Những ý kiến chung quanh 20 năm Văn học miền Nam (II)
Thư Quán Bản Thảo
Điều hợp: Nguyễn Lệ Uyên
Tham dự: Luân Hoán, Trần Doãn Nho, Trần văn Nam, Trần Hoài Thư, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Vy Khanh, Lữ Quỳnh, Phạm văn Nhàn, Trần thị Nguyệt Mai
–Nguyễn Lệ Uyên: Những nhận định và dẫn chứng minh họa của THT, TVN, NM và NVK đều chính xác. Và, về vấn đề này, đã được các nhà phê bình văn học khẳng định.
Trong các tác phẩm văn học tự nó đã được xuôi theo dòng chảy sáng tạo đa chiều như một lẽ tự nhiên mang giá trị nội hàm về tính nhân văn trong một thế giới không có rào cản, không có sự cấm kỵ. Mọi hiện thực xã hội đều được phơi bày theo cảm quan chân thật của từng tác giả mà ý thức tự do và nghệ thuật được hiểu như luôn là những tìm tòi và đứng về phía cái mới được tôn trọng, đặt lên hàng đầu. Với anh bạn thiết, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, tôi đã từng nói: làm thầy thuốc là để cứu người, làm nhà văn là để cứu đời. Cứu đời ở đây, nằm trong nghĩa văn chương đưa đến cái đẹp cho mọi người dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đưa tác phẩm vào đời sống thật vượt thời gian, vượt mọi thiết chế chính trị. Mỗi một nhân vật trong đó đều mang một bộ mặt khác nhau, tiêu biểu cho các tầng lớp khác nhau, để tạo thành bức tranh xã hội thu nhỏ một cách hoàn hảo trong mọi thời đại. Thời phong kiến, dưới áp lực của Khổng Nho, nhưng Nguyễn Du đã có sự tự do tuyệt đối trong sáng tạo.
Trong 20 năm văn học Miền Nam, chúng ta chưa có những tác phẩm toàn bích như Truyện Kiều, nhưng mỗi một tác phẩm, tác giả cũng đã xây dựng nhân vật, bối cảnh xã hội riêng biệt và hoàn hảo không kém. Mỗi một nhà văn khai thác đề tài ở một góc nhỏ, nhưng nếu gộp chung lại những tác phẩm ấy tạo nên sự đa dạng sắc màu như một vườn hoa nở rộ giữa mùa xuân. Chính sự tự do sáng tạo, tính nhân văn trong tác phẩm đã làm nên sắc màu và hương thơm trong vườn văn ở một giai đoạn ngắn ngủi nhưng rực sáng, đáng tự hào, nếu như mang ra so sánh với dòng văn học cùng giai đoạn này với ngoài kia.
–Trần Doãn Nho: Về điểm này, tôi có trình bày khá kỹ trong bài thuyết trình của tôi tại tòa soạn nhật báo Người Việt ngày 6/12/2014, được in lại trong số báo này.
Nguyễn Vy Khanh: Về VHMN 1954-1975, vẫn còn nhiều đề tài, và vấn đề để nhìn lại lắm. Gần đây tôi muốn xem lại bộ phận “phản chiến” (kiểu thực chất và huyền thoại) và cái CSVN vẫn đề cao và gọi là “văn học Mác-xít ở miền Nam” và đã ghi lại được một số ý tưởng. Tạm thời tôi xin nhắc lại để anh em thảo luận*:
–Lữ Quỳnh: Tôi coi trọng ý kiến của anh Nguyễn Vy Khanh, khi cho rằng Văn Học Miền Nam 1954-1975 vẫn còn nhiều đề tài, vấn đề để nhìn lại lắm. Mong rằng ghi nhận của anh về bộ phận “phản chiến” và cái mà Cộng Sản Việt Nam vẫn đề cao và gọi là “văn học Mác-xít ở miền Nam”, được làm rõ. Bên cạnh đó, đánh giá giòng văn học Miền Nam giai đoạn 1963-1975, là thời điểm bắt đầu cuộc nội chiến cho đến ngày kết thúc, đã giết hàng triệu thanh niên hai miền một cách oan uổng, trong đó có bạn bè và gia đình chúng ta. Một nhà văn tử trận khi còn rất trẻ là Y Uyên với nhiều tác phẩm để lại, một Doãn Dân chết mất xác ở Đại lộ Kinh Hoàng – Quảng Trị năm 1972, một Trần Hoài Thư khốn khổ với những tháng năm hành quân ở Bình Định; và còn nhiều nhà văn khác nữa đã ra đi.
Những tác phẩm của họ chưa đủ tầm để được nhắc đến, được nằm trong giòng văn học Miền Nam 20 năm hay sao, bởi các nhà phê bình, trong các cuộc hội thảo?
Tôi tin anh Nguyễn Vy Khanh hiểu những trăn trở này, và, vì anh là nhà phê bình, mong anh hãy tìm hiểu, để trả lại sự công bằng, bình đẳng cho những nhà văn không đủ, không còn điều kiện để lên tiếng.
–Nguyễn Vy Khanh: Từ những năm 1964, văn-chương miền Nam dần rời vùng đất hiện sinh, con người văn-nghệ dấn thân đi đến thái độ đối kháng rồi phản kháng – chống Thượng đế, chống thẩm quyền, thượng quyền, nhóm bảo thủ, từ đó có thể thành vô chính phủ hoặc bi quan tột cùng.
Trước hết có những danh xưng cần thẩm định, định nghĩa: Phản-kháng: hiếm có tính nghệ-thuật (ngoài nhạc của TCS), đa phần có tính chính-trị (Nguyên Vũ,…). Phản kháng liên hệ và nhắm một chế độ chính-trị (cũng như phản kháng chống cộng-sản Việt-Nam của văn-học hải-ngoại sau 1975!), nhà văn phải can đảm tỏ bày thái độ chính-trị của mình đối với chế độ chính-trị đó. Và chế độ bị phản đối cũng sẽ sử-dụng thứ văn-chương phản kháng để lèo lái, cài người, để tranh thủ ‘chính nghĩa’ hay phần thắng. Nếu không có hậu ý chính-trị, đảng phái, thì thứ văn-chương phản kháng đích thực sẽ được đón nhận, hoan nghênh. Mà ở đâu có thể có phản kháng có nghĩa là ở đó đã có tự do tư tưởng; nhà văn thơ phản kháng chống cái tưởng là xấu, là tiêu cực, sự việc đó đã chứng tỏ bề mặt tích cực của chế độ!
