Coronavirus 2 (SARS-CoV-2)
Joe Sexton và Joaquin Sapien | Trà Mi
Hai Tiểu bang. Một virus. Tại sao New York có gần 10 lần số người chết so với California.
Thống đốc California và thị trưởng San Francisco, đã cùng làm việc và có biện pháp sớm để đối đầu với mối đe dọa COVID-19. Với Andrew Cuomo và Bill de Blasio, đó là chuyện khác và cho đến nay 27.000 người New York đã chết.
Ngày 14 tháng 3, London Breed, thị trưởng San Francisco, đã thấy quá đủ. Trong nhiều tuần trước đó, bà và giới chức y tế thành phố đã xem xét dữ liệu và thấy mối đe dọa ngày càng tăng của COVID-19. Phản ứng của bà là đưa ra một loạt những sắc lệnh giới hạn số người có thể tụ tập nơi công cộng, những chỉ thị theo sau có vẻ như không liên hệ gì đến những lệnh trước. Bà đã bị thuyết phục rằng hệ thống y tế đáng kể và được đánh giá cao của San Francisco có thể sẽ không chịu đựng nổi sự bùng phát và số người chết vì nạn dịch. Bà nhớ lại đã nghĩ rằng,
“Chúng tôi cần phải chặn ngay cái thứ rác rưởi này lại.”
London Breed
Ba ngày sau tại New York, Thị trưởng Bill de Blasio suy nghĩ nhiều điểm tương tự. Ông ấy đã bị công khai chỉ trích nhiều ngày trước vì không đóng cửa hệ thống trường học thành phố, và ngay cả Sở Y tế của New York cũng lên tiếng phản đối vì ông đã bất động. Và vì vậy, cuối cùng đã bị thuyết phục mỗi giờ chậm trễ là một sai lầm có thể gây ra thiệt mạng, de Blasio nói rằng đã đến lúc phải xét đến việc ra lệnh phải ở trong nhà. Lệnh đó chỉ cho những nhân viên khẩn cấp như cảnh sát và nhân viên y tế được phép di chuyển tự do. Tại một cuộc họp báo De Blasio nói,
“Tôi nghĩ rằng nó đã đến lúc phải có quyết định rồi.”
Bill de Blasio, Thị trưởng New York
Tại San Francisco, Breed đã viết cho Thống đốc California, ông Gavin Newsom. Nhưng bà vẫn nhấn mạnh: “Cần phải đóng cửa Thành phố.” Newsom đã từng là thị trưởng San Francisco, và ông đã bổ nhiệm Breed đứng đầu Ủy ban Cứu hỏa của thành phố vào năm 2010.
Newsom đã trả lời ngay lập tức, nói rằng bà nên phối hợp với các quận xung quanh San Francisco vì họ cũng đang tính tới việc giới nghiêm. Breed cho biết bà đã nói chuyện với đại diện của các quận hôm 15 tháng 3 và các giới chức y tế cộng đồng của họ đã sẵn sàng tự thông báo. Vào ngày 16 tháng 3, với chỉ dưới 40 người bị nhiễm COVID-19 tại San Francisco và không có ai thiệt mạng, Breed đã ban hành lệnh cấm tất cả mọi di chuyển và tương tác trừ trường hợp cần thiết. Breed nói,
“Thực sự, tôi cảm thấy như chúng tôi không có nhiều lựa chọn tốt.”
London Breed
Trong một cuộc phỏng vấn, Bộ trưởng Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh California, Bác sĩ Mark Ghaly nói rằng điều quan trọng là cho phép các quận phía Bắc California dựa vào đề nghị của các chuyên gia của chính họ, tự quyết định và do đó có thể mở đường cho cả Tiểu bang khai triển những gì họ đã làm. Và ba ngày sau khi San Francisco và các quận lân cận đóng cửa, Newsom, vào ngày 19 tháng 3, ra lệnh giới nghiêm tương tự cho phần còn lại của California.
Hóa ra, Breed đã gửi cho de Blasio một bản sao chi tiết về lệnh ở trong nhà của bà. Bà nghĩ nó có thể có ích cho New York.
Thống đốc New York Andrew Cuomo, tuy nhiên, đã phản đối và chế giễu ý định giới nghiêm ở Tp New York của de Blasio. Ông nói, điều đó thật nguy hiểm. Và chỉ để hù dọa mọi người. Ngôn ngữ là quan trọng. Và lệnh ở tại nhà, nghe có vẻ như đó là một phản ứng cho ngày tận thế vì vũ khí hạch tâm.
Hơn nữa, Cuomo cho biết, chỉ ông ấy mới có quyền ra lệnh giới nghiêm như vậy.
Trong nhiều năm, Cuomo và de Blasio, cả hai đều có tham vọng chính trị cấp quốc gia, là đối thủ trong một cuộc nội chiến lạnh, cuộc ganh đua mà nhiều người thấy như trẻ con và bất lợi. Cuối cùng, khi de Blasio quyết định đóng cửa các trường học thành phố, chính Cuomo đã vội vã tuyên bố đó là quyết định của mình. Cuomo nói về lệnh giới nghiêm của de Blasio,
“Không có thành phố nào trong Tiểu bang có thể tự cách ly mà không có sự chấp thuận của Tiểu bang. Tôi không có kế hoạch để cách ly bất kỳ thành phố nào.”
Andrew Cuomo
Kế hoạch của Cuomo thay đổi ngay sau đó. Vào ngày 22 tháng 3, ông cũng ra lệnh đóng cửa Tiểu bang New York. Hành động xảy ra sáu ngày sau khi San Francisco ngừng hoạt động, năm ngày sau khi de Blasio đưa đề nghị tương tự và ba ngày sau khi Newsom giới nghiêm toàn bộ California. Đến lúc đó thì New York phải đối phó với dịch bệnh đang hoành hành, với số người đã lây nhiễm là 15.000, và cứ sau ba hoặc bốn ngày lại tăng gấp đôi.
Giới chức y tế hiểu rất rõ về độ nghiệt ngã của cấp số nhân. Một viên chức của thành phố New York đã nói về những ngày quan trọng vào tháng 3:
“Chúng tôi đã khá rõ ràng với chính phủ Tiểu bang về những tác động của sự chậm trễ mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút.”
Tính đến ngày 15 tháng 5, đã có gần 350.000 người đã lây nhiễm COVID-19 ở New York và hơn 27.500 người thiệt mạng, gần một phần ba tổng số trên toàn quốc. Những con số tương ứng ở California: chỉ có dưới 75.000 người đã lây nhiễm và hơn 3.000 người chết. Tại thành phố New York, thành phố đông dân nhất và mật độ dân số cao nhất, có gần 20.000 người chết; Ở San Francisco, thành phố có mật độ dân cư lớn thứ hai và đông dân thứ 13, chỉ có 35 người thiệt mạng.
