Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm (1897-1963): Thời kỳ chưa nắm quyền, 1897-1954

Chính Đạo

temvnchTài liệu tham khảo.

Phụ chú: Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm

1. Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1967, 12 books, (Washington, DC: GOP, 1971), Bk 11, tr. 36-41. Xem thêm chú 4 infra.
2. Bernard B. Fall, The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1965), tr. 235, 475n3.
3. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1999-2000). [Sẽ dẫn: Các vua cuối] Xem chú 18 infra.
Ngày 17/10/1907, Thành Thái rời Huế, mang theo 4 trong số 16 vợ và phi, 10 trong số 24 con, 20 người hầu. (131. Trong số vợ, 7 người chưa con. Nhị giai là con Nguyễn Hữu Ðộ, có 2 con, không muốn theo vua vào Cap St Jacques; CAOM (Aix), GGI, dossier 9578/5. Nhất giai Nguyễn Gia Thị (?)là con Nguyễn Thân, và Tam giai, con Trương Như Cương.) Ngày 23/10/1907, vua tới Bà Rịa, khởi đầu cuộc sống lưu đày không ít sóng gió.
Phần Khả bị ép về hưu với hàm Thượng thư bộ Lễ. Chức “Thượng thư hàm” [Ministre honoraire] này được ghi trong bản dịch một bài thơ nói về chuyến du ngoạn núi Ngự Bình [Ecran du Roi] của vua Tự Ðức trong tập san Ðô thành hiếu cổ [Bulletin des Amis de Vieux Hué]. (19) 19. “Une ascension sur l’Écran du Roi: Poésie de S. M. Tu Duc, traduite par Ngô Ðình Khả, Ministre honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-27.

4. Department of State, Office of Libraries and Intelligence Acquisitions, “Biographic Report: Ngo Dinh Diem, President of the Republic of Vietnam, To Visit Washington [May 8-10, 1957]”, BR No. 203 (April 18, 1957); Richard Nixon Library (Yorba Linda, CA), Prepresidential Papers, PPS 320.99.33.1-2. [Sẽ dẫn, Diem (1957)] Tình báo Mỹ ghi Diệm sinh trong một gia đình đã theo đạo Ki-tô từ thế kỷ 17 và nhiều thế hệ đã sản xuất ra những bậc tu hành và quan chức nổi danh. Cha là Thượng thư bộ Lễ và Lord Chamberlain cho vua Thành Thái, từng du học ở Malaya; Diem (1957) [Giống tài liệu của Fall [The Two Vietnams, chú 2 supra] & Robert Shaplen [The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966)]
Ngo Dinh Diem is a short, stocky, physically unimpressive man who looks much younger than he actually is. Usually he acts only after slow, careful deliberation, though he is capable of quick, decisive action if the situation demands it. [p.2] Ngo Dinh Diem (1957)]
He is an introverted, lonely figure. Although he warms when he feels himself understood, he is reserved and initially shy with strangers, particularly women, in whose presence he is not always at ease. He is, however, a man with an almost messianic sense of mission. He has said that at the age of 14 he first had the thought he would someday led his people, and with near fanatic single-mindness he held himself readiness for that role. While he is widely respected for this dedication, he is also criticized for egoism and for his unbounded attachment to the concept of personal loyalty in his government, a trait which has deprived him of the services of able men who have somehow incurred his displeasure. He can be both intransigent and almost brutal in pursuing and applying policies he has decided upon, and when aroused has a violent temper which even members of his family are wary of. A devout Roman Catholic, he lives as a celibate and practices the utmost discipline and auterity in his private life. His honesty and integrity is unquestionable and he possesses personal courage to a high degree, although an assassination attempt in February of this year [1957] has made him more conscious of the dangers to which he had previously exposed himself. Ngo Dinh Diem (1957)]
“Political philosophy of Benevolent Authoritarianism.” [p.3] Ngo Dinh Diem (1957)]
Thư than phiền của ông Nghiêm Xuân Thiện, chủ báo Thời Luận, sau khi báo này bị đóng cửa.
Có ít tấm hình Trần Văn Ðôn, Tôn Thất Thiện, Trần Lê Quang, Nguyễn Hữu Châu, Võ Văn Hải.

5. Direction des Services Francais de Securité en Indochine [DSFSI], “M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh”; SHAT (Vincennes), Indochine, 10H xxx. Tài liệu này hiện vẫn chưa giải mật. Xem phóng ảnh trong Nguyên Vũ, ParisXuân 96 (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 165; Chính Ðạo, Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston: Văn Hóa, 2004), tr. 15-6. Những chi tiết không có phụ chú trong bài này đều trích dẫn từ tài liệu trên. Xem thêm Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], Tập I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000), tr. 110; Idem., VNNB, tập III: Nhân vật chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 262. Sẽ dẫn:Nhân vật chí, 1997.
6. Theo Lansdale, Diệm “đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc” nên 60 tuổi vẫn còn độc thân. Xem chú 1 supra. Nhưng nhiều người đương thời, như Tướng Trần Văn Ðôn André, cho rằng Diệm thiếu khả năng tình dục.
7. Xem Ngô Ðình Diệm, “L’Encrier de S. M. Tu-Duc: Traduction des Inscriptions [Nghiên mực của vua Tự Ðức: Bản dịch những chữ khắc];” Bulletin des Amis du Vieux Hue [BAVH], Bộ IV, số 3 (Tháng 7-9/1917), tr. 209.
8. Phỏng vấn Kỹ sư Luyện ngày 2/11/1985 tại Paris. Xem thêm, Ngô Ðình Diệm, “L’Ambassade de Phan Thanh Gian (1863-1864)”; [Sứ đoàn Phan Thanh Giản, (1863-1864)]; BAVH, Bộ VI, Số 1bis và 2 (Avril-Juin 1919), tr. 161. Ở đầu bài, Diệm được giới thiệu là “học sinh trường Hậu bổ,” và bài này đã được đọc tại các buổi họp [hôi thảo] ngày 27/8 và 3/12/1918, và 4/3/1919. Ibid. Diệm chỉ dịch một phần tập tâu của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ, dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Ðình Hòe. Phần còn lại (thiếu đoạn đi sứ Espania) do Trần Công Tạn dịch; BAVH(1921), tr. 147-87.Tác giả đa tạ ông Nguyễn Ðắc Xuân đã cung cấp phóng ảnh bài viết này của Ngô Ðình Diệm.
9. Xem báo cáo về cuộc đàm thoại ngày 28/4/1955 giữa Bảo Ðại với William Gibson, Ðệ nhất thư ký Tòa Ðại sứ Mỹ; FRUS, 1955-1957, I:332-36; Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 54-5.
10. Nguyên văn: “A year after his decision to give up becoming a priest. Diem falsified his age and took competitive examinations for the equivalent of a highschool diploma;” Robert Shaplen, The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966), pp. 106-7. Bằng “Thành Chung” hay Diplôme là bằng cao nhất bậc Trung Học thời gian này.
