Người chỉ đường ở Lyon
Vũ Thư Hiên
Tôi còn bảy ngày rảnh rang trong lúc năm hết Tết đến. Còn chưa biết dùng nó vào việc gì thì bỗng nhiên nhận được một cú điện thoại:
– Đi Lyon chơi đi. Thành phố quan trọng thứ nhì nước Pháp. Tính về độ lớn thì thứ ba. Ở nước Pháp hai mươi năm, thế mà tớ chưa đến đó lần nào. Cậu tưởng tượng được không?
Đó là ông bạn cùng thành phố, một năm gặp nhau một lần.
– Tưởng tượng được. Chính tớ, mới mười năm thôi, nhưng tớ cũng chưa đến đó.
– Ta cùng đi chơi, hả? Tớ có thằng bạn cố tri ở đấy. Tớ sẽ gửi e-mail báo trước cho nó biết. Thằng này cũng độc thân. Nó sẽ đón tụi mình, sẽ dẫn tụi mình đi thăm thành phố. Không có hướng dẫn viên du lịch nào bằng nó đâu.
Tôi OK.
Ngồi lên TGV phóng ào ào rồi mới biết ông bạn cố tri của anh bạn tôi không trả lời. Ông ta hoặc không mở máy PC, hoặc máy của ông hỏng bất tử, đã thế lại lười không ra cybercafe. Thời hiện đại không có nghiã là mọi người đều hiện đại. Người ta kể có ông lãnh tụ một quốc gia nọ đến thăm một cơ sở tin học đã thành thật góp ý với thần dân của mình: “Các đồng chí làm việc tốt, nhưng còn lãng phí nhiều. Trong một phòng làm việc chỉ cần một tivi là đủ, không nên bày ra mỗi người một cái như tụi tư bản”
Anh bạn tôi giận bạn ông bạn cố tri của mình lắm. Tôi không giận. Tôi có những ông bạn còn không thèm biết e-mail là cái chi nữa kia.
Đành phải cười trừ với tình thế. Hoá ra ông bạn tôi thậm chí không có cả số phone lẫn địa chỉ để lùng cho ra ông bạn vàng. Có thể tra cứu trong Minitel ở các nhà ga, các trạm bưu điện, nhưng lười. Mà chắc gì tìm thấy? Trong trường hợp này mẹ tôi ắt mắng tôi “nhanh nhẩu đoảng, thật thà hư”. Không có bạn dẫn đi thì phải tự đi vậy, biết làm sao bây giờ? Với một tấm bản đồ chằng chịt phố xá và linh tinh ký hiệu, chắc chắn là thế rồi. Thêm vào đấy, phải tìm cho ra một nhà trọ vừa túi tiền khi đã quá tuổi ngủ đêm trong nhà trọ sinh viên.
Lyon to kềnh càng. Và kiều diễm đáo để. Từ thế kỷ thứ 12 nó đã có những công trình kiến trúc đẹp kinh khủng. Tôi hoàn toàn bị ngợp trước cái vĩ đại của đại giáo đường Đức Bà trên đồi Fourvière và từng hoạ tiết con con ở mọi bức tường, mọi cây cột, và cả trên cái vòm cao 27m của nó. Ban đêm tôi thường dừng lại nhiều lần bên cái đài cao vòi vọi ở quảng trường Bellecourt để ngước mắt lên chiêm ngưỡng Saint Exupéry bé tí tẹo và cô đơn. Ông nhà văn tài hoa của tôi chắc đang mê mải với một chuyến bay đêm lần thứ n của đời nghệ sĩ. Tôi thích cả những biển hiệu giật gân của Lyon. Tỷ như cái cửa hàng Những Nụ Hôn Man Rợ (Les Baisers Sauvages) ở gần Nhà hát Ca kịch.
