Những tồn tích của cộng sản trong Giáo hội Thiên Chúa giáo (Kết)
Nguyễn Tiến Cảnh
Đừng để tình trạng ngăn cách con người với con người, và con người với Thiên Chúa tiếp tục xẩy ra.
Giáo hội miền Nam sau 1975
Nhìn vào các tội danh mà cộng sản áp đặt lên Lm chính Vinh, Lm Thông, Lm Oánh, Lm Quynh, giáo sĩ, giáo dân thì biết chỉ là cái cớ để họ trù dập, ngăn cách giáo dân với giáo sĩ hầu dễ bề tiêu diệt tôn giáo. Một cựu đại úy quân đội quốc gia, ông Kiều Duy Vĩnh, sau hiệp định Geneva 1954 chia đôi đất nước đã ở lại miền Bắc và bị tù đày triền miên cho tới năm 1975 đã cho biết “nếu ông có đạo công giáo, biết làm dấu thánh giá thì ông không thể sống sót cho đến ngày nay” [12].
Ở miền Nam sau 1975, khi cộng sản chưa mở cửa, thì tình trạng xẩy ra cũng giống như ở miền Bắc sau năm 1954. Ai có thể nói vì Giáo hội miền Nam chịu hợp tác với nhà nước nên được yên lành và tự do hành đạo?
Chúng ta có thể chia Giáo hội miền Nam làm hai thời kỳ: Thời kỳ chưa cởi trói và thời kỳ mở cửa.
Thời kỳ quá độ / chưa cởi trói (1975-1989)
Khi cộng sản tiến chiếm Sài Gòn ngày 30-4-75, Giáo hội miền Nam -không kể những người vượt biên chạy trốn ra nước ngoài- những ai ở lại, giáo dân cũng như giáo sĩ ai cũng muốn hòa nhịp với làn sóng “cánh mạng”, vì nghĩ rằng đất nước đã hòa bình thì phải hợp tác với chính quyền mới để xây dựng đất nước. Đa số người dân chưa hiểu cộng sản là gì đều nghĩ rằng cộng sản cũng là những người yêu nước? Tất cả các giáo phận miền Nam đều trao nộp cho chính phủ các cơ sở từ thiện, giáo dục, nhà thương, trường hoc và đặt mình dưới sự điều khiển của nhà nước “cách mạng”.
TGM Huế Nguyễn Kim Điền, ngay từ đầu đã tuyên bố “sẵn sàng hợp tác để xây dựng đất nước, sau những năm tháng dài chiến tranh đổ nát”, nhưng cuối cùng cũng chẳng xong. Người cộng sản quyết tâm tiêu diệt tôn giáo nên không còn chọn lựa nào khác, ông bắt buộc phải ở tư thế tự vệ rồi cũng bị trù dập, khủng bố, hàng ngày phải đến trình diện Ủy Ban Nhân dân thành phố để ‘làm việc’. Cuối cùng ông đã chết một cách mờ ám tại bệnh viện Chợ Rẫy. Linh mục Nguyễn Văn Lý, thư ký của ông, tháng 9-1977 cũng bị bắt vì liên hệ đến việc phổ biến bài tham luận về Tự Do Tôn Giáo của TGM Điền, bị kết án 20 năm tù. Rồi tha rồi bắt lại, bắt đi bắt lại cho đến hiện nay vẫn còn đang ngồi tù. Lm Nguyễn Văn Lợi bạn tranh đấu cho tự do tôn giáo của Lm Lý cũng bị tù rồi được tha và bị quản thúc tại gia, không được thi hành thiên chức linh mục cho đến hiện nay.
Tất cả các giám mục ở những thành phố nhỏ xa Sài Gòn đều bị làm khó dễ, cấm không được di chuyển khỏi Tòa Giám Mục, không được đi Roma viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolo theo luật định như Giám Mục Ban-mê-Thuộc Nguyễn Huy Mai, v.v.
Tôi vẫn còn nhớ hình ảnh TGM Sài Gòn Nguyễn Văn Bình, cầm quốc xẻng đi thủy lợi mở màn cho chiến dịch hợp tác với chính quyền để xây dựng đất nước của người Thiên Chúa giáo nhưng cũng không được yên thân. Cộng sản lập sẵn một Ủy Ban Công Giáo và Dân Tộc làm trung gian liên lạc với chính quyền, nhưng đó chỉ là xảo kế giống như Ủy Ban Những Người Công Giáo Yêu Nước Yêu Hòa Bình ở miền Bắc sau 1954 với mục đích kiểm soát Giáo hội và chủ trương ly khai. Ủy ban này gồm những linh mục và giáo dân cộng sản đã từng trục xuất khỏi Sài Gòn Khâm sứ Tòa thánh Le Maitre, đã bắt Giám Mục Nguyễn Văn Thuận bỏ tù sau ngày 30/4/75. Tòa giám mục Sài Gòn chỉ còn một mình TGM Bình chúng sẽ dễ dàng khống chế và lừa phỉnh. Bao vây ông lúc đó toàn là những linh mục và giáo dân cấp tiến. Thành lập ủy ban này, đoàn cố vấn nọ nói là để giúp ông điều hành giáo phận cho qua cơn sóng gió, nhưng bên trong là âm mưu khống chế, làm nội tuyến hầu dễ bề tiêu diệt Giáo hội.
Linh mục Huỳnh Công Minh là đảng viên cộng sản lại làm Tổng đại diện giáo phận, hẳn tha hồ dòm ngó kiểm soát sinh hoạt của giáo phận, đến nỗi sau này lúc cuối đời, báo chí ngoại quốc phỏng vấn TGM Bình cảm nghĩ của ông về cộng sản thì ông chỉ nói gọn “Đến bây giờ tôi vẫn sợ”. Xem vậy đủ biết cái vòng bao vây, kìm kẹp, khủng bố nó ghê gớm thế nào! Cho đến nay đã hơn 40 năm mà Huỳnh Công Minh vẫn chễm chệ ngồi ở ghế Tổng Đại diện giáo phận kiêm chánh xứ nhà thờ Đức Bà, Phó Giám đốc Đại chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai thì thử hỏi cộng sản đã kiểm soát Giáo hội chặt chẽ thế nào. Vì TGM Nguyễn Văn Bình đã già yếu không thể coi sóc giáo phận được nữa, Tòa Thánh đặt Giám Mục Huỳnh Văn Nghi lên thay thế thì nhà nước bằng mọi cách ngăn cản không cho ông về Sài Gòn nhận chức chỉ vì ông không đồng ý để Huỳnh Công Minh ở vị trí Tổng Đại diện.