11. Xem tiểu sử Thục trong CAOM (Aix), GGI, CP 125; Chính Ðạo, Nhân vật chí,1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng, 2004, I:464-65. Tại Việt Nam, nên ghi nhận, có tục lấy tên “mẹ già,” tức vợ chính thức, để khai sinh cho các con thê thiếp hoặc ngoại hôn.
12. Chính Ðạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963, 2000, tr. 110. Xem thêm chú 4, supra.
13. Diem (1957) [After being instructed at home and attending the Pellerin school in Hue, he studied briefly for the priesthood].] Năm 1957, an ninh Mỹ ghi Diệm là “a devout Catholic.”
14. Theo Fall, niềm tin tôn giáo của Diệm là loại hiếu chiến tàn bạo của một Quan tòa [chuyên xử] Dị giáo [ruthless militancy of the Grand Inquisitor]. Khi một người Pháp nói “tín ngưỡng chung của chúng ta,” Diệm thản nhiên trả lời: “Tôi tự cho tôi là một tín đồ Ki-tô Espania [Tây Ban Nha],” tức cuồng đạo hơn là hòa hoãn theo kiểu Ki-tô Pháp; Two Vietnams, 1965:236.
15. Xem Chính Ðạo, Hồ Chí Minh (1892-1969), Con người & Huyền thoại, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1993-1997), tập I:161-62; Phụ bản 5, trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, 1883-1945, tập II:602-4. Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược, đã dẫn lời “một đại quan về hưu” để bài bác chi tiết trộn tro than Ngự sử Phùng bắn xuống sông Lam. “Ðại quan về hưu” này chắc không thể biết rõ sự việc bằng Khâm sứ Huế, người viết báo cáo vào tháng 2/1896, hay báo cáo của chính Nguyễn Thân. Ðó là chưa nói đến thói quen chối tội của các phạm nhân chiến tranh [war criminals], hoặc âm mưu ngụy tạo lịch sử để bảo vệ cho thượng cấp và đồng đạo (kiểu “Việt Cộng ném lựu đạn trước đài phát thanh Huế tối ngày 8/5/1963,” “nhân viên an ninh Mỹ ném mìn plastic tối 8/5/1963,” “toàn dân Việt Nam ghi ơn Ngô Tổng thống”). Xem, Vũ Ngự Chiêu, “Vài Ý Nghĩ Về Thượng Tọa Thích Quảng Ðức”; Ði Tới (Montréal, Québec), XII, số 83 (7-9/2005), tr. 40-7; Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 84 (8/2005), tr. 194-206. Ðáng tiếc vì không được huấn luyện về phương pháp nghiên cứu và viết sử, lại không có tư liệu, Trần Trọng Kim khiến tập phổ thông lược sử của ông chứa nhiều dữ kiện và nhận định lầm lạc.
16. Có tài liệu ghi Khả là Chưởng giáo đầu tiên của trường Quốc Học; E. Le Bris, “Le Quoc Hoc;” BAVH (1916), số 1, tr. 80. Ðây có lẽ dựa theo Dụ năm 1896 của Thành Thái, nhưng Toàn quyền Pháp không chấp thuận. Giám đốc trường này là một người Pháp. Về chức “Thượng thư” của Khả, chúng tôi chưa thấy một tài liệu nào. Trong bản dịch một bài thơ nói về chuyến du ngoạn lên núi Ngự Bình [Ecran du Roi] của vua Tự Ðức–“Une ascension sur l’Écran du Roi: Poésie de S. M. Tu Duc, traduite par Ngô Ðình Khả, Ministre honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-27–Khả chỉ ghi“hàm Thượng thư,” [Ministre honoraire] khác xa với Thượng thư thực sự, nói chi “Thượng thư đầu triều.” Trần Lục, hay Père Six ở Phát Diệm, tay chân tín cẩn của Giám mục Puginier, cũng được thưởng hàm Thượng thư và Bắc đẩu Bội tinh.
17. Lời chứng của Nguyễn Thi, cựu Ủy viên Hành Kháng tỉnh Ninh Thuận, trên báoNhân Dân ngày 16/7/1954, dẫn trong Trần Văn Giàu, Miền Nam giữ vững thành đồng, 5 tập (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1964-1978), tập I (1964), tr. 36. Hai tác giả khác ghi là việc Diệm dùng đèn cầy đốt hậu môn tù nhân CS khi làm Tri phủ Hòa Ða; Nguyệt Ðàm và Thần Phong, Chín năm máu lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Ðình Diệm (Sài Gòn: 1964), tr. 18. Theo hai tác giả này, nhân chứng là Cử nhân Nguyễn Trác, cựu Nghị viên trưởng An Nam. Xem thêm, Bùi Nhung, Thối nát (Sài Gòn: 1969); Hoàng Trọng Miên, Ðệ nhất phu nhân (Los Alamitos, CA: 1989), I:128-29. Theo tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ, Diệm tốt nghiệp thủ khoa năm 1921; năm 1929 đã làm quan đầu tỉnh. Khi ở Quảng Trị năm 1930-1931, tri huyện Diệm dùng những thủ đoạn nghiêm khắc để đàn áp, v.v. [“From 1922 to 1929 he was a district chief in the territorial administration of Annam and during the next four years he served as a province chief. While in Quang Tri province during the 1930-1931 Communist-led insurrections he used drastic methods in repressing agitators and revolutionaries, thus incurring the enmity of left-wing nationalists. In 1932-1933 he headed a commission to investigate charges of corruption in the upper echelons of the Annamese administration;” Ngo Dinh Diem (1957) [p.5]].
18. Thư ngày 21/8/1944, Thục gửi Decoux; CAOM (Aix), PA 14, c. 2. Thư này do tác giả công bố lần đầu trong Luận án tại Ðại học Wisconsin-Madison năm 1984, rồi trên báo Lên Ðường (Houston) năm 1989; in lại trong Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-A: 1939-1946, tr. 200. Vài cá nhân đặt nghi vấn là Pháp ngụy tạo tài liệu trên. Nghi vấn này do sự thiếu hiểu biết về phương pháp bảo quản tài liệu văn khố (khác với thư viện) Hơn nữa thủ bút và chữ ký của Thục khó thể giả mạo. Tưởng cũng nên ghi thêm rằng một vài cá nhân (như Lê Trọng Văn, Bùi Kha) đã tự động tẩy xóa bút phê của Decoux cũng như ghi chú của nhân viên văn phòng Toàn quyền và dấu cùng chữ ký thị thực của Văn khố Aix-en Provence Pháp trên phóng ảnh tài liệu trên, in vào sách họ.
19. Báo cáo số 1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Sureté gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856.
20. CAOM (Aix), PA 14, c. 2. Xem thêm chú 18 supra.
21. Tại hải ngoại, một cựu thẩm phán Cần Lao bịa đặt rằng Bài đã được hỏi ý từ trước, đích thân Phạm Quỳnh thông dịch, và các tân thượng thư đều có mặt. Thói trộm không khéo chùi mép này chứng tỏ sự thiếu lương thiện trí thức của một số người hoài Ngô. Xem thêm Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:1111-145.