Phản-chiến: –1, chống chiến-tranh vì chiến-tranh tàn phá đất nước và con người. Phản chiến theo nghĩa này là tiếng nói chân thật của lương tâm và lý trí con người (Thảo Trường, TCS,…); –2, chống chiến-tranh do người cộng-sản Hà-nội đưa vào miền Nam, với ý đồ thống nhất và cộng-sản hóa đất nước Việt-Nam, chiến-tranh Hà-nội thực hiện ở miền Nam với người của miền Nam (MTGP Dân tộc/ MTGPMN thực ra chỉ là chiêu bài cốt tuyên truyền, cổ võ chiến-tranh); –3, chống chiến-tranh do Mỹ và Việt-Nam Cộng Hòa chủ trì (thực ra là chiến-tranh tự vệ chống lại ý đồ xâm lăng miền Nam của Hà-nội cộng-sản, và mang ý nghĩa bảo vệ miền Nam, bảo vệ tự do, bảo vệ và cổ võ cho dân chủ). Nếu phản chiến mà nhục mạ quân lực Việt-Nam Cộng-Hòa, thì không còn là phản kháng nữa, mà là một hành động chính-trị đội lốt báo-chí, văn-học, lạm dụng dân-chủ tự do mà chế độ cho phép, để ‘phản bội’, có thể là do tập đoàn, đảng phái giật giây.
Hòa-bình: chiêu bài, biện minh cho việc cổ võ chiến-tranh; còn con người nói chung và người Việt nói riêng đều mơ ước hòa-bình.
Sau khi chế độ đệ nhất cộng hòa bị đảo chính, miền Nam rơi vào hỗn loạn, bạo động. Từ mất chủ quyền khó tránh mất “chính thống” khi tuyên truyền, chiến tranh tâm lý và chiến tranh lạnh bủa vây. Giới trẻ không kinh nghiệm cộng sản đâm ra hoang mang, mất niềm tin hoặc bất cần hoặc sống hiện sinh cho đã cái hôm nay. Từ khi chiến tranh trở nên khốc liệt cho đến cuối cuộc chiến, một dòng văn chương phản chiến càng phát triển mạnh. Càng về cuối cuộc chiến, phong trào phản chiến càng mạnh vì đồng minh Hoa kỳ đã để lộ một số bộ mặt không mấy lịch sự, “đồng minh” cho lắm, rồi Việt Nam hóa chiến tranh, xã hội đồi trụy và lãnh đạo càng lộ liễu tham nhũng, đái nát.
Theo thiển ý cần phân biệt loại phản chiến hay cấp tiến chân thành của những người làm văn hóa, những tiếng nói của lương tâm (ít ra là của họ) không thể không nói vì muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn có thể lịch sử sẽ phê bình họ sai, như Nguyễn Văn Trung, Nhất Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín (chủ trương Đối Diện, công khai chống chính phủ Sài-Gòn theo kiểu “sống thẳng, nói thật”, “cúi ngửa theo người quyết chẳng theo”), v.v… – với loại phản chiến có bàn tay điều khiển của Việt cộng nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lưu Nghi, Vân Trang, Minh Quân, v.v… Những người này ồn ào giả lên tiếng “bảo vệ văn hóa dân tộc” như Lực Lượng cùng tên với tờ báo Tin Văn (1966) nhưng thực chất là gây rối ngay trong lòng “địch”. Các tạp chí Hành Trình (1964), Đất Nước (1967), Trình Bầy (1968), Đối Diện (7-1969), v.v… là đất trổ cho thứ văn học phản chiến này, Văn và Bách Khoa cũng đăng nhiều thơ truyện phản chiến của các cây viết mới như Ngụy Ngữ, Hồ Minh Dũng, Trần Hoài Thư, v.v… Vấn đề là người lãnh đạo phải biết chấp nhận sinh hoạt dân chủ lắng nghe, phải tạo những cơ hội nhìn thẳng sự kiện và sự thật thường muôn mặt. Nước Việt Nam ngày nay có thể khác và hàng triệu sinh linh có thể hãy còn bên cạnh chúng ta nếu những tiếng nói “thiên hữu” thời Nhân Văn Giai Phẩm và sau đó trong lòng chế độ Hà Nội cũng như những tiếng nói “thiên tả” ở miền Nam Cộng hòa đã được nghe!
Trở lại dòng văn học phản chiến, nói chung là những phẫn uất của trí thức nhưng không tiếng nói, những người dấn thân chính trị nhưng không có đất đứng. Xã hội điêu tàn, giá trị văn hóa đảo lộn, người miền Nam nạn nhân của chiến-tranh nhưng kêu gọi tình huynh đệ, (vô tình) đòi giải quyết chiến-tranh và chuẩn bị hòa bình.
Nhóm Trình Bầy gồm nhiều giáo-sư, trí thức và văn-nghệ sĩ ‘dấn thân’ “tiến bộ”, với bích chương “chống Mỹ cứu nước,” khi ông ra ứng cử dân biểu quốc hội, như Trần Tuấn Nhậm… Nhóm Trình Bầy cổ xúy một loại văn-chương phản chiến, chính trị nhập cuộc, văn chương không thể thờ ơ trước những vấn đề lớn lao của đất nước như chiến tranh, như sự có mặt của quân đội Mỹ và đồng minh ở miền Nam… Vì thế có lúc Trình Bầy đã tấn công nhà văn Mai Thảo, người đứng đầu nhóm Sáng Tạo và gọi khuynh hướng văn chương của nhóm Sáng Tạo là “khuynh hướng văn chương…viễn mơ”, khuynh hướng văn chương chạy theo phong trào văn chương hiện sinh, quay lưng lại những khổ đau của đồng bào, đất nước!
