Một nhận định của phóng viên: Cựu chiến binh Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2020
Dan Southerland | Trà Mi
Một cuốn sách mới kể về những hy sinh và thành tích của các cựu chiến binh Mỹ trong và sau Chiến tranh Việt Nam.
Cuốn sách có tựa đề “Họ là những người lính” do Joseph L. Galloway và Marvin J. Wolf viết kể lại những câu chuyện của 47 người Mỹ đã phục vụ tại Việt Nam trong khoảng thời gian vài chục năm.
Họ từng là nhân viên, giới chức chính phủ văn phòng, và nhà báo và những người trong ngành ngành nghề khác.
Tình cờ, cuốn sách cũng có cả tiểu sử của một người tị nạn Việt Nam từng là một sĩ quan bảo trì phục vụ trong Không quân VNCH. Ông đã thoát khỏi Việt Nam vào phút cuối trên một trong những chuyến bay sau cùng rời Sài Gòn năm 1975. Hai người khác được kể trong cuốn sách là con trai của một người lính và một người khác là cựu chiến binh Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng Hòa.
Đây là việc rất quan trọng, bởi vì tôi không nghĩ rằng truyền thông Mỹ đã dành đủ sự quan tâm cho những hy sinh của các cựu chiến binh Việt Nam và gia đình của họ. Câu chuyện thành công của những người tị nạn Việt Nam đến Hoa Kỳ được nhiều người biết đến, nhưng những hy sinh của các cựu chiến binh và những đóng góp khác của họ cho xã hội Hoa Kỳ thì không được chú ý đến.
Là một phóng viên ở Sài Gòn và sau đó ở Hong Kong, tôi đã đưa tin về Chiến tranh Việt Nam trong chín năm từ giữa những năm 1960 cho đến khi Sài Gòn thất thủ vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 khi tôi lên một trong những chiếc trực thăng cuối cùng rời Sài Gòn.
Đồng tác giả Joe Galloway là một người bạn. Ông ấy và tôi cùng làm phóng viên cho United Press International tại Việt Nam vào giữa những năm 1960.
Joe đã nổi tiếng nhất trong số chúng phóng viên tôi khi tôi đến Việt Nam vào đầu năm 1966 vì vai trò của ông trong tháng 11 năm 1965 trong trận đánh lớn đầu tiên giữa Quân đội Hoa Kỳ và quan chính quy Bắc Việt. Trận chiến ở thung lũng Ia Drang kéo dài ba ngày đã diễn ra ở vùng cao nguyên miền Trung của Việt Nam.
Trận chiến kéo dài ba ngày đó đã trở thành cốt truyện của một cuốn sách mà Joe là đồng tác giả và sau đó là một bộ phim nổi tiếng vào năm 2002 có tựa đề “We Were Soldiers”, trong đó diễn viên Mel Gibson đóng vai Trung tá Hal Moore, người chỉ huy quân đội Hoa Kỳ ở mặt trận.
Joe đã được trao huy chương can đảm Ngôi sao Đồng vì đã giải cứu một người lính bị thương nặng ở mặt trận.
Trong phần giới thiệu cuốn “Họ là những người lính” (“They Were Soldiers”), Marvin J. Wolf giải thích động lực chính để xuất bản cuốn sách mà ông là đồng tác giả với Galloway.
Wolf, hiện đang sống tại Asheville, Bắc Carolina, từng phục vụ trong Quân đội Hoa Kỳ với tư cách là một phóng viên ảnh, phóng viên và trưởng ban báo chí tại Việt Nam. Ông đến Việt Nam vào mùa hè năm 1965 và rời Việt Nam vào cuối tháng 11 năm 1966. Ông nói:
“Trong nhiều chục năm, lòng yêu nước và sự hy sinh cá nhân của những người đàn ông và phụ nữ tham gia cuộc chiến này đã bị công chúng Mỹ phớt lờ.
Nhiều người lính trở về đã bị phỉ báng như những kẻ giết trẻ em và phạm nhân chiến tranh, kể cả tôi…
Những người trong chúng tôi bị thương và tàn tật đã bị đòng bào và chính phủ của chúng tôi phớt lờ một cách đáng xấu hổ. Những pấn đấu của cá nhân chúng tôi để tái hội nhập với xã hội đã được phóng đại bởi sự chú ý không thương tiếc của giới truyền thông.
Nhiều chục năm qua, một số nhân vật quan trọng trong các bộ phim của Hollywood là cựu chiến binh Việt Nam phát cuồng… Người tử tế nhất đã gán cho chúng tôi nhãn hiệu những kẻ lầm đường,”
Marvin Wolf
Phim Hollywood có vấn đề trình bầy sự thực
Dựa trên nghiên cứu của Martha Bayles, một học giả tại Đại học Boston, người nghiên cứu các vấn đề văn hóa, gồm cả phim Hollywood, tôi đồng ý rằng đây là trường hợp của ít nhất hai bộ phim được trình chiếu vào cuối những năm 1970.
Đầu tiên là “Rolling Thunder” (1977) và thứ hai là phim “Ninth Configuration” (1979).
Như Bayles mô tả, trong cả hai bộ phim, các cựu binh đều được coi là những “quả bom hẹn giờ đầy cảm xúc chỉ chực chờ phát nổ.”
Các cựu chiến binh chắc chắn đã nhận một trận đòn đau điếng, không công bằng.
Và có thể một số độc giả sẽ ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu người Mỹ đã phục vụ ở Việt Nam.