22. TTLTQG 2 (TP/HCM), RSA/HC, HS 1869; Nam Phong số 184 (5/1933); Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:793, 1111-129. (Ðoàn sau này hợp tác với Hồ Chí Minh).
23. Theo Tổng Lãnh sự Hong kong, Diệm tuyên bố là bạn lâu đời của Bảo Ðại, đã phục vụ như “Tể tướng” những năm cũ, và hai gia đình có liên hệ gần gũi [Ngo Dinh Giem [Diem] claimed that he was an old friend of Bao Dai, had served as his Prime Minister in former years, and that their families enjoyed close relations.”]; CÐ 450, 30/12/1947, Hongkong gửi BNG; FRUS, 1947, VI:153. Việc tự đánh bóng để “bán mình” [sell yourself] cho Mỹ này không được tài liệu văn khố Pháp chứng minh. Thực tế, Diệm, như đã lược nhắc, chỉ được đặc cách lên hàng Thượng thư Bộ Lại, mà phận sự và quyền lợi đồng đều với bốn bộ khác, và năm 1935, chỉ được Bảo Ðại cho lại chức Thượng thư hàm. Xem chú 28 infra.
24. Báo cáo ngày 10/5/1933, Pasquier gửi Colonies; CAOM [Aix], INF, c.366, d.2905; trích in trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:785-809, 1111-145. Xem Phụ bản báo Tiếng Dân trong sách này.
25. Báo cáo số 303-A.P., 22/7/1933, Gougal gửi Colonies; CAOM (Aix), INF, c.366, d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:804-6.
26. Ibid., III:806-7.
27. CAOM (Aix), INF, c.366, d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:808.
28. Báo cáo số 1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Sureté gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856. Thực tế, trong mùa Hè 1944, người Nhật đã chọn Diệm làm ứng cử viên tương lai chức Thủ tướng An Nam, dưới quyền Hoàng thân Cường Để, và sự trợ giúp của Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Đình Dy, Vũ Văn An, Lê Toàn (tức Ủy Ban Kiến Quốc). Xem Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký (Houston: Văn Hóa, 1996).
29. Nguyên văn: “Francais ne veulent pas de nous, parce que nous sommes trop entiers, à fortiori Japonais qui préfèraient souplesse PHAM QUYNH dont ils vantent talent.” Báo cáo số 1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Sureté gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856. Tháng 4/1945, người Nhật chọn Trần Trọng Kim làm Tổng lý Đế Quốc Việt Nam.
30. “M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba Chinh,” tr. 2; SHAT (Vincennes), 10H xxx. Xem thêm chi tiết trong Vũ Ngự Chiêu, “Political and Social Change in Vietnam Between 1940 and 1946,” Ph.D. dissertation, December 1984, Univ. of Wisconsin-Madison, Part I, chapts 3, 4 & 6. Báo Tiếng Dân trong tháng 5/1933 cũng có bài xa gần nhắc nhủ “những người được cái của người khác đừng nên vội mừng” (có lẽ ám chỉ Phạm Quỳnh) và kết luận rằng mọi việc đều do Pháp chủ xướng. Huỳnh Thúc Kháng, tưởng nên nhấn mạnh, cùng chủ trương “thờ người Pháp làm bậc thầy để cầu tiến bộ” như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, v.v.
31. Memorandum of a Conversation, Saigon, Jan 16, 1962; FRUS, 1961-1963, II:41-2; IV:tài liệu 69 (deception, IV:127), 77 (medival view of life; IV:143), và 221.
32. Note số 2995-SP/C, Huế, 4/4/43; CAOM (Aix), 14 PA, c.1. 30; CP 192 [12/7/1944: Huế: Trung úy Kuga đưa Ngô Ðình Diệm vào Ðà Nẵng, rồi đáp phi cơ quân sự vào Sài Gòn]; 14 PA/2 [12/8/1944: Pháp bắt Nguyễn Huy Tân, một trong những cán bộ Ðại Việt Phục Hưng ở Quảng Ngãi. Tòa Khâm sứ yêu cầu Khâm sứ Grandjean, đang ở Ðà Lạt, cho biết ý kiến]; và, GGI, 7F 29, tr. 56. Matsushita [Tùng Hạ] đã tới Ðông Dương từ thập niên 1920. Năm 1938, bị trục xuất; nhưng trở lại Sài Gòn từ năm 1941.
33. CAOM (Aix), Papiers Decoux, 14 PA/2. Xem chú 13 supra. Anh em Diệm, thường rất thích “thề trên thập tự giá” nhưng ít khi giữ những lời thề này, kể cả lời thề “trung thành” với Bảo Ðại trước khi về làm Thủ tướng toàn quyền dân và quân sự vào tháng 6/1954. Xem infra.
34. Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ (Houston: Văn Hóa, 1996), tr. 243-49, 247-48; Bảo Ðại, Le Dragon d’Annam (Paris: Plon, 1980), tr. 106; CAOM (Aix), GGI, CP 125.
35. SHAT (Vincennes), 10H xxx; Shaplen. 1966:110]
36. Vũ Ngự Chiêu, The Other Side of the 1945 Vietnamese Revolution: The Empire of Vietnam (4-8/1945) / Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Ðế Quốc Việt Nam (4-8/1945) (Houston: Văn Hóa, 1996). Bản Anh ngữ tập sách nhỏ này, trích ra từ luận án năm 1984, đã in trong Journal of Asian Studies [JAS] tại Mỹ vào tháng 2/1986.
37. Chi tiết trong đoạn này, nhất là tư liệu báo chí như Cờ Giải Phóng (Hà Nội), Cứu Quốc, v.. v.. từ tháng 8 tới tháng 11/1945 dẫn từ Vũ Ngự Chiêu, “Political and Social Change,” Part II: The End of An Era,” chapt 9. Chúng tôi chỉ dẫn xuất sứ những nguồn tin mới phát hiện. Xem thêm Chữ 1996:284-90 về việc cướp chính quyền ngày 19/8/1945, và Vũ Ðình Hoè, Hồi Ký, tái bản (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 2004), tr. 733-41.
38. Ðộc Lập, “Cơ quan tuyên truyền, tranh đấu, nghị luận của Việt Nam Dân Chủ Ðảng trong Mặt Trận Việt Minh”, xuất bản công khai số 1, Năm thứ 2, 4/9/1945 [loan tin “Ngày độc lập [2/9/1945] đã thu hút 50 vạn dân thành phố Hà Nội quanh vườn hoa Ba Ðình.”]; Cờ Giải Phóng, số 16, 12/9/1945.
39. FRUS, 1952-1954, XIII:554; Ibid., 1961-1963, II:42.
40. [In September 1945 he was arrested by the Viet Minh and held until March 1946, being offered a cabinet post by Ho Chi Minh and refusing it]; Ngo Dinh Diem (1957) [p.5]; [Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Viking Press, 1983), tr. 216-17].