Chúng tôi đi với nhau nửa ngày rồi giải tán, mỗi người mỗi ngả, theo sở thích. Bạn tôi là dân nhậu theo phong thuỷ, như anh tự xưng, nghiã là tại hướng đình. Cả làng Ước Lễ quê anh làm nghề giò chả chỉ vì thích khoái khẩu. Anh ngây ngất ngắm khu Lyon Cổ với những quán nhậu san sát, anh lượn lờ ở đó, ăn, uống rồi chê rằng thực đơn bắt mắt, giá cả lại chẳng bình dân. Tôi thích đi dạo, phó mình cho ngẫu nhiên. Tôi la cà dọc những quán sách tựa lưng vào bờ sông Saône, rất giống những quán sách cũ nổi tiếng ở sông Seine, nhưng kém phong phú. Sông Saône nhỏ hơn sông Rhône chảy bên cạnh nó, Nhưng Saône làm tôi nhớ nó rất lâu. Bởi cuộc gặp gỡ khó quên với me-xừ Jean Pierre.
Chiều hôm ấy, vừa rời cây cầu treo trước Palais-de-Justice, tôi thấy thiên hạ đang đi bỗng tốp lại một đống bên đường. Họ ồn ào cười nói, khoa chân múa tay. Thì ra giữa dòng xe đang chạy nườm nượp kia có một ông già đang say sưa vung vẩy đôi tay chỉ đường, cho xe này đi, bắt xe kia dừng lại. Như một nhạc trưởng lên cơn trước dàn nhạc nhập đồng, hai cánh tay gày guộc bay lượn trong rất nhiều tiếng động cơ gầm gừ. Mái tóc rậm bạc phơ bồng bềnh trước gió. Chủ nhân những chiếc xe cũng cười nghiêng ngả trước tay lái. Họ cười to, cười tủm tỉm, cười chiếu cố, nhưng nhất nhất tuân lệnh ông già chỉ đường. Chẳng ai tỏ vẻ bực dọc về chuyện ông ta không biết tự đâu nhảy ra làm cản trở giao thông. Nhất là lại trong cái ngày thành phố bắt đầu treo đèn kết hoa chào đón lễ Giáng Sinh, đường phố ngập người và xe cộ. Thì ra bộ mặt rất mực nghiêm trang của ông già làm cho cái trò đùa bất ngờ đối với mọi người trở nên thú vị. Nó xua tan mọi thứ stress.
Một lát sau mới thấy một anh công an giao thông trẻ măng miệng cười tươi đủng đỉnh tiến đến bên ông già. Anh ta chỉ vào đồng hồ tay, đoạn ghé vào tai ông già, nói với ông câu gì đó. Ông già trợn mắt lên, tuồng như ngạc nhiên. Rồi hiểu ra, ông chầm chậm gật gật cái đầu rậm bù xù, bắt tay anh công an, lắc một chập. Rời chỗ, ông già vênh váo bước lên hè như người vừa hoàn thành một công việc rất đáng tự hào. Ở đó ông hồ hởi gật đầu chào đám đông bộ hành vừa nhập cuộc. Họ hể hả cười vang với ông, những cánh tay chen nhau vươn tới bắt tay ông.
Tôi vẫn đứng đó, bỡ ngỡ trước cảnh tượng được chứng kiến, cho tới khi đám đông giải tán. Ông già lại tưởng tôi đứng chờ để được bắt tay ông, liền chìa tay cho tôi.
– Hân hạnh. – tôi nắm tay ông – Rất hân hạnh!
Cái bắt tay trả lại mạnh hơn tôi nghĩ, với số tuổi của ông. Ông cười hà hà:
– Vất vả. Nhưng mà vui. Không có tôi ấy à, ố là là, mọi sự cứ là lộn tùng phèo. Ông bạn có thuốc lá không?
– Có đây!
Tôi rút bao thuốc. Ông dùng ngón trỏ và ngón giữa gắp một điếu, nhanh như một nghệ sĩ xiếc.
Tôi bật lửa cho ông. Ông cúi xuống, rít một hơi ngon lành.
– Jean Pierre de…
Và nói tiếp một cái họ dài dặc mà tôi lập tức quên ngay cùng với quyết định không cần nhớ. Tôi ấp úng một cái họ Việt khó phát âm và cũng khó nhớ không kém.