Hai kết quả khác nhau ở hai thành phố này sẽ được nghiên cứu trong nhiều năm sắp tới, khi người ta đã biết nhiều hơn về virus, nét đặc biệt của nó, các chủng khác nhau, tác động cụ thể của nó đối với một khối dân số nhất định và vai trò của các yếu tố như nghèo đói, các vấn đề bệnh tật đã có từ trước và giao thông công cộng đối với sự lây lan và gây chết người của virus.
California, nếu đông dân gấp đôi so với New York, cũng không có nhiều người sống gần nhau; mặc dù mật độ dân số cao ở San Francisco, nhưng nó không có hàng triệu người chen chúc vào xe điện ngầm và xe buýt như ở thành phố New York. Thành phố New York là nơi có nhiều người Mỹ gốc châu Phi, nhóm sắc dân bị ảnh hưởng nặng nề nhất vì virus.
Nhưng không thể phủ nhận được, thời điểm New York đóng cửa, đã đóng một vai trò khiến cái giá con người, do virus gây ra, quá lớn. Vào tháng Tư, hai chuyên gia nổi tiếng đã viết trong một bài nghị luận trên tờ Thời báo New York rằng nghiên cứu của họ cho thấy rằng nếu New York áp dụng các biện pháp xa cách vật lý khắt khe một hoặc hai tuần trước đó, số người chết có thể đã giảm một nửa hoặc hơn.
Đó là một đánh giá được Bác sĩ Tom Frieden, cựu giám đốc Sở Y tế Thành phố New York, đồng ý. Ông viết trên twittwer hồi tháng Tư,
“Chỉ trước vài ngày thôi & có thể đã được ngăn chặn rất nhiều cái chết.”
Bs Tom Frieden
Khi được hỏi liệu Cuomo có đặt vấn đề về tính chính xác hay tính toàn vẹn của việc tìm thấy con số bao nhiêu người thiệt mạng có thể được ngăn chặn được với việc áp dụng giới nghiêm sớm và về việc đóng cửa toàn Tiểu bang, một phát ngôn viên viết:
“Công việc của chúng tôi là đưa ra các quyết định chính sách dựa trên các sự kiện và dữ liệu chúng tôi có tại thời điểm đó và chính đó là những gì chúng tôi đã làm. Chúng tôi cần lòng tin của công chúng, đó là những gì đã xảy ra và cuối cùng chúng tôi đã làm phẳng đường cong.”
Phst ngôn viên của Thống đốc new York
Trong những ngày gần đây, Cuomo nói rằng ông ta ước rằng mình đã nhìn thấy mối đe dọa sớm hơn, và hành động, nhưng ngay lập tức thay đổi giọng điệu và đổ lỗi cho mọi nơi: vì cơ quan y tế quốc tế và tại Hoa Kỳ; tại chính phủ Liên bang ; tại các hãng thông tấn. Ông nói,
“Thống đốc Tiểu bang không giải quyết đại dịch toàn cầu.”
Andrew Cuomo
Trong một cuộc phỏng vấn, một viênchức cao cấp của Cuomo, được ủy quyền phát biểu nhưng không được nêu tên, đã bảo vệ tính kịp thời của phản ứng của New York về virus. Ông nói rằng chính quyền đã theo dõi sát một loạt các mô hình cho thấy phạm vi và tác động của sự lây lan và đã hiệu chỉnh các hành động cho phù hợp. Ông nói, Thống đốc, đã tiến hành tháo gỡ trong trật tự một nền kinh tế khổng lồ trong một Tiểu bang 20 triệu người. Mỗi bước – đóng cửa các trường học, giảm dần lực lượng công nhân hàng ngày của Tiểu bang – đã được thực hiện để hạn chế sự hoảng loạn và đạt được sự tuân theo của công chúng trước những phát triển có thể đảo lộn cuộc sống và làm suy sụp một thành phố lớn.
Viên chức này khẳng định rằng, từ khi phát giác ra người đã lây nhiễm COVID-19 đầu tiên ở Tiểu bang này vào ngày 1 tháng 3 đến khi ngừng hoạt động vào ngày 22 tháng 3, New York đã hành động nhanh hơn bất kỳ Tiểu bang nào khác. Ông nói,
“Ba tuần, 20 triệu người lây nhiễm. Thật điên khùng.”
Viên chức này lưu ý rằng người nhiễm COVID-19 đầu tiên của California xuất hiện vào ngày 26 tháng 1, cái chết đầu tiên ở California xảy ra vào ngày 4 tháng 3 và việc đóng cửa trên toàn Tiểu bang bắt đầu có hiệu lực vào ngày 19 tháng 3, một khoảngng thời gian dài gần hai tháng.
Nhưng một loạt giới chức y tế và các nhà khoa học được ProPublica phỏng vấn nói rằng việc đặt ra các mốc thời gian như vậy đã bỏ qua vấn đề chính: Không muộn hơn ngày 28 tháng 2, nhà chức trách Liên bang cảnh cáo cho toàn quốc biết rằng đại dịch chết người là điều không thể tránh khỏi. Họ nói rằng bất kỳ hành động nào của mỗi Tiểu bang đều phải được đánh giá từ thời điểm đó trở đi.
Về những mô hình cho thấy hành động sớm có thể đã cứu mạng như thế nào, giới chức chính quyền Cuomo khẳng định rằng các quyết định của Thống đốc đều dựa trên dữ liệu. Họ nói,
“Chúng tôi có thể đóng cửa vào tháng 11. Chẳng để làm gì.
Chúng tôi theo mô hình. Chúng tôi theo mô hình chết tiệt của quý vị. Tất cả các mô hình đã sai.”
Chắc chắn có một mô hình đã cho biết trước và nó đã được công bố vào cuối tháng Hai.
Marc Lipsitch, giáo sư dịch tễ học Harvard và là giám đốc của Trung tâm Động lực của Bệnh Truyền nhiễm, đã tạo ra một trong những công cụ lập mô hình đầu tiên được sử dụng ở Hoa Kỳ cho đại dịch COVID-19. Mô hình này đã được cung cấp cho cả giới chức thành phố và Tiểu bang ở New York vào tháng Hai, một tuần trước khi người lây nhiễm đầu tiên được xác nhận ở New York. Tiểu bang cho biết mô hình Lipsitch không phải là mô hình mà họ đã theo. Thành phố New York đã dùng nó và kết luận rằng chỉ một vài chục người bệnh ở New York cuối cùng có thể gây ra 100.000 trường hợp lây nhiễm vào giữa tháng Tư, khá gần với những gì đã xảy ra.