Ai biểu TGM Bình chống đối nhà nước? Vậy mà ông cũng vẫn còn sợ? Giáo hội cũng vẫn bị điêu linh, không chết như Giáo hội miền Bắc, nhưng bị khốn đốn và tha hóa sau này ai cũng đã thấy. Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo và Dân tộc đứng đầu là Huỳnh Công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm…là một ổ nội tuyến, nắm vai trò chính ủy để thao túng Giáo hội.
Cũng cần nhắc lại ở đây, vì TGM Bình muốn hợp tác chân thành với chính quyền để xây dựng đất nước, ông đã thành lập một ban cố vấn gồm:
-Lm Trần Thái Hiệp, Giám đốc Đại chủng viện
-Lm Chân Tín, DCCT
-Lm Nguyễn Huy Lịch, Dòng Đa Minh
-Lm Huỳnh Công Minh, UBĐKCG, chánh xứ nhà thờ Bà, Tổng đại diện Giáo phận
Sài Gòn, Phó giám đốc ĐCV.
-Lm Phan Khắc Từ, UBĐKCG
-Ông Nguyễn Đình Đầu, nhân sĩ
-Lm Mai Xuân Hậu, chánh xứ Hà Đông Xóm Mới
Ban cố vấn họp mỗi thứ hai hàng tuần…
Trong tập hồi ký của Lm Mai Xuân Hậu, thành viên ban cố vấn, ông có nhắc lại chuyện xẩy ra trong một buổi họp có Huỳnh Công Minh:
“Cũng vẫn là buổi sinh hoạt thường lệ có đầy đú Ban Cố Vấn và có cả Đức Tổng GM Bình, Đức cha Phụ Tá Nẫm nữa. Vừa ngồi vào ghế thì Đức Tổng Bình nhìn thẳng vào tôi và nói: “Tôi được tin báo, trưa thứ bảy vừa rồi cha được công an thành đến tận nhà làm việc có phải không? Cha có thể cho chúng tôi biết qua sự việc được không?”
“Tôi bình tĩnh thuật lại: Khoảng 1 giờ trưa thứ bảy, con đang ngủ trưa thì có tiếng đập cửa phòng rất lớn, con dậy và mở cửa thì thấy anh Tư Châu, đứng đầu công an vùng Gia Định, cơ quan đóng ở Ngô Tùng Châu, mà con đã được hân hạnh tiếp xúc nhiều lần. Anh bước vào phòng con, có cận vệ cắp súng đứng gác cửa phòng. Con chào và hỏi có chuyện gì anh Tư đến lúc giờ ngủ trưa thế? Anh nói ngay: Trong tuần tĩnh tâm ở Thái Mỹ, Củ Chi, linh mục đã nói “Bán đứng” là thế nào?
“Con mời anh ấy ngồi và rót nước mời uống và con bắt đầu trả lời: Anh Tư không đi tĩnh tâm với chúng tôi nên chắc có ‘angten’ tố cáo nên anh Tư cần nghe tôi trả lời. Đúng, tôi có nói: ‘Đừng bán đứng chúng tôi trong giờ ngủ trưa ở Thái Mỹ….’ Con nói ôn tồn nhưng không kém mạnh mẽ. Ở đây, thưa Đức Tổng, con chỉ tóm gọn mấy điểm chính.
“Tuần tĩnh tâm ở Thái Mỹ này là tuần tĩnh tâm đầu tiên của giáo phận trong năm đầu của đất nước Việt Nam Xã Hội Thống Nhất. Chúng tôi cảm ơn chính phủ cách mạng đã cho chúng tôi một tuần tĩnh tâm. Nhưng tôi không hoàn toàn đồng ý về mục đích của tuần tĩnh tâm mà một số linh mục ‘yêu nước’ đã nhiều lần tuyên bố: Đúng ra tất cả các linh mục đều phải tập trung đi cải tạo, nhưng nay chúng tôi (linh mục yêu nước) đã bảo lãnh với cách mạng là dùng tuần tĩnh tâm này để cải tạo, nên việc đạo đức chỉ chiếm một số giờ rất nhỏ, suốt ngày toàn là lao động, cuốc đất, trồng trúc, chặt trúc và học tập chính trị. Có các cán bộ cách mạng thường xuyên và liên tục thuyết trình về Cac-Mác, Lê Nin và Bác Hồ.
“Con nói rõ với anh Tư: Nếu sang năm còn tổ chức tĩnh tâm như loại này, con sẽ không đi. Trong thánh lễ không cần lễ phục mà chỉ cần quần xà lỏn áo thung rồi đeo giây stola là đủ. Không được nhắc cầu nguyện cho các linh mục tuyên úy đang được cải tạo vì các ngài là tội phạm của chế độ, mà cầu nguyện cho tội phạm là phản động.
“Soạn thảo một sứ điệp của các linh mục dự tĩnh tâm cho toàn thể giáo dân của cả giáo phận. Con phản đối sứ điệp này, vi từ xưa tới nay, biết bao tuần tĩnh tâm mà đâu có sứ điệp gì nên không cần soạn sứ điệp gì cả. Nhưng sứ điệp vẫn được soạn thào, và lúc soạn thảo lại chọn giờ ngủ trưa trong dãy nhà tôn thấp lè tè, các cha già kể cả con, phải lấy khăn mặt xấp nước đậy lên mặt cho đỡ nóng. Thế mà ban soạn thảo cứ to tiếng, chọn câu, chọn chữ, dùng từ…làm con tức mình nói thành tiếng:‘các ngài đang bán đứng chúng tôi’. Có tiếng cười bên cạnh giường, con mở mắt ra nhìn, con thấy ai cười (con không cần nói ai cười). Và rồi sau tuần tĩnh tâm vừa về đến nhà xứ chiều thứ sáu thì trưa thứ bảy, anh Tư đến thăm sức khỏe con.