Ngày Mai rồi Bút nhóm Việt ở Huế với Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Võ Quê, Đông Trình, Bửu Chỉ, Võ Trường Chinh, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Phú Yên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường Sơn Ca, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật, Lê Gành… Trước 1975, họ viết theo chỉ thị, mệnh lệnh để tố cáo chế độ miền Nam, xuyên tạc hay làm tuyên truyền, trên các báo Đối Diện, Bách Khoa, v.v… Là một nhóm trẻ theo Cộng “đánh Mỹ” và công khai chống chế độ cộng hòa miền Nam, được chế độ cộng-sản đánh bóng gọi họ là những “thanh niên trí thức đô thị miền Nam”. Họ sử dụng chuyện nhỏ, tiểu tiết, ngoại lệ (ức hiếp, lợi dụng, ‘chuồng cọp’, v.v…) để tổng quát hóa làm lớn chuyện tuyên truyền. ‘Chuồng cọp’ của trại tù miền Nam – do thực dân Pháp làm ra, nhưng làm sao có thể so sánh được với nhà tù Hỏa Lò ở Hà-nội và những trại tù ‘cải tạo’ trên khắp nước Việt-Nam sau 1975 của cộng-sản? Nếu có thống kê thì những tù nhân của ‘chuồng cọp’ có mấy người đã chết vì tù hay gần như tất cả đều trở ra sau 1975 và nhiều người được chế độ thưởng công cho giữ những chức vụ trưởng, phó đầu ngành văn nghệ, thông tin của Nhà Nước? Còn thống kê về những kẻ sống ở miền Nam bị đòn tù ‘cải tạo’ thì sao, bao nhiêu chết trong trại tù (có thể trên 100 ngàn) và bao nhiêu được thả về để chết ở nhà hoặc lê lết bệnh tật chết mòn?
Nhóm Ý Thức ở Phan Rang và các tỉnh miền Trung có tờ báo in ronéo Ý Thức và nhà xuất bản cùng tên tụ tập những cây viết Trần Hoài Thư, Võ Tấn Khanh, Mang Viên Long, Kinh Dương Vương, Hồ Mạnh Dũng, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Trần Hữu Ngũ, Châu Văn Thuận, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Nguyễn Lệ Uyên, Chu Trầm Nguyên Minh, v.v… Cũng phản đối chiến-tranh nhưng nhóm Ý Thức của những người cùng tuổi với nhóm Việt, tỏ ra phẫn nộ với lương tâm và ý thức công dân khác nhóm ở Huế. Thơ truyện của họ viết chống các cấp chỉ huy xôi thịt, những cách điều khiển chiến-tranh phi lý, phí phạm, tả những cảnh cực hình lao công chiến trường (Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư) hay cảnh tòa án quân sự, hay trốn lính, đào ngũ, trình diện trễ, bất tuân thượng lệnh, v.v… Các cây viết thuộc khuynh hướng này nói lên cái tiêu cực nhưng đồng thời họ đang cầm súng chống cộng-sản và bảo vệ miền Nam. Sự có mặt của họ cùng với các nhà văn khác như Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, các nhóm Thái Độ của Thế Uyên, Hành Trình của Nguyễn Văn Trung, Trình Bầy của Thế Nguyên, Diễm Châu, Giữ Thơm Quê Mẹ của văn nghệ sĩ và tu sĩ Phật giáo, Đối Diện của trí thức tu sĩ Công giáo (Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, …), v.v..; chứng tỏ miền Nam đã trưởng thành về chính trị, chấp nhận đối lập và tiêu cực dù trong tình cảnh chiến tranh khốc liệt, dù rằng đức tính đó (và nhân đạo) đã bị lạm dụng và trong nhiều trường hợp đã tỏ ra yếu kém (Vũ Hạnh, Lữ Phương, Tin Văn, nằm vùng, gián điệp, v.v…). So với nhóm Việt, nhóm Ý Thức nhiều người cầm súng, để bảo vệ miền Nam tự do, không lựa chọn, hay nói cách khác họ phải bảo vệ đất nước của họ, dù họ biết cấp trên có người không tốt, chính quyền có thành phần lợi dụng, phung phí tài nguyên. Lời của Trần Hoài Thư:
“Tôi đang viết về một thảm kịch, cho con cháu chúng ta trong tương lai, để sau này khi lớn lên chúng sẽ hiểu về cuộc chiến này. Đêm qua, cả làng bên sông, nơi mà bọn tôi đã đến và gìn giữ, sau đó bàn giao lại cho nghĩa quân và xây dựng nông thôn, đã bị pháo dập. Địch kéo về cả đại đội chọc thẳng vào làng. Từ lâu những người bên kia đã coi cái làng như một cái gai cần phải nhổ bằng bất cứ giá nào. Những người ngồi ở Sài Gòn hay Hoa-thịnh-đốn thì muốn coi ngôi làng như một thành công trong chính sách bình định phát triển. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Họ đã ngu xuẩn để hiểu về kế hoạch bảo vệ dân làng về lâu về dài. Một trung đội nghĩa quân làm sao đủ sức che chở cả ngôi làng. (…) Tôi đã đến cùng với bãi hoang tàn để hiểu rõ hơn về sự thật của cuộc chiến. Cuối cùng cũng vẫn là dân vô tội. Rõ ràng chúng ta đã bị thua. Chúng ta đã đến với họ, mang lại niềm tin cho họ, nhưng chúng ta không thể bảo vệ họ…”(Nhật Ký Hành Quân). Cuộc chiến đã khiến con người đánh mất phẩm giá, trở thành biện minh dễ dãi cho mọi hành động: “Chiến tranh, tôi phải cảm ơn nó, để tôi có thể dẹp bỏ hết những sự ghê tởm, khinh bỉ cái quá khứ rục mửa của tôi. Chiến tranh đã giúp cho tôi thấy rõ rằng mọi sự là vô nghĩa, là hư vô. Đừng bận tâm và thắc mắc. Đừng tự ái và ghê tởm. (…) Xã hội này thối nát này phải cảm ơn chiến tranh…”.
Người lính của Trần Hoài Thư đáng tội, chỉ vì anh có suy nghĩ, biết nhìn thấy những bất nhân và bất công, những tâm địa và tư cách của những kẻ cùng chiến tuyến!