Trong một cuộc phỏng vấn, Lipsitch không đưa ra ý kiến nào về các biện pháp của New York, nhưng nhấn mạnh rằng các mô hình chỉ là một nguồn thông tin hữu ích để hướng dẫn các nhà hoạch định chính sách. Chúng không dự đoán được tương lai và dùng mô hình để làm điều đó là sai lầm. Ông nói,
“Bất kỳ người nào đưa ra quyết định mà nói rằng họ chỉ dựa vào các mô hình để đi đến quyết định về việc phải làm và khi nào và như thế nào, thì đó là sự trốn trách nhiệm.”
Marc Lipsitch
Đối với cả New York và California, thời điểm hành động nhanh chóng và thận trọng trong cuộc chiến chống COVID-19 bắt đầu không muộn hơn ngày 17 tháng 1, khi chính phủ Liên bang tuyên bố sẽ bắt sơ khám hành khách từ Hoa lục đến cả hai Tiểu bang. Thế giới đã thấy virus bên ngoài Hoa lục và đã sớm phát giác nó ở hàng chục quốc gia khác. New York và California là những điểm đến được biết đến cho một lượng khách du lịch hàng tuần từ Hoa lục. Thông báo ngày 26 tháng 1 về trường hợp đầu tiên California không làm ai ngạc nhiên.
Nếu tổng số nhiễm bệnh và thiệt mạng thấp hơn ở California có thể do nhiều yếu tố vẫn chưa được xác định, thì những nỗ lực của Tiểu bang, đặc biệt là quan hệ đối tác với San Francisco, được đánh dấu bằng cả sự hợp tác và mức độ táo bạo. Giới lãnh đạo dân cử đã quay sang hỏi ý kiến các chuyên gia y tế, tin tưởng và làm theo đề nghị cũng những chuyên gia đó.
Breed, đặc biệt, đã sớm thấy tiện ích hạn chế của việc chờ đợi xác nhận số người đã lây nhiễm để để lựa chọn chính sách. Việc xét nghiệm đã bắt đầu muộn; có sẵn quá ít bộ xét nghiệm; họ sẽ không bao giờ có thể biết chính xác sự hiện hữu và lây lan của dịch bệnh.
Xét về phản ứng của New York đã vẽ nên một bức tranh khác.
Theo cả một viên chức và một nhân viên của thành phố, trong khi kế hoạch đối phó với đại dịch chính thức của New York nhấn mạnh sự cần thiết phải liên lạc thông suốt giữa giới chức Tiểu bang và địa phương, Bộ Y tế Tiểu bang đã ngừng công bố thông tin và chiến lược thường xuyên với đối tác thành phố vào tháng 2, khi độ đe dọa ngày càng rõ ràng hơn. “Đài phát thanh tắt tiếng”, một viên chức thành phố cho hay. Cho đến ngày nay, nhân viên thành phố cho biết, New York không thể lúc nào cũng nhận được dữ liệu căn bản từ Tiểu bang, chẳng hạn như số lượng máy thở tại bệnh viện hoặc nhân viên ở nhà dưỡng lão. Người đó nói “như họ đã được lệnh không được nói chuyện với chúng tôi.”
Nhà chức trách thành phố New York cũng nói rằng sau khi thành phố hỗ trợ Tiểu bang xác định và đối phó với dịch bệnh tại các viện dưỡng lão ở New York, hai tuần trước đây Tiểu bang đã đột ngột nói họ không cần sự giúp đỡ của thành phố. Hơn 5.000 người ở viện dưỡng lão tại New York đã chết vì COVID-19.
Khi được hỏi về các tuyên bố của nhân viên thành phố, một viên chức trong chính quyền của Cuomo khẳng định Tiểu bang đang làm việc tay trong tay với tất cả các sở y tế địa phương.
Về phần mình, de Blasio đã dành nhiều tuần quan trọng không tin vào Sở Y tế của chính mình khi họ cho rằng việc ngăn chặn sự lây lan của virus ngày càng cấp bách, là một việc vặt của người ngu. Nhu cầu rõ ràng, sớm nhất là vào cuối tháng 2, là chuyển sang dồn hết nỗ lực để không bị bệnh dịch lấn át, điều đó có nghĩa là đóng cửa mọi thứ và hạn chế sự đi lại của mọi người. Sự thất vọng trong sở y tế tăng lên dữ dội, theo một viên chức thành phố, kế hoạch đã được thảo luận để thực hiện một cuộc “đối đầu” chính thức; Sở Y tế sẽ làm những gì cần phải làm, mặc kệ chỉ thị của thị trưởng.
Breed, thị trưởng San Francisco, đã ban hành lệnh khẩn cấp tại địa phương cho phép họ đối đầu với virus trước cả khi có một người duy nhất đã nhiễm COVID-19. Có gần 100 người đã nhiễm COVID-19 ở New York trước khi de Blasio ban hành một lệnh tương tự.
Freddi Goldstein, phát ngôn viên của de Blasio, nói rằng bất kỳ cuộc phản đối có tổ chức nào tại Sở Y tế đều là tin mới biết đối với chính quyền, và de Blasio đã “rất thẳng thắn, trung thực không đắn đo với người New York ngay từ đầu.” Gold Goldstein nói
“Tất cả mọi người đều đánh giá thấp mối đe dọa này vì ngay từ đầu chúng tôi có được thông tin rất hạn chế.”
Freddi Goldstein
Ở California, giới chức y tế Tiểu bang đã tự lập mô hình cho ổ dịch, trong khi giới hữu trách y tế Tiểu bang New York thừa nhận với ProPublica rằng họ không tự lập mô hình và chỉ dựa vào dữ liệu có sẵn, và một số đáng ngờ.
Kế hoạch phòng ngừa và ứng phó với đại dịch ở New York, lần đầu tiên được thiết lập vào năm 2006 và dài hàng trăm trang, dự đoán hệ thống y tế của Tiểu bang sẽ kẹt cứng nếu lâm vào tình trạng như vậy, và nó nhấn mạnh hai nhu cầu thiết yếu: một kho dự trữ đầy đủ và cập nhật vật dụng khẩn cấp và bảo vệ, và một cơ chế để nhanh chóng tăng số giường bệnh viện có sẵn của Tiểu bang.
Mặc dù đã nhiều lần yêu cầu, giới chức y tế Tiểu bang New York đã không cho biết có những gì trong kho dự trữ của Tiểu bang vào đầu năm 2020, nhưng rõ ràng là không đủ. Cuomo công khai than thở về việc thiếu các tài nguyên như vậy gần như từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng. Một giám đốc điều hành y tế cao cấp cho biết ông nhớ lại Cuomo thất vọng từ đầu về kho dự trữ của Tiểu bang, hỏi: “Có những gì trong đó? Nó đã hết hạn chưa?”
Đối với việc tăng số giường ở bệnh viện, phải đến ngày 16 tháng 3, Cuomo mới chỉ định một toán đặc nhiệm nâng số giường lên nhiều hơn, yêu cầu tăng 50% số giường đã có trong 24 giờ. Michael Dowling, giám đốc điều hành của Northwell Health, tổ chức bệnh viện lớn nhất của Tiểu bang và là một trong những lãnh đạo y tế được Cuomo bổ nhiệm vào lực lượng đặc nhiệm nói,
“Bạn có thể lập luận rằng nó nên xảy ra một tháng trước đó.”