“Con giải thích ý nghĩa “bán đứng” cho anh Tư nghe: Người đời vẫn nể các linh mục
vì các ngài học nhiều, biết tiếng latinh, tiếng Pháp, tiếng Anh mà tờ sứ điệp này lại hành văn không đúng, dùng chữ sai…thế chẳng phải là “bán đứng” chúng tôi hay sao?
“Anh Tư biết tôi dạy văn gần hai chục năm. Ca tụng chế độ không khéo và không tế nhị thay vì động viên giáo dân lại bị phản tác dụng, như thế không là “bán đứng” hay sao? Cách mạng cũng không cần những tuyên truyền hạ cấp, thô thiển rẻ tiền,.. như vậy cũng là “bán đứng” chứ còn gì?
“Và con đề nghị với anh Tư: Linh mục chúng tôi, Giáo Hội chúng tôi ước muốn mỗi năm có một tuần tĩnh tâm truyền thống tại Đại Chủng Viện để chúng tôi hoàn toàn ra trước mặt Chúa chúng tôi để tĩnh tâm.
“Đức Tổng góp ý: May mà là cha, nếu là một cha khác chắc đã bị bắt đi cải tạo. Tôi tiếp lời ngài: Thưa đức Tổng, nếu những báo cáo “angten” như thế này còn xẩy ra thì hàng ngũ linh mục nói riêng và toàn dân nói chung sẽ bị phân hóa, không còn ai tin vào ai nữa!
“Một cha, con không cần dấu tên, cha Huỳnh Công Minh đã tuyên bố: “Tôi là linh mục, nhưng cũng là một công dân, là công dân tôi có quyền và có bổn phận tố cáo tất cả những ai phản động.”
“Con tiếp lời: Cái mũ phản động hiện nay rất nhiều, rất rộng và rất ác độc, đê tiện, xin đừng chụp mũ. Phải nghĩ đến Chúa và ngày mai.”[13]
Sau khi bao vây TGM Nguyễn Văn Bình, cộng sản bắt đầu trừ khử các nhà dòng, tu viện nam nữ như dòng Chúa Cứu Thế, Đồng Công, khổ tu Châu Sơn, nhà thờ này, Lm xứ nọ từ ngoài Trung vào đến Sài Gòn rồi Cần Thơ, đồng bằng Cửu Long. Tất cả đều bị gán ghép những tội mà chẳng bao giờ họ làm để có cớ tịch thu tài sản, bắt giáo sĩ đi tù. Dòng Châu Sơn, dòng Đồng Công ở Thủ Đức, một dòng chuyên tu cũng bị tố cáo tàng trữ vũ khí và lương thực để chống phá cách mạng. Thế là nhà dòng bị tịch thu, Lm bề trên và các thày bị bắt bỏ tù cải tạo. Lm nhà thờ Vinh Sơn ở đường Trần quốc Toản cũng bị tố cáo có súng, có quần lót, nịt vú đàn bà trong nhà để rồi bị bắt tù và chết không hề ra tòa xét xử. Lm Thi chánh xứ nhà thờ Bắc Hà bị đập bể đầu chết trong đêm tối. Lm Hoàng Quỳnh thì tên Thúy, cận thần của ông mấy chục năm trời, sau 1975 mới lộ ra là cộng sản nằm vùng mang cấp bậc đại tá nói là chẳng cần giết ông làm chi, cứ nhốt ít tháng rồi ông sẽ chết thôi. Quả vậy chúng nhốt ông ở building Ngã Ba Ông Tạ thì hơn tháng sau ông qua đời.
Thời gian này mọi linh mục, giáo sĩ, nữ tu, tất cả đều sợ hãi, có người không dám nhận mình là linh mục. Không ai bảo ai không ông Lm hay bà sơ nào mặc áo dòng đi ngoài đường như trước kia. Các linh mục ở mỗi địa phận không được phép họp mặt cấm phòng theo định kỳ như dưới thời VNCH. Mất liên lạc, xa giám mục bản quyền thì vấn đề đạo cá nhân và sinh hoạt xứ đạo sẽ bị sao lãng và bê bối thôi.
Đối với giáo dân, các đoàn thể, hội cầu nguyện… cũng không được hoạt động. Việc tụ họp hai ba gia đình lại với nhau để đọc kinh cũng bị cấm. Ở nhà thờ trong giờ kinh lễ, ông Lm cũng phải giữ mồm giữ miệng nơi tòa giảng kẻo bị gán cho cái tội chống phá cách mạng. Vùng kinh tế mới thì hoàn toàn không nhà thờ, không linh mục. Tất cả các linh mục tuyên úy QLVNCH đều bị tập trung tù cải tạo không biết ngày về. Ở trong tù cũng không được phép làm lễ, không được đeo ảnh Thánh Giá. Khi được thả về không được thi hành thiên chức linh mục, làm mục vụ, không được sống ở nhà xứ, không được coi xứ đạo mà phải về sống với gia đình tản mát trong dân chúng và phải trình diện công an phường khóm mỗi tuần mỗi tháng.
Ngăn cách giám mục với linh mục, linh mục với giáo dân và giáo dân cách giáo dân vẫn là chủ đích của cộng sản để làm tê liệt hầu dễ bề triệt tiêu tôn giáo.
Sau khi đã khủng bố đầu não Giáo hội, cộng sản đưa ra đường lối cho GH theo. Câu nói “Tốt Đời Đẹp Đạo” là châm ngôn để thi hành. Nhưng đó chỉ là ngụy biện có mục đính phủ dụ và tuyên truyền. Tốt Đời theo chủ nghĩa cộng sản chưa chắc đã Đep Đạo, hoặc ngược lại Đẹp Đạo chưa chắc đã làm vừa lòng đảng cộng sản. Linh mục Thanh Lãng, vì hăng say muốn cải đổi Giáo hội và đất nước đã hùa theo đà cấp tiến làm những điều quá lố để rồi khi chết đã hối hận viết thư ăn năn, xin lỗi Khâm xứ Tòa thánh. Linh mục Chân Tín, cựu linh mục Nguyễn ngọc Lan một thời đi với cộng sản, bây giờ vỡ mộng. Bài giảng xám hối của linh mục Chân Tín tại nhà thờ DCCT đường Kỳ Đồng là phát súng lệnh và cũng là cái cớ để Lm Chân Tín và Nguyễn ngọc Lan bị lưu đầy và theo dõi.