Ông ngoắc tay ra hiệu tôi đi theo ông vào chỗ bức tường thấp, nơi dựa lưng của những quán sách, ở đó khuất gió. Và ông ngồi ngay xuống đấy cái ịch, tự nhiên như ngồi xuống sofa nhà mình.
Cử chỉ đó tố cáo ông là một clochard. Từ điển Larousse định nghĩa: “clochard là người vô gia cư, sống cuộc đời lang bạt và nghèo túng”. Không sai, mà chưa đủ. Khi không có gió thổi, một mùi hôi từ người Jean Pierre bốc lên nồng nặc – mùi clochard. Mùi clochard là một đặc trưng cần phải đưa vào từ điển để không thiếu.
– Ông bạn người Indonesia ?
Tôi lắc.
– Cambodge?
Tôi lắc.
– Việt Nam?
Tôi gật.
– Hân hạnh – Jean Pierre trầm ngâm – Ông biết không, tôi đã ở đó, hừm, năm nào nhỉ? 1947. Hoặc 1948. Ố là là, kinh lắm. Nin Bin, Tai Bin (tôi hiểu là Ninh Bình, Thái Bình) Những đồng lúa ngập nước, đầy đỉa. Du kích Việt Minh, lá cây phủ kín người… Những hầm chông. Bọn bắn tỉa… Ố là là!
Lúc đó tôi chưa ra đời.
Tôi ngồi xuống bên cạnh ông. Mùi khăn khẳn đặc biệt của các clochard thường gặp trong các ga Métro của Paris tiếp tục xộc vào mũi tôi.
– Ông đã đánh nhau ở Việt Nam?
– Tất nhiên. Một điếu nữa, hả?
Tôi dúi bao thuốc vào tay ông. Nó biến mất ngay lập tức trong một cái túi nào đó trong rất nhiều cái túi của Jean Pierre.
– Tôi còn đánh nhau ở Algérie nữa kia. Ố là là, ở đó nóng lắm, nóng vô cùng. Và rất nhiều bụi. Tôi đã ở Batna, Biskra, Sid Ben Abbès, Mostaganem, I-n-Salah… Ông nói một tràng những tên thành phố ông đã qua, trong khi nhấm nháp cái âm sắc lạ tai của chúng mắt ông nhoè nước – Có thể, tôi có những đứa con ở đó nữa.
– Ông có bao giờ nghĩ đến chuyện đi tìm chúng không?
– Không. – Jean Pierre lắc đầu quầy quậy – Tìm mà làm gì? Chúng sẽ chẳng biết tôi là ai. Cả mẹ chúng nữa, họ cũng chẳng nhớ tôi…
Jean Pierre ngước mắt nhìn bầu trời thấp đang tối dần. Mùa đông trời thường thấp.
– Nhưng ông tự nhiên lại quan tâm tới những đứa trẻ ấy thì… Ông nhắm mắt lại như nhớ lại một kỷ niệm đã phai nhoà – hừm, ông là một người dễ mến đấy.
Tôi thản nhiên nhận lời khen. Dân clochard là thế. Jean Pierre không phải là clochard đầu tiên mà tôi gặp. Những clochard rất hay gợi chuyện. Họ tha những chai rượu vang rẻ tiền xuống Métro, uống tới say khướt, rồi ngầy ngà bắt một khách bộ hành nào đó vô tình ngồi gần nghe chuyện mình. Tôi thường ậm ừ mấy câu vô nghĩa rồi nhảy bổ vào toa xe khi tàu vừa tới. Nhưng đây là Lyon, thành phố không quen biết, nơi tôi không gặp được ông bạn cố tri của một ông bạn tầm phào để đi chơi cùng, cũng chẳng biết nên rời khỏi nó hôm nay hay ngày mai?
– Được gặp ông là một thú vị đối với tôi. Ông người thành phố này?
Jean Pierre nhún vai:
– Cái đó có ý nghĩa gì trong thời đại của chúng ta? – Jean Pierre triết lý – Một thời đại không chấp nhận những khái niệm địa lý. Con người nay chỗ này, mai chỗ khác. Thời tôi còn trẻ những cuộc gặp gỡ giữa Âu và Á như thế này là hiếm lắm.