Michael Dowling
Phải mất thêm hai tuần nữa trước khi Cuomo thông báo rằng ông ta đã lập một “bộ chỉ huy” có thể giải quyết các nguồn cung cấp khẩn và số giường có sẵn tại các bệnh viện trên toàn Tiểu bang để những tài nguyên đó có thể được chuyển đến những nơi cần thiết. Lúc đó đã mất một tháng kể từ khi phát giác người lây nhiễm COVID-19 đầu tiên của Tiểu bang.
Về kế hoạch đại dịch Tiểu bang đã quy định và việc tăng số giường bệnh viện sẽ diễn ra như thế nào, Dowling nói rằng ông chưa bao giờ nhìn thấy tài liệu này và không biết về sự hiện hữu của nó. Dowling nói trong một cuộc phỏng vấn,
“Trong 15 năm qua, tôi không nhớ đã khi nào có một một cuộc thảo luận với Tiểu bang về những gì cần phải làm trong một đại dịch.”
Michael Dowling
Hiệu năng của Tiểu bang một khi New York rơi vào vòng vây vì đại dịch này cũng đã dặt thành vấn đề. Ủy viên Y tế Tiểu bang Howard Zucker – một trong nửa tá nhân viên trong ban cố vấn của Cuomo để đối phó với khủng hoảng – đã bị báo chí địa phương nướng vì quyết định cho phép những người ở viện dưỡng lão đã nhiễm bệnh được đưa trở về những cơ sở đó. Chính quyền đã đảo ngược quyết định đó trong tuần này.
Trong khi đó, Hội Y tá Tiểu bang New York đã kiện Bộ Y tế và Ủy viên Y tế Tiểu bang vì đã không trang bị đầy đủ cho nhân viên y tế tuyến đầu với trang phục an toàn và cho phép các bệnh viện ra lệnh cho các y tá đã lây bệnh COVID-19 đi làm việc lại.
Trong vụ kiện, Hội Y tá đã đưa kết quả của cuộc khảo sát do chính họ thưc hiện đã nêu lên những tác hại đối với các hội viên vì sự thiếu hụt vật dụng an toàn. Khoảng 70% y tá trả lời khảo sát cho biết họ đã tiếp xúc với virus tại nơi làm việc; 11% cho biết họ đã xét nghiệm bị nhiễm COVID-19.
Trong một tuyên bố, Jonah Bruno, phát ngôn viên của Bộ Y tế, cho biết:
“Tiểu bang New York tiếp tục đi những bước cần thiết để bảo đảm cho nhân viên y tế, đặc biệt là những người đang lấy mẫu và chăm sóc bệnh nhân trực tiếp, có sự hỗ trợ và vật dụng cần thiết cho việc giải quyết nhu cầu y tế khẩn cấp chưa từng có này. Trong suốt tiến trình ứng phó với đại dịch này, chúng tôi đã gửi cho các cơ sở y tế khoảng 29 triệu mặt nạ, 475.000 kính che mắt, 16 triệu áo choàng và 446.000 đôi găng tay.”
Jonah Bruno
Đây không phải là lần đâu tiên chúng tôi bị thử thách
Tại New York, điều không thể tránh khỏi đã đến vào ngày 1 tháng 3 khi một phụ nữ ở Queens trở thành người đầu tiên trong Tiểu bang xét nghiệm đã nhiễm COVID-19. Bà vừa từ Iran về; ở đó virus đã tấn công trên toàn quốc nhiều tuần trước, giết chết gần 1.000 và làm 23 Nghị viên nhiễm bệnh.
Cuomo bình thản trước thông tin đó. Ông ấy nói khi công bố kết quả xét nghiệm,
“Không có lý do gì lạ – đây là điều đã biết trước. Tôi đã nói từ đầu, đó là vấn đề khi nào nó đến chứ không phải nếu nó sẽ xảy ra.”
Andrew Cuomo
Ngày hôm sau, trường hợp thứ hai xuất hiệ ở Tiểu bang. Một luật sư ở New Rochelle, ở vài dặm về phía bắc của thành phố New York, đã xét nghiệm bị nhiễm. Hoàn cảng đáng ngại hơn nhiều: Ông này không đi đâu khác ngoài việc hàng ngày đến văn phòng ở Manhattan, chắc chắn ông đã không đến bất kỳ điểm nóng COVID-19 nào được biết đến như Hoa lục hay Ý. Ông ấy đã bị một người vô danh lây nhiễm ở Hoa Kỳ, một hiện tượng trong thế giới của bệnh truyền nhiễm gọi là “lây nhiễm cộng đồng”.
Hai trường hợp đầu tiên ở New York được phát giác khi giới chức y tế, trên toàn cầu và ở Hoa Kỳ, đang có báo động cao. Năm ngày trước khi có người đầu tiên nhiễm bệnh ở New York, Bác sĩ Nancy Messonnier, giám đốc Trung tâm Miễn dịch và Bệnh Hô hấp Quốc gia tại Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Liên bang, cho biết công khai rằng COVID-19 đã hội đủ hai trong ba yếu tố cần thiết để được phân loại là đại dịch: bệnh dẫn đến chết người và có sự lây lan từ người sang người.
Sự lan truyền trong cộng đồng, Messonnier nói, hiện đang xảy ra ở Ý, Iran, Hong Kong, Nam Hàn, Đài Loan và các nơi khác. Nếu COVID-19 bắt đầu lan rộng ở các địa phương của Hoa Kỳ, bà nói, việc đóng cửa các trường học, hạn chế các doanh nghiệp và cấm các cuộc tụ họp đông người sẽ phải được nhanh chóng xét đến.
Trong những ngày đầu tiên của tháng 3, Cuomo và chính quyền của ông, theo lời của một viên chức, cố gắng để giữ thế quân bằng. Các quốc gia trên thế giới đã thực hiện nhiều bước khác nhau để hạn chế sự lây lan của căn bệnh, bắt đầu các chương trình xét nghiệm và chương trình theo dõi người đã tiếp xúc với bệnh nhân, cũng như đóng cửa trường học và doanh nghiệp, và buộc mọi người phải ở trong nhà trừ trường hợp khẩn cấp. Nhưng tại Washington, Tổng thống Donald Trump đã bỏ nhiều tuần xem thường mối đe dọa của COVID-19, khi thì ông gọi những lo ngại ngày càng tăng là một trò lừa bịp của đảng Dân chủ, khi thì ông dự đoán sự biến mất kỳ diệu của nó.