Song song với thời gian đánh phá tôn giáo là thời gian đánh tư sản mại bản, lùa người dân thành phố đi kinh tế mới, đổi tiền, bần cùng hóa nhân dân, biến dân thành phố thành nghèo đói phải bán đồ đạc trong nhà từ cái chổi, cái bát, đôi đũa đến cái giường…để sống qua ngày. Thanh niên phải đi thanh niên xung phong, làm nghĩa vụ quân sự tại chiến trường Cao Mên. Miền Nam trở thành tiêu điều xơ xác, bị quốc tế phản đối, Hoa Kỳ cấm vận. Đây quả là thời gian đen tối nhất, không một gia đình nào ở miền Nam không có mối lo, chồng đi tù cải tạo không biết ngày về, vợ con ở nhà đói khổ lại bị kỳ thị, khủng bố tinh thần, công an phường khóm ngày đêm theo dõi. Dân chúng miền Nam, ai cũng lo tìm đường vượt biển, bất chấp hiểm nguy miễn sao thoát ách độc tài cộng sản. Chưa một cuộc vượt biển tỵ nạn chính trị nào hiểm nguy và vĩ đại như cuộc vượt biển trốn cộng sản của dân miền Nam Việt Nam đã làm rúng động thế giới, cải hóa tư duy của những kẻ đã một thời tung hô chủ nghĩa cộng sản, ủng hộ cộng sản Bắc Việt, MTGPMNVN hết mình như Bertrand Russell, Jean Paul Sartre và Raymond Aron…Những tên phản chiến sáng mắt. Thế giới sáng mắt. Nhưng cộng sản Việt Nam vẫn nhất định không chịu mở mắt, phải đợi đến khi chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, bức tường Đông Tây Bá Linh sụp đổ vào năm 1989.
Thời kỳ cởi trói, hé mở bức màn tre
Dân chúng miền Nam Việt Nam thở phào nhẹ nhõm, ước mong cộng sản Việt Nam cũng sụp đổ như ở Đông Âu. Nhưng cho đến giờ…cộng sản vẫn còn đó. Tuy nhiên cộng sản không thế bơi ngược giòng nước, đưa tay chặn bánh xe lịch sử. Chẳng đặng đừng, cộng sản Việt Nam phải cởi trói.
Cởi trói nhưng cốt lõi vẫn là cộng sản độc tài toàn trị, vẫn lăm le cái còng số 8. Cảnh bình mới rượu cũ -hiện tượng “Vũ như Cẩn”- vẫn là một thực tế từ hơn 40 năm nay. Hiến pháp thì cho tự do tôn giáo, nhưng pháp lệnh này qui định nọ vẫn trói chặt tôn giáo trong chuồng. Mục đích của họ là giết chết tôn giáo, nếu không được thì bôi bẩn, làm cho tê liệt. Họ đã dùng tôn giáo phá tôn giáo, mượn chính tay giáo sĩ, giáo dân, linh mục, cả giám mục để làm suy yếu Giáo hội. Dùng bàn tay nhung đối với những ai chịu nghe theo chúng, bàn tay sắt đối với những ai cứng đầu. Chiến thuật củ cà rốt và cái gậy đã được áp dụng triệt để. Ai chấp nhận củ cà rốt thì được dễ dãi, ưu đãi. Ai cương quyết theo đường lối của Chúa thì phải chấp nhận cái gậy, bị làm khó dễ, bị hành hạ. Chiến thuật này có thời đã thành công bởi lẽ con người “tinh thần thì nhẹ nhõm mà thân xác thì nặng nề”.[14]
Chả vậy mà đã có một thời cả Giám mục, linh mục, dì phước lũ lượt xuất ngoại quyên tiền để làm nhà thờ, tu bổ nhà xứ, trung tâm phát triển đạo, thậm chí sau này có người nói họ “Xây thì ít mà Cất thì nhiều!” Quyên góp tiền để đào giếng cho giáo dân có nước trong sạch uống thì chẳng thấy giếng đâu, chỉ thấy tòa Giám Mục thì nguy nga ‘hoành tráng’, xe của giám mục thì lộng lẫy hơn cả xe của tỉnh ủy[15].
Quyên tiền về giúp đỡ các Lm già hưu dưỡng, các Lm hưu không hề nhìn thấy măt đồng dollar thế nào thì đùng một cái được tin tiền đó đem đầu tư, kinh doanh để sinh lời đã bị thua lỗ mất hết rồi! (16) Mất hay nó chạy vào túi ai thì chỉ có Chúa biết. Các Lm già đang hưu ở một trung tâm kia thì bị đuổi đi để làm cư xá cho nữ sinh viên. Nếu các Lm già không quyết liệt phản đối thì nhà hưu dưỡng đã bị chiếm để biến thành nơi thương mại rồi (17). Nên nhớ tiền xin được ở hải ngoại đem về thì cũng phải chia chác đấy. Biết bao nhiêu chuyện hỉ nộ ái ố đã xẩy ra dòng dã bao nhiêu năm trời.
Cộng sản rất tâm lý, họ hiểu biết nhu cầu của Giáo hội là cần linh mục, cần nhà thờ, cơ sở truyền đạo, tài liệu truyền giáo …nên việc đầu tiên là họ triệt hạ, ngăn cấm những thứ đó khiến cho nhu cầu càng trở nên cấp bách. Chúng ta thấy bước đầu tiên là họ đóng cửa các chủng viện, dòng tu, giới hạn chủng sinh, tu sinh bằng những điều kiện khó khăn ngược với qui luật của Giáo hội. Theo luật cung cầu, khi nhu cầu càng cao thì giá cả lại càng đắt và dễ bề hoạt động. Để tỏ vẻ là dễ dãi, cởi mở, chính quyền lập ra cơ quan làm trung gian. Muốn xin điều gì thì phải qua trung gian là Ủy ban Công Giáo Yêu Nước sau này đổi tên là Công Giáo và Dân tộc. Cơ chế Xin-Cho bắt đầu xuất hiện.