Ông hất hàm chỉ về phía trước mặt.
Một đôi trai gái Nhật Bản đi ngang. Người con trai kín đáo quay lỗ ống kính bằng hạt đậu nhọn trên cái máy ảnh digital bằng bao diêm về phía chúng tôi. Tôi nghe thấy một tiếng tít khe khẽ. Anh chàng đã kịp chụp một pô có hai clochard một Âu một Á.
Jean Pierre bảo:
– Tôi thấy hơi đói bụng. Ông bạn thế nào?
Tôi thực thà:
– Tôi cũng thấy đói.
– Vậy thì tại sao chúng ta không đi ăn? Tôi biết một quán cous-cous gần đây, được lắm. Từ ngày ở Algérie tôi khoái món đó vô cùng. Ông đã ăn cous-cous lần nào chưa? Ngon lắm. Đi với tôi. Tôi mời ông bạn mà. Ông đi chứ?
Một bữa tối trong một thành phố xa lạ, một món ăn lạ miệng, lại do một clochard chính hiệu mời, vui thật. Nó có vẻ là đoạn đầu một câu chuyện hay ho. Như chuyện một tay nhà giàu ở Paris phát khùng, bỏ vợ bỏ con, bỏ biệt thự sang trọng trong khu triệu phú, bỏ cả giới thượng lưu, để lang thang làm một clochard dưới đáy. Không phải mọi clochard đều nghèo. Có người nói với tôi như thế.
– Thế nào, ông bạn, đi chứ?
– Tại sao không? – tôi nói.
Chúng tôi đứng lên. Jean Pierre định khoác vai tôi, nhưng cánh tay ông già đã đưa lên lại thõng xuống. Chắc ông chợt nhớ ra, rằng ông có một cái mùi không vừa mũi những người bình thường.
Chúng tôi đi dọc theo ke Tilsitt. Từ đây có thể ngắm cảnh bờ sông bên kia – những ngôi nhà trung cổ nhô ra thụt vào lẫn lộn với những ngôi nhà tiền hiện đại, một nhà thờ Thiên chúa giáo thấp tè, Hôpital Antiquaille đồ sộ, và xa hơn nữa – những tháp nhọn có riềm của Basilique Notre-Dame de Fourvière.
Jean Pierre kéo tôi vào một tiệm ăn xập xệ theo chuẩn mực châu Âu. Chủ quán, một người đàn ông Ả Rập, lông mày rậm và mũi khoằm, nhăn mặt khi nhìn thấy Jean Pierre. Nhưng khách là khách, không thể có sự phân biệt đối xử, ông ta đành nở một nụ cười gượng gạo:
– Bon soir, Jean Pierre!
Jean Pierre gật đầu chào lại, đi đến cái bàn trong góc. Chắc hẳn đó là cái bàn quen thuộc của ông. Tôi ngoan ngoãn theo sau. Ngả người trên ghế, Jean Pierre gọi cous-cous, kèm theo một chai vang đỏ.
Không biết tại tôi đói bụng hay là món cous-cous ở đây do một đầu bếp tài ba nấu, nhưng nó ngon tuyệt. Nó ngon không phải bởi những thán từ “ố là là” của Jean Pierre. Nó ngon thật sự, với cái lưỡi Việt Nam. Nhưng vang Algérie thì ngọt lợ, thua vang Pháp.
Món ăn ngon làm cho Jean Pierre trở nên bốc. Qua câu chuyện trong bữa ăn, tôi mới biết Jean Pierre từng là một quân du kích trong Đại chiến thế giới thứ hai, lúc còn là một thiếu niên.
– Tôi đã cứu nhân loại khỏi thảm hoạ phát-xít. – Jean Pierre giáng nắm đấm xuống bàn – Một anh hùng.
Người cứu nhân loại ăn như rồng cuốn và uống như hũ chìm. Chúng tôi đánh ngã chai vang thứ hai. Nó được mở sẵn từ trong bếp và theo tôi, nhạt hơn và có phần chua hơn chai trước. Jean Pierre không nhận thấy có điều gì khác lạ. Ông cạn hết ly này tới ly khác.