Điều đó đã trở nên rõ ràng đối với các giới hữu trách địa phương như Cuomo ở New York và Newsom ở California rằng họ sẽ tự mình lèo lái cuộc khủng hoảng với lời khuyên từ các chuyên gia và cố vấn của họ.
Đầu tháng 2, virus đang hoành hành phần lớn ở Hoa lục, Cuomo đã đưa ra một lưu ý thận trọng, nhằm làm dịu đi những gì ông cho là nỗi sợ hãi vô lý đối với loại virus mới này. Ông nói, Cúm theo mùa là một lo ngại nghiêm trọng. Người New York cần có cảnh giác thực tế.
Đến cuối tháng 2, Cuomo dường như đã bắt đầu hiểu được được mối đe dọa ngày càng tăng. Ông cũng có người đồng tình. Frieden, từng là Ủy viên Y tế của thành phố New York trong cả 10 năm và đã giúp giám sát việc ứng phó với đại dịch cúm H1N1 năm 2009, đã viết công khai rằng COVID-19 đã lên đến cấp đại dịch “nghiêm trọng”. Frieden lập luận rằng các biện pháp can thiệp mạnh hơn, thậm chí triệt để hơn để hạn chế mọi tương tác phải được xét đến.
Giơi hữu trách trong chính quyền Cuomo cho biết, lúc đó nhóm tín cẩn của Cuomo – ủy viên y tế, giám đốc ngân sách, phụ tá thân cận nhất của ông và một người nhiều kinh nghiệm từ đại học trở về giúp Cuomo – đã họp hàng ngày, hàng chục lần.
Cuomo vào ngày 26 tháng 2 tuyên bố rằng phòng thí nghiệm được đánh giá cao của Tiểu bang đã chế ra một bộ xét nghiệm virus và ông ta đang muốn được sự chấp thuận của Liên bang để bắt đầu sử dụng các bộ xét nghiệm đó. Ông nói rằng Bộ Y tế Tiểu bang có 40 triệu đô la để thuê thêm nhân viên cũng như mua vật dụng và “bất kỳ nguồn lực nào khác cần thiết để ứng phó với đại dịch coronavirus mới.”
Và vì vậy, khi tin tức ngày 2 tháng 3 về lan truyền cộng đồng ở New Rochelle, Cuomo đã yêu cầu dân chúng bình tĩnh. Ông tự hào cho hay Tiểu bang đã đối phó thành công với nhiều sự sợ hãi về sức khỏe trong những năm qua. Cuomo nói,
“Chúng ta đã phối hợp đủ, và chúng ta đã huy động đủ, và chúng ta đã chuẩn bị đủ để đối phó với tình hình khi nó xảy ra. Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta bị thử thách.”
Andrew Cuomo
New York đã có kế hoạch chi tiết về việc chuẩn bị và ứng phó với đại dịch, lần đầu tiên được Bộ Y tế Tiểu bang phát hành vào năm 2006. Sau ngày 9/11, chính phủ Liên bang đã tài trợ cho các nỗ lực của chính phủ Tiểu bang và địa phương nhằm bảo vệ tốt hơn để quốc gia tránh khỏi nhiều loại đe dọa, từ khủng bố đến bão lụt, đến chiến tranh sinh học, đến dịch bệnh truyền nhiễm. New York đã sử dụng tiền và thời điểm để giải quyết một đại dịch có thể xảy ra.
Kế hoạch của New York đã dự đoán rằng một dịch bệnh giống như cúm có thể sẽ làm cho một số nhiều người mắc bệnh và áp đảo hệ thống y tế; và vì dịch bệnh có thể xảy ra một lúc trên cả nước, các chính quyền địa phương sẽ cần phải dựa vào nguồn lực của chính họ để ứng phó. Kế hoạch đó nhắc nhớ rằng nhân viên y tế và những toán cứu cấp sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao, làm hệ thống y tế thêm căng thẳng.
Nhưng trong các trang tiếp theo với các biểu đồ và tiểu mục giải quyết một loạt các vấn đề – ủy quyền hợp pháp để áp đặt các giới hạn đối với các cuộc tụ họp công cộng; việc lập một “hệ thống chỉ huy khủng hoảng”, có thể phối hợp những hoạt động từ một loạt các cơ quan của Tiểu bang – không có nhiều chi tiết cụ thể về những gì các nhà chức trách nên làm để ngăn chặn hoặc giảm thiểu những thiên tai tiềm tàng mà báo cáo đã dự đoán được trước.
Tài liệu đó chỉ đơn giản nói rằng tùy các bệnh viện và chính quyền địa phương sẽ tự lập nên những kế hoạch biến tầm nhìn của tài liệu về việc thêm giường bệnh và bảo vệ nhân viên y tế và những người đi cấp cứu thành hiện thực.
Dowling, Giám đốc điều hành Northwell cũng là một cố vấn tín cẩn của Cuomo, nói rằng thậm chí ông không biết tài liệu đó hiện hữu, cho hay,
“Một kế hoạch viết trên giấy mà không có một phần thực hành (cách thao tác) thì chằng có nghĩ gì hết.”
Michael Dowling
Khi được hỏi về nhận xét của Dowling, và liệu các giới hữu chức của bệnh viện trên toàn Tiểu bang có biết về kế hoạch này hay không, Bruno, người phát ngôn của Sở Y tế, cho biết
“Đại diện của tất cả các vụ trả lời cho kế hoạch đa vụ gặp nhau nhiều lần trong năm để xem lại và cập nhật kế hoạch.”
Jonah Bruno
Stanley Brezenoff, một công chức nổi danh của New York, người đứng đầu Tập đoàn Y tế và Bệnh viện Thành phố New York dưới quyền Thị trưởng Ed Koch, và đã được các Thị trưởng và Thống đốc hỏi ý kiến trong thời kỳ khủng hoảng, cho biết kế hoạch phản ứng của Tiểu bang có đủ giá trị ở bề mặt. Brezenoff nói,
“Có một loại kế hoạch để xét mọi việc cần phải làm là một chuyện. Tuy nhiên, nó cần phải đi đến cấp tiếp theo và trở thành cụ thể. Nếu chúng ta cần thêm 200 giường bệnh, điều đó đòi hỏi những gì? Kế hoạch, bài tập để trên bàn. Tất cả những thứ đó có thể dễ dàng trở thành những bài tập trống không. Biến chúng thành hữu ích là thách thức.”
Stanley Brezenoff
Giơi hữu trách của Bộ Y tế Tiểu bang đã nói rằng kế hoạch này rất hữu ích trong năm 2009 trong đại dịch H1N1, một mối đe dọa hóa ra ít gây tổn hại hơn so với nỗi sợ ban đầu và từ đó nó đã được cập nhật thường xuyên. Bruno cho biết Bộ đã tham gia nhiều cuộc thực tập với chính quyền Liên bang và địa phương nhằm chuẩn bị tốt hơn cho đại dịch.