Ai nói nhà nước không cho tự do tôn giáo? Có tự do chứ, nhưng phải xin để được cứu xét và phải có điều kiện. Nhưng đơn xin thì chẳng bao giờ thấy hồi đáp, nếu có thì lại bị giới hạn. Chẳng hạn HĐGMVN xin phép ra một tập san thuần túy tôn giáo từ năm 1992 mãi đến năm 2001, bộ Văn hóa thông tin mới cho HĐGM tạm thời xuất bản một bản tin nhưng với điều kiện phải “phù hợp với lợi ích của đất nước và Giáo hội”. Cũng lại kiểu Tốt Đời Đẹp Đạo. Ngoài ra bản tin lại chỉ được ra hai tháng một lấn và mối lần chỉ có 100 tập để phân phát cho 25 giáo phận với hơn 7 triệu giáo dân. Ai đọc ai đừng? Cơ cấu Xin-Cho quả là một con sông cách trở có giòng nước xoáy.
Ủy ban Công Giáo Yêu Nước tức Công Giáo & Dân Tộc gồm Huỳnh Công Minh, Trương bá Cần, Phan khắc Từ, Thiện Cẩm thì một mặt đóng vai trung gian giữa Giáo hội và nhà nước một mặt là người của đảng vẫn trung thành với bác và đảng, đã không thành công ở miền Bắc, nhưng đã thành công ở miền Nam. Chính cái Ủy ban này đã lũng loạn Giáo hội miền Nam. Giám mục, linh mục, Lm xứ nào -vì nhu cầu- muốn gì phải qua nó, khi năn nỉ, khi hối lộ. Đảng và nhà nước muốn Giáo hội phải đi qua cái ủy ban môi giới giáo gian đó, một ổ chuột linh mục có vợ có con…mà cả HY, GM không ai dám đụng đến thì hỏi còn đâu là Giáo hội tinh tuyền. Cộng sản đã phá nát Giáo hội mà có người vẫn dửng dưng coi như không biết, viện đủ mọi lý cớ để tự an ủi cho một lương tâm co dãn, một thỏa hiệp với kẻ dữ, một quỵ lụy đắng cay hèn nhát và bỉ ổi. Cộng sản đã tạo ra một xã hội cửa quyền, khiến Giáo hội phải phụ thuộc vào nó, thành một mạng lưới đồng nhất chằng chịt từ trên xuống dưới ăn khớp với nhau theo đường lối của đảng. Những gì đụng tới đảng thì tuyệt đối không chấp nhận. Đảng và nhà nước cứ việc uyển chuyển xoay vần bóp nắn. Tha hóa là thế đó. Huỳnh Công Minh, nắm trọn những chức vụ quan trong của tổng giáo phận, làm “chính ủy” thì có cái gì có thể thoát khỏi con mắt cú vọ của ông. Tuyển sinh linh mục thì đã phải sàng lọc từ địa phương, khi đến đại chủng viện thì lại có Huỳnh Công Minh, kiểm soát và nắm tất cả chương trinh huấn luyện, rồi trước khi phong chức linh mục lại phải qua một thời kỳ cam go nữa. Được làm linh mục hay không là ở lúc này. Chuyện chạy vàng, chạy tiền đã xẩy ra, ai cũng biết cả. Một linh mục kể lại khi “mặc cả” để được chịu chức linh mục, cán bộ nhà nước đã nói ‘mai mốt làm linh mục rồi thiếu gì tiền ! Không tiền không vàng vẫn được đỗ cụ thì ai cũng có thể đoán biết tại sao.
Giáo hội đã bị tha hóa, lũng loạn từ trên xuống dưới. Cả cái ủy ban Công Giáo và Dân Tộc, gọi là liên lạc giữa nhà nước và Giáo hội cũng là cái tổ chuồn chuồn sinh ra nhiều tội ác với người, với Giáo hội và với Chúa. Là con người có lúc tâm hồn lắng đọng cũng phải biết nghĩ đến điều phải trái. Lm Phạm hân Quynh kể chuyện mấy ông linh mục Đoàn Kết trong Sài Gòn năm 2002 ra Đông Xuyên gặp Lm, gồm cả bộ ba TBC, TC và PKT. Mới đầu TBC tấn công ngay:
“- Cha Quynh à, tôi gặp cha để trách cha. Tôi coi cha như anh cả. Thấy tôi sai sao cha không cản tôi…để bây giờ không lùi được nữa…mắc bẫy rồi.
– Làm sao tôi cản các cha được. Đường quang không đi lại quàng vào đường rậm. Mắc bẫy là đúng rồi. Bây giờ chỉ còn cách….
– Mấy cha nháo nhác hỏi, cách gì?
– Các cha có can đảm thừa nhận hết tội lỗi với Giáo Hội và từ bỏ vướng mắc chuyện vợ con không?
Linh mục PKT lắc đầu:
– Không đủ can đảm. Không lùi được nữa….Có muốn lùi cũng không lùi được cha ơi !
Cha Quynh bảo:
– Phản lại Chúa thì khổ lắm.” [18]
Từ ngày cộng sản chiếm Sài Gòn đến nay đã để lại biết bao tồn tích trong Giáo hội về đủ thứ Tình-Tiền-DanhVọng với những tham sân si chằng chịt lộ liễu cũng như âm thầm lén lút?
Giáo hội miền Bắc trứơc 1975 đã chọn “quí hồ tinh bất quí hồ đa”, linh mục chui, chấp nhận đóng cửa cả tiểu chủng viện lẫn đại chủng viện nhất định không để cộng sản kiểm soát hoạch định chương trình huấn luyện linh mục. Trong suốt học trình 7 năm huấn luyện để thành linh mục dưới sự kiểm soát của cộng sản, ai có thể bảo đảm đảng không gài người của họ vào hàng ngũ linh mục rồi giám mục? Các tôn giáo khác đã bị như vậy thì công giáo cũng không là ngoại lệ. Đây là một tồn tích rất nguy hiểm mà cộng sản đã để lại trong Giáo hội. Làm sao để tẩy rửa cho sạch?