41. CAOM (Aix), GGI, CP 125; Nhân vật chí, 1997:313.
42. Theo Drapier, Nhu, làm việc tại Hà Nội, không dám ra khỏi nhà vì sợ bị bắt cóc. Tại Huế cũng có tin Thục bị Việt Minh bắt; CAOM (Aix), GGI, CP 125. Đa tạ Giáo sư Dương Đình Nham đã tặng phóng ảnh lệnh bổ nhiệm Nhu làm Giám đốc Văn Khố, do Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Giáo dục Vũ Đình Hòe ký ngày 8/9/1945.
43. Giám mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1945-1954 , tr. 117.
44. Ngo Dinh Diem (1957)], p.5 [During the Franco-Viet Minh hostilities in Hanoi in late 1946, and for some time afterward, he remained in hiding in the Hanoi mission of the Canadian Redemptionist Fathers. [p.5]
45. Nguyên văn: “À mon avis, il serait avantageux pour le calme de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars.” Ngày 28/12/1945, trong thư gửi một giáo sĩ Pháp, Drapier cho rằng gia đình Bảo Ðại là “gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân Việt (la plus francophile de tous les annamites); CAOM (Aix), CP 125. Về cuộc tái xâm lăng của Pháp, xem Vũ Ngự Chiêu, “Political and Social Change,” Part III: “The Brutality of World Politics” (1984); Georges Thierry d’Argenlieu, Chronique d’Indochine, 1945-1947 (Paris: 1985); Général de Gaulle et l’Indochine (Paris: 1982).
46. Trần Trọng Kim, Kiến Văn Lục: Một Cơn Gió Bụi (Sài Gòn: 1969), tr. 134ff. Sẽ dẫn: MCGB, 1969.
47. D’Argenlieu, Chronique, 1985:385-92. Nguyên văn công điện số 2464/CI/142, ngày 23/1/1947, như sau: “Ne suis pas d’accord. Ne rien décider avant que nouveau gouvernement ait formé directives;” Ibid., p. 387.
48. Báo cáo ngày 21/12/1946, Massimi, Hải Phòng, gửi Ủy viên Bắc Kỳ [Sainteny]; báo cáo ngày 20/12/1946 & 30/12/1946 của Yolle; CAOM (Aix), HCFI, Conseiller Politique [CP], carton 255. Theo một học giả Mỹ, Wainwright, tháng 2/1945, Arnoux đã gửi qua Trùng Khánh ba gián điệp, kể cả Morand và Yolle, để cung cấp những tư liệu nói xấu những phần tử Gaullists trong nội địa Ðông Dương. Chẳng hiểu Thanh tra cảnh sát Yolle liên hệ gì đến Linh Mục Yolle hay chăng; De Gaulle et l’Indochine,1982:121.
49. Số người chủ trương thương thuyết với Hồ chỉ có Ðảng Cộng Sản Pháp và một số cá nhân như Léon Blum. Ngày 31/12/1946, trong phần trích dịch dư luận báo chí ở Paris, L’Humanité đăng lại lời bình luận của Le Parisien libéré [Người Paris Giải Phóng]: “Sẽ là một sự điên rồ khó tha thứ khi mưu toan đặt lên một chính phủ bù nhìn nào đó sẵn sàng hợp tác với chúng ta, nhưng không có nền tảng dân chúng. Một sự điên rồ mà trong tương lai sẽ rất đắt giá cho chúng ta.” (Nguyên văn: Ce serait une impardonable folie que de susciter pour pouvoir comme partenaire, un quelconque gouvernement fantoche prêt à la collaboration avec nous, mais sans fondement populaire. Une folie qui dans l’avenir nous couterait fort cher).
50. Cầm đầu nhóm này là phe Gaullist. Xem infra.
51. Nguyên văn: “Chính trị với tôi đã hết. Dân tộc tôi đã muốn dân chủ: tôi không có gì chống lại điều đó, bởi vì ngay từ đầu tôi đã cộng tác với chính phủ mới…. Tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh” [La politique est pour moi une chose morte. Mon peuple a voulu une démocratie: je n’y ai fait aucune opposition, puisque j’ai même accepté, au début, de collaborer avec le nouveau gouvernement…. J’ai beaucoup d’estime pour le Président Ho Chi Minh….]; Combat (Paris), 15/10/1946; PA 28, Carton 7, d. 164; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:995-96.
52. SHAT (Vincennes), 10H xxx.
53. AAN, 1946 [Séance du 20 décembre 1946]:196.
54. AAN, 1946, [2è Séance du 23/12/1946]:321.
55. AAN, 1947:882-83.
56. AAN, 1947:835.
57. AAN, 1947: 856, col 2.
58. Tư liệu văn khố Nga và Trung Cộng mới giải mật cho biết Hồ chỉ chính thức nối lại liên hệ với Liên Sô Nga từ tháng 2/1950. Nhưng Stalin giao cho Bắc Kinh cai quản Ðông Dương. Theo một viên chức Trung Cộng, tối 16/2/1950, Stalin từ chối lời đề nghị của Hồ là Liên Sô và VNDCCH ký Hiệp ước hữu nghị giống như Nga mới ký với Trung Cộng.
59. Blokov Ranh (1909-1952?), em trai Trần Phú (1904-1931), Tổng thư ký đầu tiên của Ðảng CSÐD, từng theo học Ðại học Phương Ðông [KUTV] Mat-scơ-va và một thời gian là “bạn đồng hành” của Nguyễn Thị Vịnh (Minh Khai) (1910-1941) ở Trung Hoa; CAOM (Aix), SPCE, carton 367. Năm 1947, Ranh bị Pháp bắt giữ cùng Bourov Dương Bạch Mai (1904-1964), nhưng phải trả tự do vì áp lực của Ðảng Xã Hội và báo Le Figaro; AAN, 1947, 833; Ibid., 1949, II:1509. Năm 1949 Ranh qua Tiệp Khắc, sau bị khai trừ khỏi Ðảng CSÐD, khi tái lập Ðảng Lao Ðộng Việt Nam năm 1951 (cùng Lê Hy); Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả (Bắc Kinh: 1987), tr. 319-21.
60. CAOM (Aix), INF, Carton 138-139/1245. Theo tài liệu MTQGTNTQ tại miền Nam, đề ngày 5/5/1947, Mặt Trận này họp Hội nghị ngày 30/3/1947 ở Nam Kinh, và ra tuyên ngôn ngày 31/3/1947; SHAT (Vincennes), Indochine, 10H xxx [4201]. Vẫn theo tài liệu này, các đại diện của Mặt Trận có Ngô Gia Trí, Bảo Sơn, Lưu Bá Ðạt, Trần Thêm, Trịnh Hưng Ngẫu, v.v.).