– Sau đó, tôi đi sang Đông Dương đánh bọn phiến loạn…
Tôi nóng mặt, cãi lại. Tôi cũng đã hơi say say. Vang nhạt cũng là vang, vang Pháp hay vang Algérie thì cũng thế. Không phải nước lã.
– Không phải bọn phiến loạn, mà là quân khởi nghĩa. Một cuộc chiến đấu giành độc lập của những người nô lệ.
– Thì cũng như nhau. Có gì khác? Nước Pháp là nước Pháp. Thuộc địa là thuộc địa. Thuộc địa nổi loạn. Nước Pháp dẹp loạn. Ờ Algérie cũng vậy.
– Không thể như nhau được. – tôi nóng mặt – Một đàng là những người chiến đấu cho tự do. Một đàng là quân xâm lược.
Jean Pierre trợn mắt. Tôi nhìn thấy những tia đỏ trong con ngươi mắt ông khi ông nhào cả bộ mặt râu ria lởm chởm qua bàn về phía tôi. Tôi tưởng ông ta sẽ xông vào tôi lúc đó. May, ông chỉ tiếp tục xông vào đĩa cous-cous bỏ dở của tôi mà ông đã kéo tuột về phía mình trong chớp mắt.
Ăn xong, Jean Pierre ợ mấy cái liền với vẻ mặt hết sức khoan khoái. Ông đặt món tráng miệng, nhân tiện gọi chai vang thứ ba.
Chai này còn nhạt hơn nữa. Hoặc là một thứ rượu khác hai chai trước.
– Thì có gì khác? Chúng tôi cũng từng chống bọn bosh khi chúng xâm lược nước Pháp của chúng tôi.
Có khác gì bọn Việt Minh ở Đông Dương của ông bạn. Này, bọn Việt Minh ấy, ố là là, chúng đánh khá lắm. Với tư cách người lính, tôi xác nhận điều đó. Sự thật là sự thật. Như một franc là một franc.
Mi mắt tôi bắt đầu nặng. Tôi bắt đầu không hiểu những câu nói tiếp theo của Jean Pierre.
– Có điều nhìn từ xa những cuộc chiến tranh đều giống nhau.
Ông ta nói những điều không có lý. Nhưng chẳng lẽ thế giới này có lý?
– Sau tất cả những cuộc chiến tranh chết tiệt đó, tôi làm cảnh sát giao thông. – tôi nghe thoảng bên tai giọng lè nhè của Jean Pierre – Đó mới là một nghề ra nghề. Ông bạn hãy tưởng tượng một ngày nào đó tất cả các đèn đường đều tắt ngóm và ở các ngã ba ngã tư ngã năm ngã bảy không có một viên cảnh sát giao thông nào… Ố là là!
Jean Pierre ngước mắt nhìn lên trần, hai tay ôm lấy đầu, hình dung ra cái ngày khủng khiếp đó.
Tôi gật gù, chỉ để chứng tỏ tôi đang chăm chú nghe.
– Rồi tôi về hưu. Nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn ra đường hỗ trợ các bạn đồng nghiệp. Ố là là, họ cần tôi lắm. Suy rộng ra, cả nhân loại vẫn còn cần tôi. Như ông bây giờ. Ông cũng cần tôi trong cái thành phố này, đấy, rồi ông thấy. Ông bảo ông mới tới lần đầu?
– Tôi mới tới lần đầu.
– Tối nay tôi sẽ dẫn ông tận nơi ông cần tới. Ông hơi say rồi. Ông sẽ không tìm nổi đường trong tình trạng này.
– Không, tôi không say.