Cộng sản có đủ mọi mánh khóe để gài người. Trước tiên còn vì công tác mục vụ, nhu cầu đạo nên cần phải giao thiệp ngoại giao, liên lạc, quà cáp biếu xén làm thân với chính quyền, dần dà rồi có đi có lại nhậu nhẹt với nhau. Tôi đã thấy một linh mục trước kia rất đạo vậy mà sau này nhậu nhẹt say sưa bê bết đến độ làm mất cả thể diện và nhân cách. Hỏi tai sao như vậy thì được trả lời vì phải ngoại giao với chính quyền nên chén anh chén tôi mới ra nông nỗi. Rượu vào thì cái gì xẩy ra ai mà làm chủ được mình. Tình và Tiền là hai thứ đã từng làm nhiều người điêu đứng. Nạn nhân một khi đã bị thuần hóa thì còn đâu là lý tưởng mà chỉ làm việc theo lệnh chủ. Tại sao một địa phận trống ngôi giám mục cả mấy chục năm mà Giáo hội không làm sao giải quyết được? Bởi vì nhà nước không đồng ý vị giám mục do Giáo hội đề nghị. Chỉ khi nào Giáo hội đề nghị người mà họ ưng ý hay Giáo hội chấp nhận người họ đề cử thì tòa đó mới được giải quyết. Lúc đó có thể vị giám mục đó có vấn đề đấy?
Cái di sản đó không biết bao giờ mới phai nhạt đi được nơi Giáo hội. Nó đã có, đang có và vẫn còn. Tai nạn này không chỉ xẩy ra ở Việt Nam mà ở tất cả các nước cộng sản. Một Ba Lan với tổng giám mục Stalislaw Wielgus đã phải từ chức ngay hôm nhận chức TGM Warszawa ngày 8-1-2007 là một điển hình. Tôi biết một linh mục có tiếng là thiên cộng từ thời còn là sinh viên du học ngoại quốc. Sau 1975 ông lang thang ở ngoại quốc, vậy mà đùng một cái thấy ông ở Việt Nam giữ nhiều nhiệm vụ quan trọng trong khi nhiều linh mục du học khác xin về VN phục vụ mà không được. Thế rồi sau đó ông trở thành Giám mục. Biết đâu có ngày ông trở thành TGM? Nhìn quả biết cây. Và chắc chỉ có đảng và nhà nước là biết rõ nhất.
Có lẽ nay là lúc HĐGMVN cũng nên theo gương các Giáo hội Đông Âu hậu cộng sản, lấy công tâm, theo đúng luật Giáo hội và lòng dân để sắp đặt các vị lãnh đạo vào vị trí thích hợp. Không thể vì áp lực hay thiên kiến, bè phái mà thuyên chuyển hay đặt để. Nếu cứ hành động như vây theo ý nhà nước thì một ngày kia GHVN sẽ được dẫn dắt bới các cán bộ nhà nước. Giáo hội trở thành Giáo hội nhà nước / quốc doanh lúc nào mà không hay.
Đó phải chăng là tự do tôn giáo mà đảng ban cho? Khi nói là cởi trói hay cởi mở thì đừng nghĩ là cởi mở về mọi phương diện, ngay cả mặt kinh tế gọi là kinh tế tự do/thị trường mà vẫn còn kèm theo hàng chữ “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đi ra ngoài đường lối của đảng hay có đôi chút đụng vào huyết mạch của đảng thì tuyệt nhiên không được. Vì vậy khi nói truyện với người cộng sản thì điều gì cũng được cả, nhưng thực tế không như lời họ nói. Cứ nhìn những việc trước mắt gần đây nhất như vụ Tòa Khâm xứ, Thái Hà và những vụ dân oan khiếu kiện bị mất đất mất nhà thì đủ biết. Người cộng sản có bao giờ nhân nhượng ai đâu.
Sống với một người không biết điều đã là khó, nói chi phải đối thoại với một chính quyền độc tài toàn trị chỉ chấp nhận những điều do họ đưa ra mà thôi.
Đôi lời kết
Người viết vẫn còn nhớ khi còn ở trong tù cải tao, mỗi khi muốn phát biểu ý kiến thì phải xác nhận lập trường của mình trước: “Tôi xin đứng về phía nhân dân và nhà nước…” Điều đó có nghĩa là anh muốn nói gì thì nói, đả kích hay ca tụng, nhưng luôn luôn phải đứng trên lập trường của nhân dân. Mà nhân dân tức là Đảng và Nhà Nước. Đi ngược lại cái cốt lõi, huyết mạch đó là không được. Mác đã nói: “Tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc con người”, là “kẻ thù của nhân dân” thì phải hiểu là tôn giáo không có chỗ đứng nơi đảng cộng sản. Cứ nhìn việc làm của họ thì hiểu ý họ. Đừng nghe những gì cộng sản nói. Đừng hy vọng đối thoại với cộng sản để có thể cải hóa họ. Họ thả chỗ này, xiết chỗ kia. Đương kim TT Nga Vladimir Putin nói:
“Kẻ nào tin lời cộng sản nói là không có cái đầu; kẻ nào làm theo lời cộng sản là không có trái tim.”
[DCVOnline: BBT không thể tìm ra nguồn cho rằng câu nói trên là của Vladimir Putin. Tuy nhiên, Theo nghiên cứu của Mark T. Shirey, dẫn “Nice Guys Finish Seventh: False Phrases, Spurious Sayings, and Familiar Misquotations” của Ralph Keyes, 1992, một câu nói liên quan đến trái tim và trí tuệ, “Nếu 25 tuổi mà không là người Xã hội Chủ nghĩa thì không có con tim. Nếu vẫn là người Xã hội Chủ nghĩa khi đã 35 thì không có trí tuệ”, do một sử gia cũng là một chính khách người Pháp, François Guizot, nói vào khoảng giữa thế kỷ XIX, “N’être pas républicain à vingt ans est preuve d’un manque de cœur; l’être après trente ans est preuve d’un manque de tête”. Tuy nhiên câu này thường được cho là lời của George Bernard Shaw, Benjamin Disraeli, Otto von Bismarck, v.v. một cách sai lầm.]
Cựu tổng thống Nga Sô Yetsin, một đảng viện cộng sản nòng cốt kỳ cựu đã tuyên bố:
“Cộng sản không thể thay đổi được, chỉ có phế bỏ nó đi mà thôi.”