61. CÐ số 1313, 27/3/1947, Caffery gửi BNG; FRUS, 1947, VI:81-2.
62. CÐ số 154, 7/5/1947, O’Sullivan gửi BNG; FRUS, 1947, VIII:94-95. De Pereyra, tưởng nên thêm, chủ trương thí nghiệm chống Cộng Bảo Ðại. Nhưng từ năm 1950, de Pereyra hết hy vọng ở thí nghiệm này.
63. CÐ 289, 17/4/1947, Bangkok gửi BNG; FRUS, 1947, VI:87-8; CÐ 361, 7/5/1947, Bangkok gửi BNG; Ibid., VI:92-3.
64. Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây (Hà Nội: NXB QÐND, 2001), tr. ; CÐ 145, 7/5/1947, Bangkok gửi BNG; FRUS, 1947, VI:93-4.
65. Thành phần chính phủ thứ tư của VNDCCH như sau: Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Cố vấn: Vĩnh Thụy; Ngoại Giao: Hoàng Minh Giám; Quốc phòng: Tạ Quang Bửu; Tài chính: Lê Văn Hiến; Tư pháp: Vũ Ðình Hoè; Kinh tế: Phan Anh; Canh Nông: Ngô Tấn Nhơn(?);Y tế: Hoàng Tích Tri; Lao động: Nguyễn Văn Tạo; Cứu tế, Xã hội: Chu Bá Phượng (?);Giáo dục: Nguyễn Văn Huyên; Cựu chiến binh: Vũ Ðình Tụng (Y sĩ, Ki-tô); Trong hàng Thứ trưởng, có: Trần Duy Hưng (Nội vụ), Trần Văn Bính (Tài chính), Trần Công Tường (Tư Pháp), Nghiêm Xuân Yêm (Canh Nông), Tôn Thất Tùng (Y tế), Nguyễn Khánh Toàn (Giáo dục), Ngô Tử Hạ (Cựu chiến binh); Cù Huy Cận (Kinh tế Nhà nước).
66. Ngày 28/12/1945, trong thư gửi một giáo sĩ Pháp, Tổng Giám Mục Drapier cho rằng gia đình Bảo Ðại là “gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tous les annamites), và theo ý ông ta, nên cho Bảo Ðại lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour le calme de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars); CAOM (Aix), CP 125.
67. Ngày 2/2, Kim xuống tàu thủy từ Hong Kong về Việt Nam. Tới Sài Gòn, Kim tạm trú trong nhà Luật sư Trịnh Ðình Thảo, cựu Thượng thư Tư pháp trong chính phủ Kim (4-8/1945). Pignon và nhiều người khác, gồm cả cựu Khâm sai miền Nam Nguyễn Văn Sâm, hay tới thăm viếng. Nhưng chỉ hơn một tháng sau, d’Argenlieu bị Dân biểu Bollaert thay thế. Tân Cố vấn chính trị Michel chỉ ghé thăm Kim một lần ngày 8/5/1947, rồi từ đó biệt tín. Nhóm Quảng và Ðán cũng xa lánh dần Kim, làm việc cho những “sứ giả” mới của Bảo Ðại như Phan Văn Giáo và Trần Văn Quế; Trần Trọng Kim 1969:161-169,171-174,178. Theo Phạm Khắc Hoè, ngày 8/2/1947, Phan Huy Ðán và Ðinh Xuân Quảng đưa Hoè tới gặp Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Sâm ở nhà Trịnh Ðình Thảo; Phạm Khắc Hoè 1987, tr. 312-14.
67. CAOM (Aix), INF, c.138-139, d. 1245.
69. SHAT [Vincennes], 10H xxx.
70. Ibid., 10H xxx [252?]. Xem thêm Quang Toản & Nguyễn Hoài, Những hoạt động của bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo trong thời kỳ kháng chiến (1945-1954)(Hà Nội: NXB Khoa Học, 1965), Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, 1945-1975, tập II-A: Các tổ chức tôn giáo (đang in).
71. FRUS, 1947, VIII:133-34.
72. FRUS, 1947, VIII:138-39.
73 . FRUS, 1947, VIII:140-41.
74. FRUS, 1947, VI:139-40.
75. Chính phủ Nam Kỳ Tự Trị ngày 8/10/1947 gồm có: Thủ tướng: Nguyễn Văn Xuân; Phó Thủ tướng: Trần Văn Hữu; Bộ trưởng [BT] Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ; BT Công chính: Nguyễn Văn Tỉ; BT Canh Nông: Trần Thiện Vàng; BT Thông tin: Nguyễn Phú Khai; Thứ trưởng Thông tin: Trần Văn Ân.
76. Vào cuối chiến dịch Léa, hơn 1,000 lính Pháp tử trận, và khoảng 3,000 người bị thương. Võ Nguyên Giáp ghi rằng VM chỉ chết 260, 168 bị thương; Chiến đấu trong vòng vây, 3rd rev. ed (Hanoi: QDND, 2001), tr. 170 [138-80]; Lịch sử, 1986:169-70.
77. Am Consul, Hanoi, to State Dept, 9 Feb 1948, 851G.00/2-948, RG 59; Ronald H. Spector, United States Army in Vietnam, Advice and Support: The Early Years, 1941-1960 (Washington, DC: Center for Military History, United States Army, 1983), tr. 90.
78. Từ Hong Kong trở về, ngày 17/9, Sâm nhân danh MTQGTNTQ gửi thư cho TT Truman, yêu cầu can thiệp vào Ðông Dương; FRUS, 1947, VI:142-43. Sâm cũng quyết định xuất bản báo Quần Chúng tại Sài Gòn để có cơ quan ngôn luận trong tay. Cái chết của Sâm đã được cảnh cáo từ trước–Ngày 23/6/1947, báo L’Echo du Viet-Nam [Dư Luận] của Nguyễn Phan Long loan tin Sâm đã bị Tòa án Mặt trận Quân Khu VII của Nguyễn Bình cho lệnh bắt giải ra xét xử về tội vi phạm lệnh giải tán MTQGTNTQ.
79. CD 5398 ngày 16/12/1947, Caffery gửi BNG; FRUS, 1947, VI:151.
80. William C. Bullitt, “The Saddest War” [Cuộc chiến buồn thảm nhất]; Life(29/12/1947); FRUS, 1947, VI:110.
81. CAOM (Aix), INF, Carton 154.
82. Văn khố Nga và Trung Cộng chưa công bố hết tài liệu về những cuộc gặp gỡ giữa Hồ và Stalin trong tháng 2/1950, nhất là lý do biện minh cho việc giải tán Ðảng Cộng Sản ngày 5/11/1945.
83. CÐ số 305, 5/12/1946, Acheson gửi Moffat; FRUS 1946, VIII:67-9; Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1947 (Washington, DC: GPO, 1971), Bk 8, tr. 85-6.
84. Ngày 18/12/1947, Tổng Lãnh sự Charles Reed đã từ Sài Gòn điện trước cho Hopper rằng có thể “Giệm” [Diệm] sẽ ghé thăm; FRUS, 1947, VI:152-55.