Tài liệu nhấn mạnh ở một số điểm, nhất là sự cần thiết phải dự trữ dụng cụ khẩn cấp của Tiểu bang.
Một cựu công chức cao cấp của Bộ Y tế cho biết ông nhớ việc tạo ra kho dự trữ vào khoảng thời gian ban hành kế hoạch năm 2006. Ông ta nhớ lại nó có cả những thứ như thuốc trị cúm thông thường, nhưng ông ấy không nghĩ rằng nó có các dụng cụ tinh vi như máy thở.
Viên cựu công chức cho biết tiền Liên bang đã tài trợ cho kế hoạch phản ứng và kho dự trữ ban đầu đã cạn kiệt không lâu sau đó. Luôn luôn có một cuộc khủng hoảng khác để chính phủ Liên bang tài trợ. Ông nói tiếp,
“Đe dọa giảm dần, đồng đô la biến mất, sự chú ý giảm xuống. Nó là một vòng quay theo chu kỳ. Các kho dự trữ trên lý thuyết là một cơ sở tốn kém để bảo trì. Điểm tựa của bạn luôn là kho dự trữ của Liên bang.”
Nhưng trong kế hoạch nêu rõ ràng nghĩa vụ của Tiểu bang là phải chuẩn bị đầy đủ, Cuomo trong nhiều tuần đã tìm cách miêu tả chính phủ Liên bang là thủ phạm trong cuộc khủng hoảng vì tình trạng thiếu dung cụ an toàn và y tế như máy thở. Có lúc ông ấy đã nói,
“Tôi không thể nói với một bệnh viện, ‘Tôi sẽ gửi cho quý vị tất cả các vật dụng quý vị cần, tôi sẽ gửi cho bạn tất cả các máy thở mà quý vị cần. Chúng tôi không có những thú đó. Nó không phải là một bài tập. Nó không phải là một cuộc thực tập. Nó là một tuyên bố về thực tế.”
Andrew Cuomo
Trump đã bác bỏ những tuyên bố như vậy là những lời bào chữa nghèo nàn không hơn không kém. Trong một tweet, Trump viết,
“Những người phàn nàn lẽ ra phải dự trữ và sẵn sàng từ lâu trước khi cuộc khủng hoảng này xảy ra.”
Donald Trump
Một phát ngôn viên của chính quyền Cuomo đã từ chôi không nói Thống đốc đã từng đọc kế hoạch đại dịch Tiểu bang hay chưa hay ông ta có hài lòng với những gì có trong kho dự trữ của Tiểu bang hay không. Chính quyền cũng từ chối không để cho Zucker, Ủy viên Y tế, trả lời một cuộc phỏng vấn.
Dowling, giám đốc điều hành Northwell, cho biết ông đã nói chuyện với Cuomo về kho dự trữ của Tiểu bang trong cuộc khủng hoảng. Khi được hỏi liệu ông có biết những gì trong đó không, Dowling nói thẳng thừng, “Không đủ.”
“Hãy tha thứ cho họ, vì họ không biết họ làm gì”
Vào ngày 5 tháng 3, số người nhiễm COVID-19 tại Thành phố New York đã tăng gấp đôi cứ sau năm hoặc sáu ngày, và giới chức trong Sở Y tế của thành phố đã ngày càng thất vọng về những gì họ coi là thất bại trong việc hiểu được độ lớn và bản chất của cuộc khủng hoảng. Ngày hôm đó, ông ấy đã công bố thông cáo báo chí bày tỏ lòng tin rằng thành phố vẫn có thể “đánh bại thứ này.”
Nhưng một số trong Sở Y tế cảm thấy có hy vọng về một sự đột phá. Ngày hôm sau, 6 tháng 3, hầu hết các phụ tá cao cấp của de Blasio, được thông báo về mô hình dịch bệnh do Lipsitch đã lập tại Harvard. Lipsitch đã làm việc với Sở Y tế thành phố trong đại dịch cúm 2009, giúp tìm ra những điều như nếu, khi nào và làm thế nào để đóng cửa trường học. Ông là một nguồn đáng tin cậy.
Một công chức thành phố đã nói với ProPublica, Sở này đã sử dụng mô hình của Lipsitch để thực hiện cái gọi là “mô phỏng Monte Carlo”, đó là những gì giống như: đưa một loạt các số ngẫu nhiên được vào mô hình để xem những gì có thể xảy ra. Viên chức này nói rằng kết quả trung bình trong số 50 lần thử là thế này: Nếu chỉ có 25 người nhiễm bệnh đến từ Vũ Hán, thành phố lớn của Hoa lục nơi đại dịch bắt đầu, vào tháng 1, New York sẽ có đại dịch, có lẽ có đến 100.000 người nhiễm COVID-19 vào tháng Tư.
Đó là một dự đoán không có vẻ gì là liều lĩnh. Các chuyến bay từ Hoa lục đến New York đã diễn ra hàng ngày trong gần ba tuần sau khi người nhiễm đầu tiên được xác nhận ở Vũ Hán và trước khi chính quyền bắt sơ lọc hành khách đến. Người nhiễm bệnh đầu tiên của Ý xuất hiện vào ngày 20 tháng 2, nhưng các chuyến bay đến New York từ quốc gia đó và các nước khác ở châu Âu vẫn tiếp tục cho đến ngày 16 tháng 3.
Các cuộc họp thông là tin kể như vô hiệu. Một công chức đã viết về de Blasio lúc đó,
“Ông ta không muốn tin rằng việc truyền nhiễm đang âm thầm diễn ra. Những thứ đó có thể sẽ nổ tung.”
Sự khác biệt giữa de Blasio và Sở Y tế của chính ông đã diễn ra – có lẽ đã xảy ra vào cuối tháng Hai và đầu tháng Ba. Các sự kiện của những ngày đó đã được dựng lại bằng những ghi chú do những công chức thành phố lưu giữ tại thời điểm những gì họ đang nhìn thấy – sự hạ cấp và coi thường một trong những Sở Y tế địa phương được kính nể nhất thế giới.
Các ghi chú của vị công chức đó cho thấy rằng cuối tháng hai là cơ hội đầu tiên để de Blasio thu nhận những gì sở y tế của ông đã cảnh cáo. Chuyện không xuông sẻ. Sau một cuộc họp báo ngày 26 tháng 2, vị công chức viết,
“Ông ấy đã nói toàn những điều sai trái.”
Đối với nhiều người trong Sở Y tế, sự xuất hiện của de Blasio vào ngày 26 tháng 2 là cơ hội để ông Thị trưởng sòng phẳng với người dân New York và chuẩn bị cho họ đối phó với một đại dịch thực sự và hậu quả của nó. Virus có khả năng lây lan vô hình trong những người tiếp xúc với du khách. Dựa vào kết quả của một số xét nghiệm mà thành phố đã gửi cho CDC để lập chính sách là không đủ. Những biện pháp mạnh – đóng cửa trường học đóng cửa hoặc hạn chế di chuyển công cộng – cần được xét đến và hàng triệu người sẽ bị ảnh hưởng cần phải đươc chuẩn bị cho những trường hợp đó.