Theo Marvin Wolf, từ năm 1964 đến 1975, khoảng 9,7 triệu người Mỹ mặc đồng phục, gần 10% thế hệ đàn ông Mỹ trong giai đoạn đó. Hai phần ba là quân nhân tình nguyện, và đó là một tập hợp mà Wolf mô tả là “đoàn quân có giáo dục tốt nhất mà quốc gia của chúng ta từng gửi đi tham chiến.”
- Khoảng 2.709.918 người Mỹ đã phục vụ tại Việt Nam — trên bộ, trên biển hoặc trên không.
- Hơn 58.000 người đã thiệt mạng.
- Khoảng một phần ba trong số họ là quân nhân bị động viên.
Trong khi đó, đến năm 1973, có gần 5.000 phụ nữ đang phục vụ tại Việt Nam.
Đa số là y tá chuyên nghiệp, và hầu hết họ đều tình nguyện phục vụ tại Việt Nam.
Một trong những chương hay nhất của cuốn sách tả lại việc làm của Grace Liem Lim Suan Tzu Galloway, tình cờ trở thành vợ của Joe Galloway sau này.
Câu chuyện của những y tá
Joe đã nói với tôi gần đây rằng kết hôn với Gracie là quyết định tốt nhất mà ông từng làm. Ông nói,
“Doc Gracie là một máy phát điện đáng nể, luôn luôn bận rộn với công việc.”
Joe Galloway
Gốc Singapore, Grace, theo trích dẫn trong They Were Soldiers, bà lớn lên ở Singapore và Đông Nam Á, dành một thời gian ở châu Âu, và vẫn còn một số người thân ở Trung Hoa. Bà nói,
“Gia đình tôi có sự đặc biệt là đã bị đuổi khỏi Trung hoa hai lần và Indonesia hai lần.”
Dr. Gracie Liem Szuan Tzu
Bà đã mơ ước trở thành một y tá.
Khi bà đi kiếm việc điều dưỡng ở Sài Gòn, các nữ tu ở Cơ quan Cứu trợ Công giáo “là những người duy nhất chịu nhận tôi. Tôi là một người Công giáo và tôi có tràng hạt Mân Côi.”
Grace trở thành người trợ giúp cho y tá, giúp các bác sĩ và y tá chăm sóc cho những đợt thường dân bị bệnh và bị thương.
Năm 1971, Grace chuyển đến Richmond, Virginia, nơi mẹ bà đã sống vài năm. Dựa trên kinh nghiệm làm việc với trẻ mồ côi và trẻ em bị bỏ rơi ở Việt Nam, YMCA đã thuê bà lập và điều hành một chương trình tạm trú cho những phụ nữ bị tàn tật và con cái của họ, một trong ba nơi tạm trú đầu tiên ở Hoa Kỳ.
Sau khi chương trình của bà đã bám rễ trong cộng đồng, Grace quyết định theo đuổi ước mơ thời thơ ấu của mình và ghi tên theo học khóa y tá hai năm tại một trường cao đẳng cộng đồng.
Trong vài chục năm tiếp đó, Grace làm việc trong các bệnh viện, gồm cả Bệnh viện Cựu chiến binh Richmond.
Mỗi ca làm việc với các cựu chiến binh, bà ấy nói, “là những hồi tưởng, sự tức giận không rõ nguyên nhân, những cơn ác mộng, những đêm mất ngủ và những cơn khóc bất chợt.”
‘Chúng tôi là nhân chứng sống’
Bà tiếp tục đi học lấy bằng Cao học thứ hai và tốt nghiệp tiến sĩ y tế công cộng.
Grace đã đi làm một năm cho Barnum & Bailey Circus, ban đầu là một y tá và sau đó là một nghệ sĩ biểu diễn, một người đu dây. Sau đó là một chục năm chu du khắp thế giới với Club Med.
Năm 2012, Grace kết hôn với một người bạn 45 năm, Joseph Galloway, người mà bà đã gặp lần đầu tiên ở Indonesia.
Bây giờ đã quá tuổi nghỉ hưu, Grace tiếp tục phục vụ cộng đồng của mình như là một bác sĩ y tá, ba ngày và một buổi tối một tuần, “Doc Gracie” coi bệnh nhân là chuyên gia y tế chính tại một phòng khám miễn phí ở Concord, Bắc Carolina, nơi bà và Joe hiện đang sống.
Phòng khám Miễn phí cung cấp dịch vụ chăm sóc miễn phí và chi phí thấp cho những người quá nghèo không đủ khả năng trả chi phí y tế và chưa đủ nghèo để đủ điều kiện đê nhận phục lợi của chương trình Medicare sơ cấp của tiểu bang.
Marvin Wolf hy vọng rằng tiểu sử của những người được mô tả trong cuốn sách sẽ cho thấy rằng những cựu chiến binh từ Việt Nam trở về “với một quốc gia quay lưng lại với họ” tuy nhiên “đã tiếp tục cuộc sống, có những hy sinh và đóng góp quan trọng hơn nữa cho gia đình, cho cộng đồng của họ và cho xã hội.”
Wolf kết luận,
“Chúng tôi là bằng chứng sống động, cho thấy rằng thế hệ Việt Nam cũng đáng được tôn trọng và ngưỡng mộ như những thế hệ đi trước chúng tôi.”
Marvin Wolf
Tác giả | Dan Southerland là Chủ biên điều hành sáng lập của RFA.
© 2021 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net“
Nguồn: A Reporter Looks Back: Vietnam Veterans From 1975 Until 2020 | Dan Southerland | RFA | 11/11/2020.