85. CAOM (Aix), 7F 27.
86. Theo tình báo Pháp, ngày 8/2/1848, Diệm đồng ý với lập trường của VNQGLH: Ðộc lập – thống nhất. Năm Lửa Trần Văn Soái cùng lập trường, và tỏ ý quí trọng Diệm. Ngày 11/2/1948, Tiết [Thiet], một người thân cận Diệm và Nhu, từ chức Giám đốc báo Thống Nhất ở Huế, về Quảng Nam làm Giám đốc trị sự công ty bảo hiểm Le Secours. Lý do chính là không đồng ý với Trần Văn Lý. Ngày 12/2/1948, Diệm cử Ðông đi Hà Tiên, Sa Ðéc, Cần Thơ, Vĩnh Long gặp một số linh mục kháng chiến cùng đại diện Cao Ðài, Hoà Hảo để vận động cho Bảo Ðại. Theo Ðông, phần lớn giáo dân trong vùng Việt Minh ủng hộ kháng chiến; nhưng sẽ ngả theo Bảo Ðại nếu được độc lập, thống nhất. Cũng định gửi một số sách báo vào vùng Việt Minh, như cuốn Tôi Muốn Tự Do. Nhu sẽ lên đường qua Pháp chừng hai tháng. Dự trù gặp Bảo Ðại, và xuống Roma; SHAT (Vincennes),10H xxx.
87. Tháp tùng Spellman có Fulton G. Green. Thời Sự (Hà Nội), 7/3/1949.
88. CAOM (Aix), Indochine, 7F 29, tr. 57; SHAT (Vincennes), 10H xxx.
89. Nguyên văn: “Les aspirations du peuple vietnamien dépassaient les termes de l’accord d’Halong [12/1947].” SHAT (Vincennes), 10H xxx.
90. Ngày 12/5/1948, Ðại sứ Mỹ Caffery điện báo về BNG là Vụ trưởng Á Châu Bộ Ngoại Giao Pháp tiết lộ rằng Paris đã cho phép Bollaert chấp thuận việc thành lập một chình phủ lâm thời với Xuân làm Thủ tướng. Tuy nhiên, chính phủ này phải đặt ở Hà Nội hay Huế. Việc thương thuyết giữa Bollaert và Xuân sẽ dựa trên căn bản Hiệp ước Hạ Long ngày 7/12/1947. Bảo Ðại sẽ ký tên vào Hiệp ước mới (5/6/1948) giữa Bollaert và Xuân.
91. Công báo Việt Nam [CBVN], I:1 (4/6/1948), tr. 4.
92. SHAT [Vincennes], 10H xxx.
93. Công báo Nam phần Việt Nam, 3:22 [31/5/1948]:359; CBVN, I:1 [4/6/1948]:7.Cùng ngày, Xuân ban hành Nghị định thứ 2, công bố tổ chức và chức quyền của chính phủ này; SHAT (Vincennes), 10H xxx.
94. CBVN, I:1 [4/6/48]:4.
95. Chủ tịch Hội đồng Tổng trưởng, kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng: Nguyễn Văn Xuân. QVK, Phó Chủ tịch, Tổng trấn Nam Phần: Trần Văn Hữu. QVK, Tổng trấn Trung phần: Phan Văn Giáo. QVK, Tổng trấn Bắc phần: Nghiêm Xuân Thiện. QVK, Tùng Bộ Quốc Phòng: Trần Quang Vinh. Lễ nghi, Quốc Gia Giáo dục: Nguyễn Khoa Toàn. Nội vụ: Nguyễn Hữu Trí [không nhận] Tư pháp: Nguyễn Khắc Vệ. Tài chánh/Kinh tế Quốc gia: Nguyễn Trung Vinh. Công tác & Kế hoạch: Nguyễn Văn Ty. Thông tin, Báo chí & Tuyên truyền: Phan Huy Ðán, Y sĩ [sau đổi tên thành Phan Quang Ðán] Canh Nông: Trần Thiện Vàng. Y tế: Ðặng Hữu Chí, Y sĩ. Thứ trưởng tùng Dinh Chủ tịch: Ðinh Xuân Quảng. Thứ trưởng tùng Bộ Quốc gia Giáo dục: Hà Xuân Tế (CBVN, I:1, [4/6/1948]:15-6). Vì Nguyễn Hữu Trí từ chối Bộ Nội vụ, chức này do Xuân kiêm nhiệm. Ngày 25/9/1948, Trí được cử làm đại diện VN tại Paris, với Vũ Quí Mão làm “Ðặc vụ viên.” “Chỉ dụ” ngày 9/6/1948 bổ nhiệm Ðỗ Quang Giai làm Thứ trưởng Nội vụ; và Ngô Quốc Còn, Thứ trưởng Lao Ðộng & Hoạt động xã hội (CBVN, I:2 [18/6/1948]:23-4). Qua ngày 28/6/1948, Lê Công Bộ làm Thứ trưởng Nội An (CBVN, I:3[31/7/1948]:35). Ngày 2/6/1948, Xuân ký sắc lệnh thứ ba, ban hành “Pháp qui tạm thời” (Statut Provisoire) của nước Việt Nam. Cờ vàng, ba sọc đỏ. Quốc ca: Thanh niên hành khúc [nhưng không nhắc tên tác giả Lưu Hữu Phước. (Ngày 7/6/1948, Xuân ký sắc lệnh hủy bỏ pháp qui tạm thời này. Một tuần sau, ngày 14/6, Xuân ký Sắc lệnh liên quan đến các tổ chức công quyền tạm thời. Việt Nam chia làm ba [3] miền, thủ đô là Hà Nội. Quốc kỳ là cờ vàng (chiều dọc bằng 2/3 chiều dài), giữa có ba sọc đỏ (dày bằng 1/15 chiều dọc của lá cờ và cũng cách nhau chừng ấy). Quốc ca: Thanh niên hành khúc. Theo Nguyễn Văn Tâm, Tâm là tác giả lá cờ vàng ba [3] sọc đỏ và chọn bài hát của Lưu Hữu Phước làm quốc ca. Theo Nguyễn Khánh, lá cờ vàng ba sọc đỏ là biến thể của lá cờ nền vàng ba sọc xanh của Cộng Hòa Nam Kỳ.
96. Nguyên bản tiếng Pháp: “La France reconnait solennement l’indépendance du Vietnam auquel il appartient de réaliser librement son unité. De son côté, le Vietnam proclame son adhésion à l’Union Francaise en qualité d’Etat associé à la France. L’indépendence du Vietnam n’a d’autres limites que celles que lui impose son appartenance à l’Union Francaise.” CBVN, I:2 [18/6/48]:18; CAOM (Aix), GGI, Amiraux, 50062. Ngoài ra, 2/Việt Nam bảo đảm tôn trọng những quyền lợi của công dân Pháp, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, và dành ưu tiên cho các cố vấn và chuyên viên kỹ thuật Pháp trong việc tổ chức nội bộ cùng kinh tế; 3/ sau khi thiết lập một chính phủ lâm thời, các đại diện Việt Nam và Pháp sẽ ký những thỏa ước về văn hoá, chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và kỹ thuật.
