Di sản văn học miền Nam (p1)

Nguyễn Văn Lục

buigiangDù không dặn dò thì chỉ cầm cuốn sách nặng chịch cũng thấy được tâm huyết đổ vào đấy. Tôi vốn không ưa thich thơ, nhưng nhiều bài thơ đọc cũng muốn rơi vài giọt nước mắt.

“Mũ nhẹ nên coi đời cũng nhẹ
Chiến tranh, thì cũng tựa phù vân.”

Trần Hoài Thư.

Trong nỗ lực phổ biến hoá di sản văn học miền Nam,  qua trung gian nhà văn Trần Hoài Thư, người viết có ý muốn giới thiệu một phần các tác phẩm của gần 200 nhà văn miền Nam thuộc đủ mọi khuynh hướng, đủ các thế hệ, già cũng như trẻ và đặc biệt các nhà văn mặc áo lính trước năm 1975.

Việc thu thập tài liệu trên là một thách đố cho bất cứ ai bởi vì chính sách truy diệt Văn hóa Mỹ-Ngụy hơn 40 năm trước.

Trong một bài viết: Sống lại dĩ vãng, Phạm Văn Nhàn có trích dẫn một câu chuyện khá cảm động, nhà thơ Viêm Tịnh ở Huế tình cờ tìm thấy nửa trang báo cũ của Khởi Hành, trong đó có đăng 3 bài thơ của ông, ông viết:

1 trang Khởi Hành. Nguồn: OntheNet
1 trang Khởi Hành. Nguồn: OntheNet

“Sau 1975, mình vào Saigon đi kiếm tiền ở khu nhà ga xe lửa cũ trên đường Lê Lợi, mình vào nhà vệ sinh công cộng ở bên hông nhà ga và thật mủi lòng thấy một nửa trang báo Khởi Hành rách bẩn có thơ của mình.”

[Trích Thư quán Bản Thảo, chủ đề “Khởi Hành và tôi”, số 12, tháng 12, 2014) Thư của nhà thơ Viêm Tịnh tư Huế.]

Thêm một bằng chứng hiển nhiên và hùng hồn là sau khi cho đăng lại các số Tập san Đại Học của Viện Đại học Huế, đã được số hóa, thì bất ngờ DCVOnline.net nhận được thư của một nhân viên của Tạp chí Khoa học Đại Học Huế, liên lạc và ngỏ ý muốn có toàn bộ Tâp san Đại Học Huế đã số hoá để dùng làm tài liệu trong dịp 60 năm thành lập Viện Đại Học Huế (1957-2017). DCVOnline không thoả mãn yêu cầu này, và vẫn tiếp tục phổ biến Tập san Đại Học hàng tuần cho bạn đọc toàn cầu.

Xin tài liệu của Tạp chí Đại Học Huế cần được ghi nhận là việc có nhiều ý nghĩa. Trong đó cũng có một điểu rất là vô lý và trái khoáy!

Đại Học Huế đúng ra phải lưu trữ ít lắm cũng vài ấn bản của toàn bộ tập san. Không lẽ hiện nay thư viện của Đại học Huế không có được một ấn bản nào của Tập san Đại Học? Và có lẽ cả cái thành phố Huế cũng không còn một ai lưu trữ được một số báo nào cũng nên?

Trung tâm học liệu Đại học Huế Khánh thành vào tháng 6/2004, diện tích sử dụng trung tâm học liệu ĐH Huế là 6.100m2. Với không gian rộng rãi, thoáng mát, cơ sở vật chất hiện đại, 500 máy tính luôn sẵn sàng phục vụ, thư viện là nơi lý tưởng để các bạn sinh viên học tập. Tổng số sách hiện có tại đây là 14.449 tên/50.769 bản; trong đó 3286 tên/3610 bản sách tiếng nước ngoài; 568 tên báo, tạp chí (85 tên báo, tạp chí nước ngoài). Nguồn: thuvien.uit.edu.vn
Trung tâm học liệu Đại học Huế
Khánh thành vào tháng 6/2004, diện tích trung tâm học liệu ĐH Huế là 6.100m2. Cơ sở vật chất hiện đại, 500 máy tính. Tổng số sách hiện có tại đây là 14.449 tên/50.769 bản; trong đó 3286 tên/3610 bản sách tiếng nước ngoài; 568 tên báo, tạp chí (85 tên báo, tạp chí nước ngoài). Nguồn: thuvien.uit.edu.vn