[DCVOnline: Tương tự như trên, BBT không thể tìm ra nguồn cho rằng câu nói trên là của Boris Yeltsin. Tuy nhiên, năm 1987, Wang Bingzhang, sáng lập viên của Chinese Alliance for Democracy (1982) nói, “communism cannot reform itself” (Cộng sản không thể tự đổi mới); Milwalkee Journal, Jan 7, 1990 đăng lại bài “Red’d crisis demand impossible party reform” của The New York Times, với tiểu tựa ở trang 2J là “communism cannot reform itself”. Trước đó, trên tờ The Times-News ở Hendersonville, N.C. ngày 4 tháng 9, 1956, Thurman Sensing trong bài bình luận “Down South” đã viết “Communism cannot change its color” (Cọng sản không thể đổi mầu của nó).]
Vậy thì muốn sống với cộng sản, hòa giải với cộng sản để giữ đạo và hành đạo, người Kitô hữu chỉ có thể dùng trí thông minh, sự khôn ngoan và niềm tin cương quyết của mình mà quyết định, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: “Hợp tác nhưng đề kháng.”
[DCVOnline: Tương tự như trên, BBT không thể tìm ra nguồn cho rằng câu nói trên là danh ngôn của Thánh Giáo Hoàng John Paul II.]
Đồng thời chúng ta cũng phải cầu nguyện như một giám mục Việt Nam đã nói: “Đứng trên quan điểm loài người mà xét thì thật đáng thất vọng. Chúng ta hãy cầu nguyện và ước gì lời nguyện cầu của chúng ta được thể hiện bằng những hành động cụ thể.” [19].
Bổn phận của Giáo hội, của mục tử và giáo dân là rao truyền Tin Mừng, cải tạo xã hội để giúp con người biết thương yêu nhau như Chúa đã dạy. Muốn vậy thì công bằng và công lý phải được thực hiện. Để xã hội có công bằng và công lý thì chính quyền cần phải có luật pháp phân minh và luật pháp phải được thi hành một cách công bằng.
Xã hội nào vẫn còn cảnh người bóc lột người, kẻ có quyền hà hiếp người yếu thế thì ở đó vẫn còn cảnh bất công, không có công lý và công bằng.
Tôn giáo cần phải phối hợp với chính quyền, giúp chính quyền, thúc đẩy chính quyền bằng mọi cách để thực thi công bằng và công lý để biến cải xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, nghĩa là khi chính quyền đi ngược lại lòng dân, làm điều thất đức, gây cảnh bất công trong xã hội thì tôn giáo / người Kitô hữu có bổn phận lương tâm phải lên tiếng yểm trợ những kẻ cô thế bị hà hiếp [20], bởi lẽ loan báo Tin Mừng không phải là chỉ phục vụ phần hồn mà bỏ quên phần xác, cũng không phải chỉ quan tâm đến ơn cứu độ cá nhân mà bỏ qua những thực tại xã hội trước mắt [21].
Đó mới chính là sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc một cách thực tế và cần thiết, không lý thuyết viển vông. Đạo và Đời không thể tách lìa nhau ở điểm này. “Sống chung” với cộng sản không có nghĩa là “chung sống”, hòa đồng sống như người cộng sản gian trá và mưu sỉ. Thiện không thể chung sống với ác. Người ta sống không phải bằng cơm gạo,… nhưng bằng lời Thiên Chúa [22]. Muốn xã hội và Giáo hội Việt Nam tốt đẹp, thoát khỏi những tàn tích xấu do cộng sản đã và đang hoành hành, người công giáo, đặc biệt giới lãnh đạo, HĐGM, tất cả mọi người đều phải sống lời Chúa bằng hành động thực sự, cương quyết nói lên sự thật, điều sai trái để sửa chữa dù có bị áp lực, đe dọa, cực hình, dụ dỗ đầy mưu mô thâm độc [23].
Nói đến sự thật, chúng ta cần đặc biệt chú ý và cẩn thận. Ở Việt Nam người ta sợ không muốn nhắc đến tên những vị tử vì đạo, đã dám tranh dấu vì niềm tin để bảo vệ Giáo hội mà bị hành hạ, chịu chết trong ngục tù hoặc một cách mờ ám. Họ giữ yên lặng, không muốn nhắc đến tên TGM Nguyễn kim Điền, HY Trịnh Như Khuê, Lm chính Nguyễn Văn Vinh v.v. nại cớ vấn đề tế nhị hay nhậy cảm. Tại sao? Vì nhắc đến tên những vị đó là đụng vào cái ác của người cộng sản như dụng vào tên húy vậy. HY Bonizac bình luận: “Con cái của dối trá đã thu nhặt những mảnh vụn của “Bức Màn”, dúng chúng để che đậy và phủ lớp sương mù trên sự thật về nhiều cá nhân lẫn một số cơ quan tổ chức. Dùng những mảnh còn sót của “Bức màn” đó, một số người đã gieo mầm mống chia rẽ và nghi ngờ.”
Người Thiên Chúa giáo chúng ta cần sự thật, vì Chúa là: “Đường và là Sự Thật”. Nếu ta tránh sự thật thì còn đâu là con Chúa. Trong cải đỗi xã hội, giới trẻ phải là ưu tiên. Họ cần được giúp đỡ, hướng dẫn để nhận biết ra sự thật của lịch sử và luôn luôn ghi nhớ trong tâm khảm tên tuổi và tiểu sử của những vị đã vì Niềm Tin, vì Chúa, vì Con Người mà hy sinh mạng sống. Thật vô lý lấy tên vị thánh tử đạo đặt tên cho một nhà thờ, xứ đạo hay một cơ sở mà lại không dám nhắc đến tên những vị cũng là tử vì đạo. Phải cương quyết thoát khỏi cái vòng kim cô đó mà cộng sản, con cái của dối trá, gian manh đã đặt vào cổ chúng ta, mà nói cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ sự thật của lịch sử.
Đừng để tình trạng ngăn cách con người với con người, và con người với Thiên Chúa tiếp tục xẩy ra.
Fleming Island, Florida
April 4, 2016
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và minh họa và phụ chú.
