỗ lực của tác giả nhằm trình bầy bức tranh chân thực về Ngô Đình Diệm thoát khỏi những câu sáo rỗng được áp đặt là điểm đáng khen, và những nguồn đáng tin cậy dùng trong cuốn sách khiến cho lập luận của tác giả khó bị thách thức. Tuy nhiên, kết luận của cuốn sách vẫn im lặng về hậu quả thảm khốc của cái chết của Diệm, điều này có thể là do Miller muốn lên tiếng cho tất cả những bên liên quan.

Tác giả | Jarema Słowiak hiện đang làm phụ tá giáo sư tại Viện Lịch sử của Đại học Jagiellonian ở Kraków, Ba Lan. Đại học Jagiellonian cũng là trường cũ của ông, nơi ông tốt nghiệp tiến sĩ (2020 – Lịch sử) và hai bằng cao học (2011 – Lịch sử, 2015 – Nghiên cứu Hoa Kỳ). Mối quan tâm nghiên cứu chính của ông là lịch sử quân sự, lịch sử ngoại giao và thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

© 2024 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net

________________________

Nguồn: Jarema Słowiak | Edward Miller, Misalliance. Ngo Dinh Diem, The United States And The Fate Of South Vietnam, Harvard University Press, Cambridge, Massachusetts, London, England 2013, Pp. 420 | ZESZYTY NAUKOWE UNIWERSYTETU JAGIELLOŃSKIEGO Prace Historyczne 143, z. 1 (2016), s. 213–218. doi: 10.4467/20844069PH.15.001.4934. www.ejournals.eu/Prace-Historyczne