Bao lớp sóng phế hưng của những biến động chính trị dồn dập xảy ra cho Huế! Một thành phố có tiếng là đất văn vật, với thành quách, đền đài cung điện mà một phần hồn của Huế xem ra cũng không giữ được? Huế đã chết, quá khứ của nó bị chôn vùi mà cái hiển hiện chỉ là cái bề ngoài không che đậy được. Huế bị vùi dập đến nỗi khi cần tài liệu của Huế người ta phải cầu cứu đến một tờ báo điện tử ở hải ngoại cung cấp cho Đại Học Huế?

Đó có phải là hệ quả của nền văn hoá đốt cháy, đập bỏ của những người “thắng cuộc”?

Điều đó càng đem lại cho tôi một niềm tin sắc bén rằng, dầu các nhà văn và tác phẩm của họ đã bị xóa sổ sau 30 tháng 4, 1975, việc giới thiệu lại mảng văn học miền Nam là một điều nên và cần làm.

Nếu không làm bây giờ thì sẽ quá trễ.

Nhiều nỗ lực ở hải ngoại của một số nhà xuất bản sau 1975 như Xuân Thu, Đại Nam cũng là một điều khích lệ mặc dầu những nỗ lực đó để phục vụ mục đích thương mại. Tuy nhiên, sinh hoạt xuất bản này bị khựng lại ví do số lượng người đọc được tiếng Việt mỗi ngày một suy giảm,

Trong nước, hiện có một xu hướng tìm về do những người hiểu chuyện như nhà văn Nguyên Ngọc, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên và của một số nhà xuất bản đã làm. Họ cho in lại một số tác phẩm của nhà văn Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác, các tác phẩm sử học của Tạ Chí Đại Trường, v.v.

Tuy nhiên, đó cũng vẫn chỉ là công việc muối bỏ biển.

Ngoài nước, Phạm Thị Hoài là người đã nghĩ đến việc này và hàng loạt tài liệu về văn học miền Nam đã được in, trích đăng lại trên Talawas. Rất tiếc, công trình đó bị bỏ dở. Vì một lý do nào đó, Phạm Thị Hoài đã phải đóng cửa Diễn Đàn Talawas để lại sự tiếc nuối của nhiều người, trong đó có tôi.

Hiện nay có một nỗ lực ngoài sức người của nhà văn Trần Hoài Thư. Ông được nhóm bạn bè – như Hồ Thanh Tâm, Đặng Kim Côn, Nguyễn Hoàng Quân, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh, Lại Quảng Nam, Thành Tôn, Thu Hương (Seattle), Nguyễn Thị Hải Hà, anh chị Lệ Uyên, cô T.H, Ngô Kim – tiếp tay.

Thư Quán Bản Tháo số 61. Nguồn: www.banvannghe.com
Thư Quán Bản Tháo số 61. Nguồn: www.banvannghe.com

Kỷ niệm đầu tiên giữa tôi và ông Trần Hoài Thư là một ngày tháng nọ, đã lâu, một học trò ở Philadelphia gửi cho tôi một tuyển tập thơ đồ sộ, Thơ miền Nam thời chiến (sách in năm 2006, dày 818 trang với 263 nhà thơ với lời dặn dò, Kính tặng thầy để tham khảo để thấy công lao của anh Thư.

Dù không dặn dò thì chỉ cầm cuốn sách nặng chịch cũng thấy được tâm huyết đổ vào đấy. Tôi vốn không ưa thich thơ, nhưng nhiều bài thơ đọc cũng muốn rơi vài giọt nước mắt.

“Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con
cũng đem chiếc áo lành ra mặc
cũng ăn một bữa cơm cho no
cũng ngủ một giấc trên giường, trên chiếu
khổ đau lúc này mẹ gói trong mơ.”