Cần phải nhận định lại khuynh hướng này qua các tác giả Thảo Trường, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, Thế Uyên, Trần Hoài Thư, Nguyên Vũ, Hoàng Khởi Phong, Luân Hoán, Thái Lãng, Nguyễn Bắc Sơn,… cũng như Kinh Dương Vương, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, Trần Duy Phiên, Cung Tích Biền,…
Văn-nghệ phản chiến đã xuất hiện – và chỉ có ở miền Nam vì miền Bắc từ sau biến cố Nhân Văn Giai phẩm đã không có tiếng nói khác với điệp khúc cổ võ chiến-tranh của Đảng và Nhà Nước, và khuynh hướng văn-nghệ này lan rộng ở miền Nam từ những năm 1965, 1966 cho đến cuối cuộc chiến tháng Tư 1975. Đây là do ảnh hưởng và là hậu quả của phong trào phản chiến ở Hoa-kỳ và một số diễn đàn thiên tả ở Âu châu, phong trào “make love, not war”, khởi từ cuộc biểu tình cho hòa bình (Mother’s day Peace March) tại Hoa Thịnh Đốn ngày 14 tháng 4 năm 1965 sau khi Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng. Các sinh viên du học như Ngô Vĩnh Long, cùng các giáo-sư thiên tả như Noam Chomsky và Howard Zinn đi đến nhiều đại học thuyết trình về sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam cũng như tác động các cuộc biểu tình phản chiến của sinh viên Hoa-kỳ. Phong trào phản chiến được nuôi dưỡng thêm với những trí thức thiên tả như Bertrand Russell, Jean-Paul Sartre,… Và dĩ nhiên có ảnh-hưởng của nhạc phản chiến, bên cạnh phong trào sống hippy ở Âu Mỹ. Những phong trào nghệ-thuật cổ võ hòa bình ở Âu Mỹ đã tạo ra dòng nhạc phản chiến với những nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Nhạc phản chiến của Bob Dylan đã vào Việt-Nam qua những ca khúc với những lời lẽ tả thực chiến tranh cốt để chống đối, phản kháng. Còn ca sĩ Joan Baez từng đến hát Hà Nội năm 1972.
Người nghệ sĩ Việt-Nam nhảy vào cuộc chống đối qua âm nhạc với khuynh hướng nhạc “tâm ca” của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Khác với phong trào Du Ca (chính thức thành lập 19-12-1966 tại đại học Ðà Lạt) và một số phong trào Thanh niên thiện chí, Sinh hoạt học đường, CPS, …, Tâm ca kêu gọi hòa bình, tình đồng bào, còn nhạc Trịnh Công Sơn thì công khai tố cáo chiến tranh (nội chiến), kêu gọi hòa bình bên cạnh những ca tụng tình người, nô lệ da vàng, thân phận nhược tiểu:
Một buổi sáng mùa xuân / Một đứa bé ra đồng
Đạp trái mìn nổ chậm / Xác không còn đôi chân.
Nhạc Trịnh Công Sơn đã trở thành hiện-tượng và huyền thoại Trịnh Công Sơn vào những năm 1966-1972 vì nhạc của ông đã đáp ứng lại một số khát vọng của con người thời đại, nhất là ở chốn thị tứ, học sinh, sinh viên và một số trí thức. Ông diễn tả buồn đau trong thân phận làm người. Nhạc tình và nhạc tranh đấu kêu gọi hòa-bình và thân phận con người trong chiến tranh; những ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng như Người Con Gái Việt Nam Da Vàng, Ðại Bác Ru Ðêm, Tình Ca của Người Mất Trí, Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt Trời,… Chiến tranh không còn từ xa vọng về mà nay đang ở trước mắt và với ông, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn mà chính người Việt Nam đôi bên đều là nạn nhân. Dù sao cũng phải nhìn nhận Trịnh Công Sơn đã làm mới ngôn ngữ qua cấu trúc, hình ảnh cũng như những “ý tại ngôn ngoại” bí ẩn của con chữ! Từ năm 1968 tiếp đó nảy lên một khuynh hướng nhạc đấu tranh do Việt-cộng điều động với những Phạm Thế Mỹ, Miên Đức Thắng, Tôn Thất Lập, … cùng Trịnh Công Sơn.
– Trong khi đó, ấn phẩm cộng-sản Việt Nam cổ động, hô hào chiến-tranh – Văn học phản kháng, chống đối thẩm quyền miền Nam để hỗ trợ chiến-tranh chống Mỹ và xâm chiếm miền Nam. Nếu văn-nghệ sĩ miền Nam vì ước mơ hòa-bình mà phản chiến thì văn công miền Bắc cổ võ trường kỳ chiến-tranh nhưng lại nhân danh “hoà-bình”! Ấn phẩm cộng-sản cổ võ chiến-tranh đến cùng, không ngừng nghỉ, nêu đủ lý do để chiến-tranh (chống phong kiến, phát xít, ngoại xâm, thực dân mới, v.v…) với thơ văn chiến-tranh của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, … Hà-Nội chú trọng nhiều đến việc in tài liệu tuyên truyền và báo-chí trong bưng: cổ võ chiến-tranh, giết ‘kẻ thù’, … Tóm một chữ, thơ văn sát khí, cổ võ hờn căm, phân bạn chia thù. Một văn học của chiến tranh, chống Mỹ mà họ gọi là “sen đầm quốc tế”; văn học muốn “cứu nước” và cứu người miền Nam khỏi tay thực dân mới cũ (!). Đối với Cộng Sản mà cầu hòa là đầu hàng vô điều kiện, phản chiến là từ bỏ khí giới cho địch thủ ám sát mình. Những người trí thức, dù họ là ai, cũng chỉ nhìn vấn đề trong suy luận, chứ không thể nhìn trong thực tại, mà thực tại ở Việt Nam với cuộc chiến này nó khác hẳn với các cuộc chiến tranh trên thế giới. [Trong một bài trên tạp chí Sông Hương sau này, Lê Xuân Việt cho rằng, văn học trước 1975 ở miền Bắc “tập trung xây dựng hình tượng giàu tính lý tưởng về người anh hùng” do đó “yêu cầu phản ánh kịp thời, động viên tinh thần quần chúng đôi khi lấn át cả những đòi hỏi của chất lượng hình tượng văn học đáng ra cần phải đạt được mà người nghệ sĩ phải cần mẫn, miệt mài trong sáng tác” (“Kết cấu của tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh”. Sông Hương 10-1996. Tr. 57)].
* Về “Mảng” văn-nghệ Mác-xít, cộng-sản 1954-1975:
Trong hơn 20 năm văn-học miền Nam, đã có sự hiện diện của một khuynh-hướng văn-nghệ Mác-xít hay Mác-Lê và cộng-sản – chúng tôi phân biệt Mác-xít hay/và Mác-Lê thiên lý thuyết chính-trị và cộng-sản khi áp dụng vào đấu tranh cách-mạng và đời-sống cụ thể.