97. FRUS, 1948, VI:25. Ngày 6/6/1948, tại Hà Nội, Báo L’Entente, cùng hầu hết các báo chí loan tin về “Hiệp ước” (Accords) Hạ Long. Theo các báo này, Bảo Ðại đã ký hiệp ước với Bollaert, dưới sự chúng kiến của Nguyễn Văn Xuân. Theo Phó Lãnh sự Mỹ Edwin C. Rendall tại Hà Nội, cả ba người cùng ký, và Bảo Ðại dùng thêm hai chữ “S.M.” (Sa Majesté) trước tên mình; FRUS, 1948, VI:24. Hôm sau, 7/6, Hồ phản đối việc “bọn bù nhìn” (fantoche) ký kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Ngày 9/6/1948, Tổng Lãnh sự Abbott gặp Xuân và Hữu. Theo Xuân cần đạt hoà ước gấp, nếu muốn có cơ hội thành công. Việc thương thuyết sẽ tiếp tục ở cả Pháp và Việt Nam, do “Siêu Ðại sứ” Bảo Ðại thực hiện. Có thể Bảo Ðại sẽ hồi hương, nếu đó là kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý. (Tướng Pierre Boyer de Latour du Moulin, Tư lệnh Quân Pháp ở miền Nam thì cho rằng Bảo Ðại sẽ hồi hương trong một thời gian ngắn). Xuân không mấy tin tưởng vào việc chiêu hồi những người Quốc Gia trong hàng ngũ Việt Minh. Việt Minh đang áp dụng những thủ đoạn hung bạo–kể cả chôn sống–để ngăn chặn phong trào về tề; FRUS, 1948, VI:25-6). Ngày 9/6/1948 này, Ferdinand Baeyens, Giám đốc Á Châu vụ Pháp, thông báo Ðại sứ Bruce: Chính phủ Pháp rất bi quan về chính phủ Xuân. Bảo Ðại không ưa Xuân, chỉ giữ Xuân cho tới lúc “tường đã khô.” Bộ Ngoại Giao và Hải ngoại Pháp đều muốn thay Xuân, chẳng hạn như Diệm; FRUS, 1948, VII:24-25. Sau khi Joseph Laniel (6/1953-6/1954) đồng ý trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam ngày 3/7/1953,(134) họ Ngô ráo riết vận động lên cầm quyền.
98. Nghị định ngày 23/8/1948; CBVN, I:8 (4/9/1948):102. Bảy Viễn đặt bản doanh ở số 31, rue de Canton, Chợ Lớn
99. Ngày 3/7/1948, Ngoại trưởng Marshall điện cho Woodruff Wallner, Phụ tá Vụ trưởng Tây Âu, đang có mặt tại Paris:
1. Mặc dù vấn đề thống nhất ba kỳ của Việt Nam cần Quốc Hội Pháp phê chuẩn, nhưng Thủ tướng Robert Schumann cần công khai yểm trợ chữ ký của Bollaert;
2. Liệu chính phủ Schumann có gặp trở ngại khi đưa ra Quốc Hội biểu quyết việc thống nhất ba kỳ?
3. Mặc dù Schumann không dám đưa vấn đề ra trước Quốc Hội, nhưng có lẽ cần những lãnh đạo cao cấp nhất–Schumann, Bidault, và Coste-Floret–cùng ra sức;
4. Vấn đề sát nhập Nam Kỳ chỉ khó khăn trong hiện tại? Nếu thế, lúc nào thuận lợi?
5. Cần có những nhượng bộ nào để chứng tỏ thành khẩn khởi đầu?
Cuộc chiến ở Việt Nam đã kéo dài gần ba năm, và Pháp khó đạt một chiến thắng quân sự. Cuộc chiến này làm suy yếu nền kinh tế của Pháp và liên hệ của phương Tây với các sắc dân phương Ðông. Quan điểm của Bộ Ngoại Giao Mỹ là sự tiếp tục cuộc biểu diễn những hình nộm mà Pháp đã sản xuất suốt hai năm qua chỉ giúp HCM mạnh hơn, và bảo đảm việc xuất hiện một quốc gia do Cộng Sản thống trị, ngả theo phe Liên Sô. Ðể tránh điều này, điều quan trọng hơn cả là phải cho cái gọi là chính phủ trung ương hiện nay, hoặc bất cứ một chính phủ chống Cộng nào, một cơ hội thành công bằng những nhân nhượng có thể quyến rũ đại đa số những thành phần không Cộng Sản; FRUS, 1948, VI:30.
Ngày 9/7/1948, Bollaert nói đang đòi Quốc Hội phải phê chuẩn Hiệp ước Hạ Long, như một điều kiện để trở lại Ðông Dương. Bollaert đã yêu cầu chính phủ Schumann và Quốc Hội phải có hành động trước cuối tháng 7/1948, và hy vọng sẽ thuyết phục được Schumann đệ trình trước Quốc Hội toàn bộ hồ sơ. Tại Quốc Hội, Bollaert cũng tin rằng sẽ thắng lợi với một đa số vừa phải, để phê chuẩn thỏa ước Hạ-long cũng như chính sách của Bollaert tại Ðông Dương. Quyết nghị của Quốc Hội cũng đương nhiên hủy bỏ Hiệp ước 1862 [đúng hơn, hiệp ước 1874], theo đó Nam Kỳ được cắt nhượng cho Pháp. Tuy nhiên, việc sát nhập Nam Kỳ trở lại với lãnh thổ Việt Nam cần một cuộc trưng cầu dân ý; nhưng trong hoàn cảnh hiện tại không dễ tổ chức trưng cầu dân ý. Về những thỏa ước kỹ thuật, Bollaert cho rằng có thể bắt đầu thảo luận từ mùa Thu 1948, không cần sự chấp thuận của Quốc Hội. Thứ Hai, 19/7/1948: Bollaert khẳng định QH phải phê chuẩn Hiệp ước Hạ Long. Không đồng ý với đề nghị “chấp nhận ngầm” mà Coste-Floret đưa ra ngày 17/7/1948. Bollaert cũng lo ngại Bảo Ðại mải mê vui hưởng lạc thú ở Âu Châu, không muốn trở lại Ðông Dương, và yêu cầu Mỹ can thiệp; FRUS, 1948, VI:34-5. (Thứ Hai, 19/7/1948: Thủ tướng Schumann xin từ chức. Thứ Tư, 21/7/1948: André Marie được cử làm Thủ Tướng. Thứ Hai, 26/7/1948: Chính phủ Marie nhiệm chức. Schumann, cựu Thủ tướng, nắm Bộ Ngoại giao. 5/8/1948: Ðại sứ Caffery báo cáo: Bollaert không chịu trở lại Ðông Dương nếu Quốc Hội không thảo luận về vấn đề thỏa ước Hạ-long. 19/8/1948: Thủ tướng Marie tuyên bố ủng hộ Tuyên Ngôn Chung Hạ Long. Tuy nhiên, chưa có một quyết định chính thức nào của Quốc Hội Pháp. Bollaert muốn được phê chuẩn chính thức như một hiệp ước, và trở thành Hiến chương của nền bang giao Pháp-Việt (Charte des rapports franco-vietnamiens).