(Hồ Minh Dũng, “Đêm Giáng sinh”)

Và một Nguyễn Bắc Sơn quen thuộc trong bài Căn bệnh thời chiến:

“Mày gửi một chân ngoài trận mạc
Mang về cho mẹ một bàn chân
Mẹ già khóc đến mù hai mắt
Đời tàn theo lứa tuổi thanh xuân.”

Chưa bao giờ tôi thấy một tập thơ in một cách ‘rất tiểu công nghệ’, phải xỏ chỉ, xuyên kim tùng mũi một như thế; nhìn sách là biết công khó của nhà/người xuất bản.

Sau này được biết ông gom tiền mua một vài máy in, máy cắt, v.v. đặt ở ngay tầng hầm dưới nhà. Ông mày mò nhờ bạn bè trong nước kiếm tài liệu, cùng với chị Yến, vợ ông, tìm thêm tài liệu tại thư viện đại học Cornell.

Tìm được tài liệu, về nhà lóc cóc đánh máy, in ấn một mình.

Vậy mà ông đã in được bốn tuyển tập, dày hơn 2000 trang với gần 200 nhà văn đủ loại. Gửi cho bạn bè bằng bưu điện đi khắp nơi thì tiền bưu điện đắt gấp đôi tiền giấy mực. Ông vẫn tiếp tục gửi, tiếp tục làm việc như người lên đồng. Chưa hề thấy lần nào ông ngửa tay xin tiền bạn bè. Ai gởi thì ông nhận. Chỉ thế thôi.

Và đây, xin ghi lại một cảm tưởng của một người đã có chuyện được in lại:

“Sau 34 năm thất lạc, giờ mới nhận lại được đứa con tinh thần tên ‘Thăm viếng’. Thật sự cũng cảm thấy mừng mừng tủi tủi, lại chạnh lòng thương nhớ những đứa con khác mà mình đã chôn vội chôn vàng xuống lòng đất sau 30-4-1975.”

(Trích Âu Thị Phục An, tác giả Thăm viếng, tập I).

Ở đây, phải được phép để nói về hoàn cảnh của ông, mà tôi chợt nghĩ và so sánh đến câu chuyện Con chó vàng của nhà văn Nguyên Hồng thời tiền chiến. Vợ ông, chị Yến đau nặng, mất khả năng tự lập. Mình ông hầu vợ, cơm bưng nước rót, rửa ráy tắm giặt – một tay ông. Còn chút thì giờ rảnh rang thì ông lại chui xuống hầm dưới nhà, loay hoay in ấn.

Và trong những ngày tháng sắp tới, những sưu tầm của ông sẽ được DCVOnline.net phổ biến rộng rãi khắp nơi, nhất là để đến với bạn đọc trong nước.

Phần riêng, tôi mong ông tiếp tục làm việc mà thời gian của ông cũng được đong đếm từng ngày vì đau ốm bệnh tật. Nếu bạn đọc còn thiết tha đến văn học miền Nam, muốn có tác phẩm bằng giấy in, xin liên lạc với ông ở địa chỉ, [email protected]

(Còn tiếp)

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và minh họa.

1 Comment on “Di sản văn học miền Nam (p1)

  1. TRẦN HOÀI THƯ
    Bổng dưng gặp gở Trần Hoài Thư
    Bởi ngã văn chương chẳng bởi người
    Bởi đọc qua bài Nguyễn Văn Lục
    Cuộc đời đáng nễ vậy mà thôi
    Đâu có hình dung được vóc người
    Thấy toàn xơ xác chỉ qua lời
    Bận bịu một đời là như thế
    Thi văn thế sự chẳng đồ chơi
    Chẳng trách chi anh đội đá hoài
    Do mê một nỗi chuyện và trời
    Ta phục nhưng cười trong hể hả
    Cười vì chuyện đếm lá thu rơi
    Ôi quả trần gian giữa con người
    Khổ đau nhân thế vẫn luôn hoài
    Như nước mưa rơi ai múc hết
    Dẫu người thiện chí cũng thừa thôi
    THƠ NGÀN
    (16/7/16)