Từ thời đầu 1954 cho đến 1975 đều có những nỗ lực đến gần chủ nghĩa Marx, nhất là đối với một số trí thức, nhà văn Công-giáo thiên về đấu tranh cho công bằng xã hội, vì tự bản chất, đạo Thiên chúa đến với trần gian (qua Jesus) để đem đến công bằng xã hội, tình người, … chống lại người Do Thái đạo đức giả, v.v… Các tu sĩ các dòng Phanxicô, anh em hèn mọn (Phước sơn), v.v… sống gần và sống vì, sống với người nghèo, khốn khó, có những cá nhân tu sĩ và hội đoàn như Thanh sinh công (trụ sở ở chợ Cầu Ông Lãnh, Sài-Gòn). Nghĩa là chủ nghĩa Marx vào miền Nam qua các trí thức, sinh viên, tu sĩ du học ở Pháp, Bỉ, Ý về. Ông cố vấn Ngô đình Nhu (thời 1954-63) có những bài viết, diễn văn theo chiều hướng thiên tả này (chủ nghĩa Cần Lao, tạp-chí Xã Hội). Sau 1963 có những hội đoàn, nhóm trí thức, nhà văn thiên tả hay xã hội như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Thanh Lãng, Thế Nguyên, v.v… Những mảng văn-hóa này được tự do phát triển, công khai – dĩ nhiên mảng văn thơ, sách báo cách-mạng do miền Bắc và Mặt trận Giải Phóng miền Nam điều động thì bị hạn chế nhưng không bị cấm đoán (chỉ bị kiểm duyệt phần nào). Nghiên cứu mảng văn-học này cần tham khảo các tạp-chí xuất-bản thời miền Nam, nhất là Trình Bầy, Hành Trình, Đối Diện, Đất Nước, Tin Văn, Văn Học,… cũng như báo-chí sinh viên từ các phân khoa Văn, Sư phạm Sài-Gòn, đại học Vạn Hạnh, v.v.
Khác với miền Bắc mà nền văn-nghệ cùng lý luận văn nghệ Mác-xít trong thực tế là một phó bản của thẩm mỹ học Liên Xô cộng-sản, ở miền Nam khuynh-hướng này tự do đi từ lý thuyết đến phát biểu cụ thể trong sáng-tác văn-nghệ. Miền Bắc cộng-sản đã lập “khung tri thức” định hướng cho các sinh hoạt sáng tác và lý luận phê bình văn học, mà gần đây nhiều nhà lý luận văn-nghệ đã nhận chân và chứng minh những hạn chế hiển nhiên của phản ánh luận Mác-xít trong phiên bản Xô Viết, dưới ánh sáng của “nhóm Bakhtin, lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực của G. Lukacs, v.v… Phó bản thẩm mỹ học Mác-xít Xô-Viết mà nền lý luận văn nghệ Việt Nam tiếp thu thời này đã không tránh khỏi nhiều hạn chế, với những Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Nguyên, …
Trong khi đó, ở miền Nam, nói đến triết lý và văn-nghệ Mác-xít và cộng-sản là người ta nghĩ ngay đến điểm khởi hành với các giáo-sư Trần Văn Toàn, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, v.v… Nếu giáo-sư Trần Văn Toàn trình bày giới thiệu chủ nghĩa Mác gần như thuần túy giáo khoa, triết lý – qua Tìm Hiểu Triết Học Karl Marx (Nam Sơn, 1965. 160 tr.), thì giáo-sư Nguyễn Văn Trung vừa giới thiệu vừa áp dụng vào lý luận văn-nghệ và sáng-tác. Bộ Hành Trình Trí Thức của Karl Marx chỉ mới xuất-bản tập 1 “Con người và cuộc đời” (Nam Sơn, 1969. 150 tr.), trong Lời Nói Đầu đã khởi đi từ nhìn nhận rằng “chủ nghĩa Mác chưa lỗi thời, phong trào Cộng-sản chưa trở thành một sự kiện lịch-sử đã qua vì phong trào Cộng-sản vẫn đang làm lịch-sử và trên bình diện tư tưởng, chủ nghĩa Mác vẫn cống hiến một số phạm trù, lược đồ xác đáng để lãnh hội và phân tách những thực tại chính-trị, xã-hội, văn-hóa…” (Tr. II). Lời cuối tập là một lời thán phục con người, cuộc đời và hành trình trí thức của Karl Marx, dù có thể không đồng ý với quan niệm và chủ trương của ông ta. Có thể các lập luận này đưa đến hiện-tượng nghiên cứu, thảo luận về chủ nghĩa Mác-xít lúc bấy giờ; Mác-xít hết còn là cấm kỵ?
Giáo-sư Nguyễn Văn Trung còn soạn các giáo trình Nhận Diện Marx (Cours 1970, 212 tr.) và Lê-nin (Lý luận cách-mạng) (Giảng văn dùng cho sinh viên các trường đại học, niên khóa 1972-73). Ở cuốn trước, giáo-sư đặt vấn-đề nhận diện, còn trong cuốn sau, viết năm 1970, năm kỷ niệm 100 sinh nhật Lênin, và thể theo “yêu cầu của mấy trường Đại học, đặc-biệt trong những khóa nghiên cứu học hỏi về Chủ nghĩa Mác-Lênin”, giáo-sư cụ thể nói đến các chiến lược chiến thuật làm cách-mạng và những bài học cách-mạng mà Lênin đã để lại.
Các tác-phẩm và giảng văn nói trên đã giúp sinh viên và người đọc hiểu hơn tư tưởng và ý thức hệ Mác-Lê và có thể đã góp phần can thiệp một cách trí thức và ý thức vào những vận động cách-mạng và chính-trị ở miền Nam lúc bấy giờ. Có sinh viên đã tham gia các phong trào thiên tả, thiên cộng cả ngay ở môi trường đại học (ra báo, in tài liệu gọi là ‘học tập’ có lợi cho cộng-sản), cả vào “bưng” theo “cách-mạng” (khi bị lộ hoặc tự nguyện, như thư-từ gởi cho giáo-sư Trung từ mật khu – trường hợp Trường-Kháng Lê P.Đ.,…** ) và có sinh viên trở nên triệt để hơn trong việc chống Cộng và có người đã trở thành nạn nhân của người cộng-sản Việt-Nam (Ngô Vương Toại, Lê Khắc Sinh Nhật, Bùi Hồng Sĩ,…).