De Blasio nói, trong cuộc họp báo ngắn, rằng ông rất quan tâm đến mối đe dọa, rằng ông ta tự tin rằng ông có thể có thêm 1200 giường bệnh nếu cần, và những người có thể bị nhiễm bệnh nên được xét nghiệm và đến bệnh viện.
Nhưng ông cũng nói về việc không có người nào nhiễm bệnh đã được xác nhận trong thành phố, bảy xét nghiệm cho thấy không có người nào nhiễm COVID-19, thành phố có nhiều thời gian để tăng cường phản ứng nếu mọi việc thay đổi. Nhà chức trách thành phố lắng nghe trong sự hoài nghi. Vị công chức ghi tiếp,
“Cuộc họp báo thật quá tệ. Ông ấy không hiểu rằng hệ thống nhà thương đã bị COVID-19 tấn công quá mức ở Hoa lục và Nam Hàn Quốc. Nhiều bệnh nhân và nhân viên y tế đã bị nhiễm bệnh. Thông điệp của chúng tôi với giới y tế là ‘bảo vệ bệnh nhân và nhân viên’ của bạn bằng cách ngăn chặn ổ dịch tại bệnh viện, như đã xảy ra thảm khốc ở Toronto năm 2003 với SARS. Thị trưởng đang gửi một thông điệp quá tệ có thể cho phép bệnh viện tự bằng lòng.”
Viên chức này lưu ý rằng Sở Y tế Thành phố New York là một tổ chức được kính nể, có uy tín quốc tế về tầm cỡ, tài nguyên và chuyên môn. Thất vọng và tức giận vì tài năng và cam kết hệ thống đã bị xem thường, viên chức này ghi nhận cách ủy viên sở y tế New York đã bị de Blasio làm bẽ mặt trong một cuộc họp chính thức, đã rơi nước mắt. Cả bà và các phụ tá hàng đầu, sau đó đã dành quá nhiều thời gian của họ ngồi bên cạnh một Thị trưởng lập chính sách y tế công cộng như trở bàn tay.
Tổng kết lại, các ghi chú đương thời của vị công chức đó được chuyển cho ProPublica, đọc như một nhật ký đáng lo ngại về những gì vị công chức đã xem là một cuốn phim chuyển động chậm về một thảm họa lãnh đạo.
Vào ngày 28 tháng 2, viên chức này lưu ý rằng CDC đã “xoay trục”, xem mối đe dọa COVID-19 như một đại dịch toàn diện. Tại sao giới lãnh đạo New York, Cuomo và de Blasio, vẫn chưa làm điều tương tự là điểu không hiểu được. Một cuộc tấn công dữ dội là điều không thể tránh khỏi. Công chúng sẽ rất tức giận khi bị bất ngờ đánh úp.
“Không thể tưởng được việc tại sao chính phủ chưa xoay trục để chuẩn bị cho công chúng đối phó vơi sự việc có thể trở nên tồi tệ rất nhanh. Một khi uy tín với quần chúng đã mất, sẽ không thể lấy lại được.”
Goldstein, phát ngôn viên của de Blasio, đã phủ nhận ý kiến cho rằng thị trưởng đã phớt lờ hoặc mâu thuẫn với giới chức y tế hàng đầu của ông, nói rằng “hướng dẫn của họ và của ông ấy đồng bộ”. Bà cho rằng việc thiếu xét nghiệm quy mô đã cản trở những nỗ lực của chính quyền.
Vấn đề là chúng tôi bị trói một tay sau lưng cho đến khi có người nhiễm bệnh đâu tiên được xác nhận, mà đến nay chúng tôi biết là virus đã có thể lây lan ở vài tuần khắp thành phố. Chúng tôi đã không được cung cấp các công cụ cần thiết để phát giác đúng sự lây lan ở năm quận, khiến chúng tôi bị hạn chế hiểu biết trong một thời gian khi cuộc khủng hoảng đã xảy ra.
Khi được hỏi về việc liệu Thị trưởng có được thông báo về mô hình của Lipsitch đã cấp cho thành phố vào tháng 2 hay không – nó cho thấy thành phố có thể có hàng chục ngàn người nhiễm bệnh trong vòng vài tuần – Goldstein nói bà không biết.
Các ghi chú của vị công chức thành phố cho thấy Sở Y tế vào đầu tháng 3 vẫn còn bối rối khi Thị trưởng tiếp tục nói về việc sẽ thắng cuộc trước mối đe dọa.
“Ông ấy không hiểu vấn đề. Lại càng không tin rằng có ngọn núi lửa sắp nổ tung dưới chân chúng tôi và nghĩ rằng chúng tôi cần phải đánh bại no bằng những cácnh ngăn chặn đang sử dụng.”
Vào ngày 5 tháng 3, ghi chú của viên chức trở nên tối tăm hơn. Viên chức này nói rằng de Blasio đã bịt miệng Ủy viên Sở Y tế và phụ tá cao cấp của bà về các bệnh truyền nhiễm trong ba ngày qua, chỉ thị cho họ phải hậu thuẫn các quyết định mà ông ta tự đưa ra. Vị công chức này đã xem thường một thông cáo báo chí của Thị trưởng, tuyên bố rằng các “thám tử dịch bệnh” sẽ theo dõi mọi người đã lây nhiễm và ra lệnh cho những người bị nhiễm bệnh phải cách ly như chuyện tưởng tượng. Viên chức ở New York viết tiếp,
“Hệ thống bệnh viện đang đợi sự hỗ trợ của chúng tôi, nhưng chúng tôi đã bị chính sách của thành phố cản trở. Càng giống Hoa lục và Iran hơn những gì thành phố này đã từng có.”
Có những người trong Sở Y tế biết những gì cần thiết. Nhưng không ai nghe lời khuyên của họ.
Thị trưởng nên
“Dùng chiến lược truyền thông chấp nhận rủi ro để chuẩn bị cho công chúng về những gì chúng ta nghĩ sẽ xảy ra, điều đó khuyến khích họ sẵn sàng đối phó vơi khủng hoảng – như chúng ta làm với những lần bị bão – để tìm ra cách hỗ trợ những người dễ bị tổn thương nhất trong gia đình, khu phố, cộng đồng của chúng ta, để chuẩn bị cho một thời điểm mà cuộc sống của mọi người có thể bị gián đoạn, để chắc chắn rằng mọi người có thuốc men đủ dùng cho 1-2 tháng, v.v.