– Đừng cãi. Ông sẽ không tìm nổi khách sạn của ông đâu khi xe công cộng càng về khuya càng thưa chuyến. Tôi là người chỉ đường mà. Không phải cho một mình ông. Mà cho cả nhân loại. Hề hề…
Khuya thật rồi. Những người khách cuối cùng đã lần lượt đứng lên trả tiền và ra về. Tôi kiên nhẫn chờ người chỉ đường cho cả nhân loại trả tiền cho bữa ăn tối. Ông ta mời tôi mà. Nhưng Jean Pierre hình như quên bẵng chuyện đó trong sự vướng bận với những ý nghĩ trọng đại về sứ mệnh cao cả. Phép lịch sự không cho phép tôi giục ông.
Ông chủ quán mũi khoằm đứng bên trong quầy thỉnh thoảng lại ném cho tôi một cái nhìn nghi ngại. Rõ ràng ông ta sốt ruột chờ tôi ra một cử chỉ gọi ông tới tính tiền.
Jean Pierre tiếp tục uống nốt ly rượu còn lại với vẻ suy nghĩ lung. Tôi thất vọng. Tôi chờ thêm một lát nữa. Jean Pierre có dáng kẻ ra gan, không thèm để ý đến tôi.
Khi đã không còn có thể kéo dài thời gian hơn nữa, tôi thò tay vào túi áo, rút ví.
Chủ quán lập tức xuất hiện bên cạnh tôi với cái đĩa cáu bẩn, trên đó nằm chềnh ềnh mảnh giấy tính tiền.
Món cous-cous tuyệt vời được tính với giá rất rẻ. Nhưng khoản trả cho ba chai vang dở ẹt thì được phóng đại tới mức Andersen vĩ đại cũng phải sửng sốt. Ở nước Pháp không có lệ kì kèo khi trả tiền cho bữa ăn. Tôi không quên bỏ thêm vào một euro tiền boa, cũng theo tục lệ của nước Pháp có truyền thống văn minh lâu đời.
Những ý nghĩ trọng đại lập tức rời bỏ Jean Pierre, hoặc là chính Jean Pierre rời bỏ chúng, và chúng tôi đứng lên.
Jean Pierre nhìn tôi âu yếm. Cái nhìn của ông chan chứa tình yêu. Ông khoác áo ngoài cho tôi, cẩn thận cài từng cúc áo:
– Tiết trời bây giờ tệ hại lắm. Lại có dịch cúm nữa. Phải ăn vận cho ấm vào. Nước Pháp đẹp thật, nhưng đầy rẫy nguy hiểm. Phải quàng khăn chặt thế này này mới bảo vệ được cái họng.
Ông nhẹ nhàng đưa tay lên khoác vai tôi, dìu tôi đi qua những phố sáng và những phố tối. Mỗi khi qua đường, ông giơ tay ra hiệu ngăn những chiếc xe đi tới bằng một dáng điệu trịnh trọng và kiên quyết. Xe cộ tuân lệnh ông răm rắp, làm tôi bất giác phải kính nể ông bạn clochard già lão, giờ đây không còn thấy bốc mùi.
Sáng ngày ra, tôi quyết định quay về Paris. Chúng tôi đã ở đây bốn ngày. Anh bạn tôi thấy thăm Lyon thế đã đủ.
Trong khi chờ chuyến tàu tốc hành sớm nhất, chúng tôi vào một quán điểm tâm. Ăn xong, tôi đưa tay vào túi rút ví để trả tiền thì không thấy nó ở chỗ cũ. Tiếp tục tìm nó ở những chỗ nó không thường ở cũng không thấy nó đâu.
Anh bạn tôi mỉm cười:
– Bị móc mất rồi phải không? Ở đâu?
Tôi nhún vai. Có trời biết tôi đã đánh rơi ví ở chỗ nào. Có thể khi trả tiền bữa ăn tối tôi đã bỏ nó không đúng chỗ, tức là vào túi mình. Lúc ấy tôi say.
Tôi xua đuổi ý nghĩ tầm bậy rằng người chỉ đường cho nhân loại đã cầm nhầm cái ví của tôi trong khi ân cần cài mọi cúc áo cho tôi khỏi bị cảm. Nghĩ như thế thì tệ quá.
12/2002
Nguồn: Người chỉ đường ở Lyon Vũ Thư Hiên. Blog Thêm Một Niềm Vui. Friday, 23 February 2007