Người Cộng sản VN có lối nhìn khác, xem chiêu bài ‘văn-nghệ dân-tộc’ là văn-nghệ Mác-xít, như các giáo-sư Trần Hữu Tá, Trần Hoài Anh,… Đây là một chủ nghĩa Mác-xít bị/được các Đảng cộng-sản và chính quyền cộng-sản sử-dụng như là công cụ, phương-tiện tranh đấu, chứ không còn là một triết lý nguyên thủy. Nay thì đã rõ, đấy chỉ là chiêu bài và Vũ Hạnh theo cộng-sản từ trước đã tiếp tục ‘nằm vùng’ thi hành mặt trận văn-hóa của Việt-cộng. Mỹ học hay văn-chương đều không/khó có thể tìm thấy trong những gì Vũ Hạnh, Lữ Phương,.. đề cao, cổ động trong suốt thời-gian này. Còn quan điểm mỹ-học Mác-xít là gì? Phê-bình Mác-xít trong văn-học là gì? Chỉ là quan điểm văn-học cách-mạng dùng cho mặt trận đấu tranh tư tưởng, để đối chọi với cái được gọi là ‘cuộc xâm lăng văn-hóa’ của ‘chủ nghĩa thực dân mới’.
Thứ nữa, họ hay nhắc nhở, nói đến vai trò, trách nhiệm, sứ mạng của nhà văn! Phải đứng về phía đông đảo, phía những người bị thiệt thòi trong xã-hội! Phải đấu tranh cho tự do, dân-chủ! Phải yêu nước, phải ý thức về dân-tộc và ‘tổ quốc, quê-hương’! Phải hướng về nguồn cội! Từ đó, Vũ Hạnh phê-bình tác-phẩm của Chu Tử là thác loạn, sa đọa, ích kỷ, Vũ Khắc Khoan ảo tưởng,… Còn Lữ Phương đề cao tinh thần yêu nước và cách-mạng nhất là giới trí thức, và tác-phẩm phải gắn liền với thực tại xã-hội, từ đó phê phán nặng nề Hồ Hữu Tường, Lê Xuyên, Minh-Đức Hoài-Trinh, Chu Tử, Nguyễn Thị Hoàng, Dương Nghiễm Mậu,… Nguyễn Trọng Văn cũng theo con đường đó phê phán Nguyễn Văn Trung, Đỗ Long Vân,…
Trong một chiều hướng nào đó, nói đến dân-tộc là kéo lùi văn-nghệ, biến văn-học thành ca dao, truyện cổ,… Ngoài đặc tính dân-tộc, văn-học bình dân có tính giai cấp, văn-chương có tác-giả và đặc tính riêng và thường là của một tầng lớp xã-hội nào đó (trí thức, tiểu tư sản,…). Khi Pháp chiếm miền Nam lục-tỉnh đã sử-dụng Nho giáo và luân lý, phong hóa Việt xưa để thu phục nhân tâm với mục-đích yên bề thống trị. Lực lượng Bảo vệ Văn-hóa Dân-tộc được thành hình từ bưng biền của MTGPMN, mặt công khai với nhóm Tin Văn và những Vũ Hạnh, Lữ Phương,… cũng sử-dụng những cái gọi là “văn-hóa dân-tộc” để gây chống đối ở miền Nam.
Lữ Phương viết Cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (Hà-nội: Văn hóa, 1981, tái-bản 1985) dựa trên một thứ đạo đức (giả hiệu) và dân-tộc (tức tổ quốc thành đồng) để lý luận, phê bình chống văn-nghệ miền Nam. Tập sách của ông ta do đó khá chi tiết và có cơ sở lý luận cộng-sản. Ông ta đã chứng minh “thực dân mới Mỹ” và các chính quyền miền Nam dùng “chiến-tranh và bạo lực văn-hóa tư tưởng” để “xâm lược” và “bành trướng” cùng “chiến-tranh tâm lý là đòn bẩy của mọi hoạt-động văn-hóa – tư tưởng” (tr. 31, 37), trong đó các viện đại học cũng như nhóm văn-hóa văn-nghệ như Sáng Tạo, Hiện Đại, Văn Hữu Á-Châu, Quan Điểm,… được đưa lên bàn mổ. Ông gọi tập thể các nhà văn hóa và văn-nghệ sĩ miền Nam là “đội quân văn-hóa phản động”, là ‘tay sai của đế quốc Mỹ’, trong đó có Nguyên Sa, Nguyễn Mạnh Côn, Lý Đại Nguyên, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, LM Hoàng Sỹ Quý, v.v. Văn-hóa dân-tộc chủ trì bởi những Kim Định, Nguyễn Đăng Thục, Lê Văn Siêu, Thái Văn Kiểm, Nguyễn Sĩ Tế,… là những nhà lý thuyết theo ông là “bản địa” và lạc hậu, thần bí,… không … khoa học như … Mác-Lê cộng-sản. Ông còn có âm mưu và triệt để hơn khi bàn đến các khuynh-hướng triết lý văn-học hiện sinh, cấu trúc trong chương về lối sống Mỹ hoặc văn-chương đồi trụy, tình dục,… Không riêng gì LP, các giáo-sư và giới nghiên cứu của miền Bắc trước 1975 và cho đến nay vẫn gán ghép Sartre và thuyết hiện sinh với lối sống họ gọi là ‘tiêu cực, suy đồi, công cụ của đế quốc, kẻ thù’ của một số thanh niên Pháp ở St-Germain-des-Prés là hình ảnh phụ vào ngay sau chiến-tranh 1945, từ đó gán ghép trùm lên đầu sách báo của miền Nam muốn hiện đại, cập nhật với Âu Mỹ! Từ những năm đầu thập niên 1960, giới trí thức và chính-trị ở miền Nam đã phê phán chủ nghĩa hiện sinh làm nhụt nhuệ khí chống Cộng (báo Văn Đàn…). Người cộng-sản miền Bắc cũng phê phán nặng nề Sartre và thuyết hiện sinh: Đỗ Đức Hiểu trong Phê Phán Văn-Học Hiện Sinh Chủ Nghĩa (Văn Học, 1978) đã phê phán nặng nề mảng văn-học này, như muốn làm … tiêu tan ý chí chống đế quốc, thực dân mới và tay sai.