Sau đó, tôi sẽ giúp mọi người sẵn sàng cho thời điểm khi hệ thống y tế có thể không hoạt động như bình thường, khi các bệnh viện sẽ phải lo cho hàng ngàn bệnh nhân bị bệnh nặng, khi thiếu giường và máy thở, khi có thể có ổ dịch ở bệnh viện, khi những bệnh viện cho bệnh nhân ngoại trú khó có thể khó thấy trước. Nói tóm lại, chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho công chúng và cộng đồng y tế đối phó với đại dịch.”
Ngày hôm sau, 6 tháng 3, sau cuộc báo cáo ngắn và thất bại về hậu quả theo mô hình dịch bệnh với de Blasio, hầu hết các phụ tá cao cấp nghĩ rẳng “Tù nhân đã thực sự chiếm nhà tù.” Về tình hình nhân viên trong thành phố và sai lầm của Thị trưởng trong việc quản lý chi ly, viên chức ở New York viết,
“Càng ngày càng có sự chống đối và sự quyết tâm chống cự trong nội bộ.”
Và tiên đoán nhân viên thành phố sẽ “gặp khó khăn lớn” trong việc phải làm những gì cần thiết mà “không bị đuổi việc.” Bản ghi chú viết tiếp,
Sự thách thức của nhân viên Sở Y tế đã tăng lên nhanh chóng, những người ở “cấp cao nhất” đã được huy động, để chuyển một tối hậu thư của nhân viên y tế đến Tòa thị chính, bản ghi chú viết:
“Hoặc phải xoay trục ngay hôm nay để lập kế hoạch cho đại dịch hoặc sẽ đối phó với một sở y tế bất tuân lệnh của ông ấy.”
Cuomo cũng không giúp gì hơn khi cùng lúc ông ấy ra lệnh cho tất cả các sở y tế trên toàn Tiểu bang cách ly những người có thể đã tiếp xúc với người nhiễm bệnh hoặc đã đến một quốc gia có ổ dịch. Thành phố được lệnh cung cấp nhà ở với các phòng đơn và phòng tắm riêng cho những người như vậy. Đối với vị công chức này, đó là một lãng phí thời gian, năng lượng và tài nguyên quý giá khác theo đuổi ý tưởng đã lỗi thới là có thể ngăn chận được virus. Vị công chức này viết,
“Hãy tha thứ cho họ, vì họ không biết họ làm gì.”
Sở Y tế thành phố không đơn độc trong tuyệt vọng về cách giải quyết khủng hoảng của thị trưởng.
Vào ngày 9 tháng 3, 18 học giả và các nhà lãnh đạo cộng đồng gửi một bức thư đến de Blasio và ủy viên y tế của ông yêu cầu Thị trưởng nghiêm túc bắt đầu xét đến việc đóng cửa trường học và cắt giảm giờ làm việc. Những người ký tên gồm ít nhất bốn giáo sư nổi tiếng tại các trường y tế cộng đồng lớn cũng như chủ tịch của một số tổ chức chuyên lo cho Sức khỏe và Công lý của người Mỹ gốc châu Phi và Latinh.
Những người đã ký bức thư đã thấy một mối đe dọa đặc biệt đối với các cộng đồng thiểu số và người nghèo, những người thường đau yếu hơn và thường dựa vào bệnh viện công địa phương như là nơi chăm sóc duy nhất của họ.
Lá thư viết,
“Kế hoạch cho họ là gì? Trễ nãi trong sự can thiệp quan trọng này không phải là một đức tính.”
Không có bất đồng nào trong Sở Y tế. Thất vọng đã trở thành giận dữ.
Một số công chức cao cấp đã lập một kế hoạch để có một trong những nhân vật lãnh đạo cấp cao nhất, thách thị trưởng sa thải ông ta bằng cách phát hình trực tiếp trên truyền hình và cho biết nhu cầu cấp bách phải đóng cửa trường học và đưa ra những giới nghiêm quan trọng hơn ngay lập tức.
Goldstein, phát ngôn viên của de Blasio, nói với kiến thức của bà, không ai ở Sở Y tế đe dọa sẽ bỏ việc. Bà không thể nói nếu Thị trưởng đã đọc bức thư ngày 9 tháng 3 hay chưa. Một lần nữa bà lập lại Thị trưởng đã tuân theo hướng dẫn của chính phủ Liên bang về mối đe dọa và cách kiểm soát nó. Goldstein nói bây giờ rõ ràng rằng lời khuyên (của chính phủ Liên bang ) là sai, và New York nên tập trung vào những người từ châu Âu đến New York, chứ không phải người đến từ Hoa lục.
Vào ngày 14 tháng 5, tờ Thời báo New York đã đưa tin rằng de Blasio không nghe lời khuyên của Sở Y tế một phần vì sự phụ thuộc vào lời khuyên của Bác sĩ Mitchell Katz, người đứng đầu Tập đoàn Y tế và Bệnh viện thành phố. Tờ Thời báo đã tìm thấy một email ngày 10 tháng 3 do Katz gởi đến các phụ tá hàng đầu của de Blasio, trong đó ông đã xem thường tác động của các biện pháp cách ly vật lý trong sinh hoạt xã hội.
Theo báo New York Times, trong email Katz đã viết, “không có bằng chứng nào cho thấy việc đóng cửa sẽ giúp ngăn chặn sự lây lan.”
Tờ Times đưa tin, theo Katz,
“Chúng ta phải chấp nhận rằng trừ khi có vaccine sớm, một số nhiều người sẽ bị nhiễm bệnh. Điều tốt là hơn 99 phần trăm sẽ phục hồi mà không bị thiệt hại. Một khi mọi người phục hồi họ sẽ có miễn dịch. Sự miễn dịch sẽ bảo vệ cộng đồng.” Mitchell Katz
Goldstein đã không phủ nhận bản tin của TNYT, nói rằng de Blasio dựa vào nhiều lời khuyên khác nhau, gồm cả cuae Sở Y tế của ông.
Đó không phải là cách nhân viên Sở Y tế nhận thấy, theo ghi chú của viên chức của thành phố. De Blasio đã không nghe lời các chuyên gia nhiều kinh nghiệm nhất của mình. Trong ghi chú về thị trưởng vào đầu tháng ba, viên chức ở New York viết,
“Tôi không biết nói gì nữa. Mỗi thông điệp mà chúng tôi muốn gởi đến với công chúng cần phải thông qua ông ấy, và cuối cùng chúng bị xáo trộn. Tòa thị chính tiếp tục đứng bên lề và trói tay Sở Y tế cộng đồng hàng đầu của Mỹ.”
“Chúng tôi bắt đầu vào bối cảnh tụ tập và bệnh viện, đó là một dấu hiệu cho thấy chúng tôi đã lún sâu việc lây truyền trong cộng đồng.”
“Khốn nạn cho chúng tôi rồi!”
© 2020 DCVOnline
Nếu đăng lại, in ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: CORONAVIRUS | Joe Sexton and Joaquin Sapien | ProPublica| May 16, 2020,