[12] Đại Úy Kiều Duy Vĩnh kể lại là ông bị giam tại trại Cổng trời 15 năm. Trong số hơn 60 người theo đạo Thiên Chúa Giáo bị bắt giam tại đây, từ linh mục đến giáo dân đều bỏ mạng tại đây. Không có ai trở về. Đặc biệt có Lm Nguyễn Văn Vinh, người nổi tiếng vì chống đối Đại tướng De Lattre De Tassigny trong việc xếp chỗ ngồi tại nhà thờ lớn Hà Nội. Tất cả những người Thiên Chúa giáo trên đều bị kỷ luật đưa vào giam ở hang đá, trong đó rất lạnh, không ai có thể sống sót sau một tuần lễ (Ký Ức của Kiều Duy Vĩnh). Ông Vĩnh trước khi qua đời đã trở lại đạo Thiên Chúa.
[13] Lm Mai Xuân Hậu. Hồi Ký CHÚA GỌI. tr.68-71.
[14] Phúc Âm Matthew 26: 41.
[15] HY PĐT kể lại.
[16] Lm VHT kể lại HY Phạm Minh Mẫn đã có lần sang Hoa Kỳ quyên tiền về giúp các Lm hưu dưỡng được gần 1 triệu dollars, nhưng sau này hỏi đến thì nói là bị thất thoát vì kinh doanh. Kinh doanh đầu tư hay đã nộp cho đảng thì chỉ có Chúa biết.
(17) Nhà hưu dưỡng các linh mục gốc địa phận Hà Nội ở Ngã Sáu Chợ Lớn bị Huỳnh Công Minh đòi lấy để xây cư xá cho nữ sinh viên thời Lm Mai Xuân Hậu về hưu và làm quản đốc. Nhưng các Lm già nhất định không chịu di dời đi chỗ khác.
[18] PHẠM HÂN QUYNH: Con người-Sự kiện-Giai thoại-2012. Tr. 244
[19] ĐMT. Chính sách đàn áp Kitô giáo hiện nay tại Việt Nam
[20] Phúc âm Luca 10: 29-37
[21] Học Thuyết Xã Hội Công Giáo số 62.
[22] Phúc âm Mathew 4: 4-7).
[23] Thư gửi Giacobe 2:14-26
CÁC MÁC VÀ TÔN GIÁO
Tôn giáo ở đây nói cụ thể là đạo Ky tô hay Thiên chúa giáo, là tôn giáo độc thần trong niềm tin về cái Siêu việt mà mọi người đã biết.
Nói khác đi, mọi tôn giáo đều là niềm tin về sự siêu việt nào đó mà con người có được. Ngay như Phật giáo chẳng hạn, tuy là lý thuyết về luân hồi quả báo, về sự Chân như huyền nhiệm, nhưng điều đó không có nghĩa đạo Phật là quan điểm vô thần hay duy vật.
Trong khi đó Mác là người duy vật và vô thần tuyệt đối. Điều này hơi lạ, vì Mác xuất thân từ gia đình và dòng tộc Do thái giáo, cũng là tôn giáo độc thần có nguồn gốc lịch sử như Thiên chúa giáo. Hay nói rộng hơn, phần lớn phương Tây hay người châu Âu, trong đó có Mác, Ănghen, đều ở trong bầu khí hay truyền thống Thiên chúa giáo. Vậy ở đây có thể coi như trường hợp đột xuất.
Câu nói thời danh của Mác mà ai cũng rõ, nói “Tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”. Ông cho rằng chính các sự bất công, nghiệt ngã, nghèo khó trong đời do xã hội giai cấp và đấu tranh giai cấp tạo ra là nguồn gốc của tôn giáo, và tôn giáo giống như mặt trời giả ảo thu hút con người quên đi địa ngục trần gian để hướng tới thiên đường giả ảo.
Mục tiêu của Mác đưa ra là phải thực hiện triết học, thực hiện tôn giáo khi đã tiêu diệt chúng qua cách đẩy mạnh đấu tranh giai cấp để thế vào cho xã hội tư hữu bằng xã hội vô sản không còn giai cấp.
Điều đó ông ta tin chắc kết quả được, vì theo ông quy luật biện chứng luận của Hegel là quy luật phổ quát của lịch sử thế giới, nên đó là chân lý tất yếu. Ngoài ra theo ông phải áp dụng chuyên chính vô sản mới đi đến được xã hội giải phóng không còn giai cấp.
Dù sao, Mác chỉ quên mất đi hết những điều đơn giản thế này :
1/ Biện chứng luận của Hegel là bản chất duy tâm, làm sao biến nó thành bản chất duy vật ?
2/ Vật chất thuần túy thì không thể có nội hàm hay thuộc tính nào khác hơn là chính bản thân là tính ỳ của nó, vậy làm sao nó có thể tự biện chứng bằng duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để tự phát triển ?
3/ Đã vô sản chuyên chính thì làm sao nó tự loại bỏ nó được để đi đến giải phóng và tự do cho xã hội được, vì nếu nó tự giác thì đã lại trở thành duy tâm rồi ?
4/ Thuyết duy vật tuyệt đối thì cũng gắn với thuyết vô thần tuyệt đối, có nghĩa không có bất kỳ giá trị nào ngoài vật chất cả, thế thì đi xây dựng một xã hội lý tưởng làm gì cho mệt ?
5/ Tôn giáo đã là sự kiện lịch sử trong thực tế, nó là tâm thức, là ý nghĩa và giá trị sống cho nhiều người, Mác không phải là những người đó, làm sao có thể chủ quan phủ nhận họ tất cả và phủ nhận luôn mọi lịch sử khách quan đã có được ?
Vậy nói chung lại, bản thân Mác vì quá mù quáng vào biện chứng luận của Hegel nên
đưa ra một lý thuyết không hề có cơ sở thực tế. Ông ta không biết đặt vấn đề học thuyết biện chứng của Hegel có hoàn toàn chính xác không, và cả chính học thuyết của ông ta có hoàn toàn chính xác không ? Sự phán bừa như vậy mà Mác tự cho là khoa học thì thật sự không khoa học và hoàn toàn thiếu nền tảng.
Võ Hưng Thanh
(15/4/16)