–Trần Hoài Thư: Nếu xem văn chương đích thực là văn chương vì con người, cho con người, tôi nghĩ hầu hết nhà văn nhà thơ – trừ một số ít chủ chiến- đều ít nhiều mang tư tưởng chống chiến tranh hay nói nôm na là phản chiến.
Có điều nếu kết án một tác phẩm chống chiến tranh thì lời kết án nhẹ hơn nếu kết án tác phẩm là phản chiến. Tại sao? Có lẽ xã hội VN đã bị cái chữ “phản” này hành hạ quá nhiều nên đâm ngán. Nào là phản động, phản đảng, phản bội… Để cuối cùng là những cái chết ghê rợn như tố khổ, chôn sống, trấn nước… hay cho một phát súng cùng với bản án treo quanh cổ…
Nhưng mà, một câu hỏi là tư tưởng có thể hiện qua hành động hay không? Có bỏ ngũ để nhập vào hàng ngũ địch? Có quay mặt với trách nhiệm hay không? Có chưa đánh đã đầu hàng không? Có chu toàn nhiệm vụ hay không?
Xin nhớ hành động phản chiến khác với tư tưởng phản chiến. Hành động có thể là làm thầy tu bất đắc dĩ, trốn lính, chấp nhận ở tù hay phá hủy thân thể. Nhưng tư tưởng thì ở trong đầu và được trút ra trên giấy. Ra trận dù rét run, dù phản chiến nặng, nhưng không chạy, không bò, không hò hét xung phong, không ném lựu đạn, không bóp cò, thì một là hắn bị đưa ra tòa án quân sự, hai là hắn bị kẻ thù giết trước. Chứ không biện hộ là tôi chống cuộc chiến nhơ bẩn này, tôi không hành quân. Ở đó mà biện hộ.
Nếu kết án thì giữa những tiếng nói trầm thống bi thiết phát xuất từ những người có mặt thật sự trong cuộc chiến như thế này: “Cuộc chiến lan rộng rồi. Cuộc chiến đã vượt qua biên giới Việt Nam, đã vượt khỏi biên giới Cam-pu-chia, đã tràn sang tới Hạ Lào.
Tôi ù tai vì tiếng động cơ, vì tiếng nổ của các thứ máy móc giết người mà tôi biết không phải là sản phẩm kỹ nghệ Việt Nam. Tôi choáng váng trước cái cảnh từng lớp người gục xuống. Về tới đơn vị, hình ảnh ghê rợn, hãi hùng của cả một tấm thảm nhiều màu dệt bằng xác người đó, đêm đêm vẫn ám ảnh tôi, chắc sẽ ám ảnh tôi đến khi thôi sống. Tôi không thể phân biệt được đâu là xác người chiến sĩ Quốc Gia, đâu là xác người Cộng Sản. Điều chắn chắn, ông ơi, thì đó chỉ là xác của người Việt. Và là những người chưa kịp sống. Nghĩa là những người trẻ. Phải làm một cái gì. Chậm quá rồi chăng?
(một lá thư, một vấn đề, tạp chí Vấn Đề số 49 tháng 8-1971)
Và một đoạn trong truyện “Phố miền Nam” của Ngụy Ngữ đăng trên Vấn Đề số 50 tháng 9-71, chủ trương Vũ Khắc Khoan & Mai Thảo:
“Thành phố đang sinh hoạt bình thường, chợt có tin lính rằn ri đổ đến, tất cả nhốn nháo sợ hãi và những cánh cửa tiếp theo nhau khép nhanh lại, chợ tan, người thưa thớt tới lui khép nép, khắp các đường lớn đường nhỏ không còn một bóng gái trai…”
(Phố miền Nam – Vấn đề 50 tháng 9-71).
Hay một đoạn truyện ngắn khác cũng trên Vấn Đề: “Những hình ảnh thoáng hiện, tan nhanh đi, rồi lại thảng thốt hiện ra lại, tiếp vào những hình ảnh khác: những mặt trận đêm, những trại đồn, những vách tường trơ trọi cháy đen, những thằng Đại Hàn man rợ cắm cái đầu người trước xe jeep, những xâu chuỗi kết bằng tai người khô queo, những họng súng bắn vào dân tị nạn…(Theo những đường bay đi xa – Vấn Đề 46 tháng 5-1971).
Hay trong truyện “Với trăng hạ tuần lên” của Ngụy Ngữ mà tựa truyện, tên tác giả được “vẽ thêm một lớp sơn bóng ngời” trên trang bìa, ngay phía dưới là tên hai người chủ trương Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo:
“… Không. Vâng, không phải người ta quay lại cảnh khốn nạn đó để đám thanh niên Nam Việt sợ không dám đầu quân đi lính để chết mất xác bên Miên bên Lào hoặc để lên án cuộc chiến tranh phi nhân đang thiêu sống cả một thế hệ thanh niên trên khắp bán đảo Đông Dương này, mà trái lại, là đang hỗ trợ thêm cho chiến tranh, đang vẽ thêm một lớp sơn bóng ngời trên cái vóc dáng biệt kích của bọn lính Nam Việt, ve vuốt vào cái kiêu hãnh bệnh hoạn của chúng, kéo chúng ở lại trong hàng ngũ để bảo vệ cái dải đất tăm tối thời Mỹ này khỏi rơi vào “vòng nô lệ của Cộng Sản”.
(Vấn Đề số 52 tháng 11-71).
Như vậy giữa tư tưởng phản chiến và những tội ác, xấu xa mà Ngụy Ngữ đã chụp trên những người lính miền Nam chúng tôi, thì cái nào mới là đáng buộc tội, lên án?
Tôi cũng tự hỏi, sau khi các truyện này đăng, không biết có phản ứng nào về phía độc giả hay nhà văn/nhà thơ/ mang áo lính tại Saigon mà sao Vấn Đề càng ngày càng thừa thắng xông lên?
Tôi tự hỏi tại sao Mai Thảo và Vũ Khắc Khoan là nhà văn xem như chống Cộng, lại chấp nhận cho đăng? Chẳng những thế còn quảng cáo ngoài trang bìa?
Hay là vì miền Nam có tự do, tôn trọng quyền tự do trong ý thức sáng tác mà tạp chí Vấn Đề chủ trương?
Tôi cũng tự hỏi, nếu người dân miền Bắc đọc các đoạn này thì họ nghĩ gì? Giữa một bản nhạc TCS: Khi đất nước tôi thanh bình tôi sẽ đi thăm… và 3 đoạn này (cùng nhiều đoạn trong hầu hết các truyện của Ngụy Ngữ), cái nào tác hại cho công cuộc chống Cộng hơn?
–Nguyễn Lệ Uyên: Đây là đề tài rộng, cần rất nhiều trang giấy. Trong khuôn khổ một tạp chí giới hạn trên dưới 300 trang thì không thể tải hết.
Vắn tắt thì thế này: Phản chiến? Từ này khó xác định. Theo tôi phản chiến dành để chỉ cho một hành động tích cực của một hay nhiều chủ thể (và ngược lại với phía đối lập) một cách rõ ràng. Hành động phản chiến của nhóm J. Fonda trong chiến tranh Việt Nam là một hành động có ý thức và tích cực đối với bọn họ và ngược lại rất dối trá với sự thật hiển nhiên đối với bên bị phản đối. Những ca khúc phản chiến của Bob Dylan và gần hơn với chúng ta là Ca khúc da vàng của TCS, thì đó là những âm thanh và ca từ mang ý thức phản kháng bắt nguồn từ nghệ thuật (kể cả những bức tranh của Picasso vẽ về cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha chẳng hạn) hướng về mục tiêu phơi bày bộ mặt phi nhân tính đối với các bên tham gia, không thiên về phe nào, bên nào.
Giai đoạn 54-75, ở miền Nam không thiếu các tờ báo núp dưới danh “đối lập, phản chiến”, thực chất là do CS giật dây. Những Lê Văn Ngăn, Ngô Kha, Thái Ngọc San, Võ Trường Chinh, Võ Quê, Lê Gành… chỉ là những kẻ theo đóm ăn tàn, chưa phải và cũng chưa xứng đáng gọi là phản chiến hay danh giá hơn theo cách gọi của CSVN là văn học Mác-xít. Đơn giản thơ văn của họ đơn điệu ở chỗ kêu gào, khi sử dụng văn vần để chuyển tải nội dung, và thiếu hẳn tính chất nghệ thuật, thiếu cả chiều sâu lắng của nội tâm. Chúng không hề là nghệ thuật, mang tính tố cáo một chiều, trái với bản chất nghệ thuật chân chính.
Giai đoạn 63-75 đặc biệt phức tạp, kể từ khi nền đệ nhất Cộng Hòa bị lật đổ và quân Mỹ kéo vào miền Nam. Xã hội bị xáo trộn, bị lật tung lên, mọi giá trị văn hóa truyền thống nhấp nhổm như làm xiếc, có nguy cơ tiêu vong từng phần. Lợi dụng tình thế này, CSVN tung cán bộ vào các bộ phận xã hội miền Nam, từ kinh tế, chính trị, tôn giáo đến văn hóa văn nghệ. Những tạp chí Đất Nước, Đối Diện, Hành Trình, Trình Bày, Tin Văn… với hàng loạt các khuôn mặt giả danh yêu nước nổi lên công kích một chiều. Hiệu ứng của nó phần nào có kết quả bởi sự có mặt của quân đội đồng minh (Nam Triều Tiên, Úc, Thái Lan) của Mỹ tại miền Nam, như hiện thân của kẻ đi xâm lược, và là nỗi ám ảnh nặng nề của người dân vừa mới thoát khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Chiêu bài thực dân kiểu mới được CSVN dựng lên, rồi được sự tiếp sức của những Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lữ Phương… trên những tạp chí phát hành công khai tại Sài Gòn!
Thực chất, thì với những tạp chí này, với các nhà văn này, không hề đối lập trên bình diện phản biện xã hội mà là sự lợi dụng tự do dân chủ ở miền Nam để khuấy rối xã hội, chính trị, làm nhiễu chính nghĩa cần được phát huy, bảo vệ: Tự Do, Dân Chủ.
Như vậy, vấn đề anh Nguyễn Vy Khanh đặt ra, tôi không nghĩ nó là dòng văn học Mác-xít bên cạnh dòng văn học tự do của Miền Nam; bởi dòng văn học nào, thì ít nhất nó cũng phải mang chút ít tính nghệ thuật, đằng này chỉ là những lời rao tuyên truyền, dựng đứng những sự việc không thật một cách trắng trợn để làm phân rã ý thức là mục đích cuối cùng của họ để chiếm lĩnh, nhuộm đỏ miền Nam. Nghệ thuật chưa bao giờ mang tính chất đó.
Trường hợp tạp chí Vấn Đề cho đăng những mẩu truyện của Ngụy Ngữ như anh Trần Hoài Thư vừa dẫn, tôi nghĩ là một trường hợp biệt lệ. Hai ông Vũ Khắc Khoan và Mai Thảo, là những người từng hiểu cộng sản hơn ai hết. Vậy có phải chăng người phụ trách thư ký tòa soạn đọc văn bản không kỹ, vì cứ cho Ngụy Ngữ là nhà văn đã quen thuộc với độc giả rồi, xem qua loa và ném cho bộ phận sắp chữ? Thứ đến, khi nộp bản, các quan chức bên Sở kiểm duyệt tin ở hai ông VKK và MT chăng? Đây là trường hợp khá lạ lùng, xuất hiện vào thời điểm Sở kiểm duyệt bắt đầu siết chặt các tạp chí, bắt đổi thành “giai phẩm”.
(Còn phần Kết)
(Nguồn: Thư Quán Bản Tháo, số 63, tháng 2 năm 2015)
Nguồn trích dẫn: Lần đầu tiên xuất hiện trên Tạp Chí Da Màu www.damau.org
“Da Màu chủ trương một diễn đàn văn chương không biên giới, một diễn đàn mở rộng cho mọi khuynh hướng sáng tác, mọi tác giả, mọi khai phá đúng nghĩa. Da Màu thúc đẩy sự cảm thông và chấp nhận những dị biệt bắt nguồn từ văn hóa, ngôn ngữ, phái tính, màu da, lịch sử, địa lý, chính kiến… qua các hình thái văn học nghệ thuật.”