100. FRUS, 1948, VI:25-6; Lê Văn Hiến, Nhật ký một bộ trưởng, 2 tập (Ðà Nẵng: NXB Ðà Nẵng, 2004), II:60 [24-27/4/1949: Tuyên Quang: Tiếp tục Hội nghị HCKC toàn quốc. HCM kết tội Bảo Ðại là phản quốc; giao cho tòa án quân sự xét xử. 27/4/1949, HCM tuyên bố xử tử Bảo Ðại.]
101. FRUS, 1948, VII:42. Ngày 9/7/1948, Bollaert ăn trưa với Bảo Ðại. Khi Bollaert hỏi về việc hồi hương, Bảo Ðại nói là còn tùy hoàn cảnh. Bảo Ðại muốn đạt được càng nhiều nhượng bộ của Pháp càng tốt; FRUS, 1948, VI:32-33.
102. FRUS, 1948, VI:32-3. Ngày 14/7, Marshall chấp thuận đề nghị của Wallner, chỉ thị cho Ðại sứ Caffery tiếp xúc chính phủ Truman. Ngày 15/7, Caffery thông báo đã hoàn tất nhiệm vụ, nhưng nhân viên Bộ Ngoại Giao Pháp cho biết vấn đề cực kỳ khó khăn; Ibid., tr. 33-34. Năm ngày sau, 19/7, chính phủ Schuman bị đổ.
103. CAOM (Aix), INF, c. 154/1354.
104. Ngày Chủ Nhật, 17/1/1949, Lovett, XLTV Ngoại trưởng Mỹ, gửi công điện cho Ðại sứ tại Pháp: Mỹ muốn thấy Pháp đi đến thỏa thuận với Bảo Ðại hay bất cứ một “nhóm quốc gia chân chính” nào khác có khả năng lôi kéo đa số dân chúng, và không thể cam kết yểm trợ một chính phủ không vận động được dân chúng ủng hộ, sẽ biến thành một chính phủ bù nhìn, tách biệt khỏi dân chúng, và sự hiện hữu chỉ dựa vào binh lực Pháp. Caffery sẽ được thông báo về hành động phối hợp Mỹ, Bri-tên và Pháp để chống Cộng Sản sau khi nhận được báo cáo của Bri-tên; FRUS, 1949, VII:5. Ngày Thứ Tư, 20/1/1949, Ðại sứ Caffery điện báo là Pignon cho biết đã đạt được các điểm căn bản. Hai bên đồng ý rằng cần Quốc Hội Pháp phê chuẩn việc thống nhất Nam Kỳ trước khi chính thức công bố các điểm thỏa thuận để bảo đảm rằng dân chúng sẽ chấp nhận giải pháp Bảo Ðại. Vấn đề chủ quyền gồm hai [2] lãnh vực: Ngoại giao và nội bộ. Về nội bộ, việc bàn giao cơ cấu hành chính có thể thực hiện bất cứ lúc nào, nhưng về tư pháp, cần sắc luật của Quốc Hội. Chính phủ Pháp đang nghiên cứu thời điểm cho Bảo Ðại hồi hương, và chuẩn bị hồ sơ chuyển qua Quốc Hội. Quốc Hội sẽ bàn thảo về việc này trước ngày bầu cử hàng tổng (canton) ngày 15/3/1949. Nếu chính phủ thay đổi lập trường, hay Quốc Hội không phê chuẩn, Pignon sẽ từ chức; FRUS, 1949, VII:6.
105. FRUS, 1949, VII:7.
106. FRUS, 1949, VII:10. Thư ngày 8/3/1949 của Auriol gửi Bảo Ðại gồm 7 mục chính: Việt Nam thống nhất (Unité du Vietnam); Vấn đề ngoại giao (Question diplomatique); Vấn đề quân sự (Question militaire): Việt Nam sẽ có một quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ đế quốc (la défense de l’Empire). Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ (appuyé par les forces de l’Union francaise). Quân đội VN cũng tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp; Vấn đề chủ quyền trong nước (Souveraineté interne); Vấn đề tư pháp; Vấn đề văn hóa; Vấn đề kinh tế và tài chính (CP 290).
107. AAN, 1949:1545-6. Phụ bản các điều thỏa thuận chỉ công bố vào ngày 18/6/1949.
108. Nguyên văn: “La solution militaire n’est pas obtenue; Bao Dai ne jouit d’aucune autorité au Viet Nam. Le Viet Nam est derrière Ho Chi Minh. Il faut traiter en premier lieu avec Ho Chi Minh; AAN, 1949:1521.
109. AAN, 1949:1522-523.
110. AAN, 1949:1523, col 3.
111. AAN, 1949:1523, col 3.
112. CAOM (Aix), PA 19, Carton 4/68; AAN, 1949:1590, col1; FRUS, 1949, VII:11.
113. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H xxx.
114. FRUS, 1949, VII:35-36.
115. FRUS, 1949, VII:27,31.
116. FRUS, 1949, VII: 21-22, 38-45.
117. FRUS, 1949, VII:19-20.
118. FRUS, 1949, VII:24-25; Pentagon Papers, Gravel, I:63.
119. FRUS, 1949, VII:29-30.
120. Irving 1975:69. Ngày Thứ Hai, 6/3/1949, tình báo Pháp báo cáo: Việt Minh triệu tập một buổi họp các cấp chỉ huy quân sự cấp trung đoàn tại Ðồng-Tháp-Mười, hoạch định kế hoạch tấn công trả đũa việc Bảo Ðại hồi hương, tức vào dịp không trăng từ 22 tới 28 tháng 3 (CP 208). Thứ Tư, 8/3/1949, Việt Minh thành lập Ðặc khu Sài Gòn/ Chợ Lớn, gồm các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, và khu Ðông-thành cũ (?).Quyết định này do Nguyễn Bình, Lê Duẩn và Phạm Ngọc Thuần ký. Ban chỉ huy của Ðặc khu: Chủ tịch: Tô Ký, Phó Tư lệnh Khu 7; Phụ tá: Nguyễn Văn Công, Phó Chủ tịch, Ủy viên quân sự đặc khu Sài-gòn / Chợ-lớn; Bí thư: Ta Nhut Tu (?),Thanh tra chính trị và công an Ðông Nam Bộ; Chủ tịch UBHC Sài Gòn / Chợ Lớn; Chính ủy: Xung, Trưởng phòng chính trị Khu 7. Khu 7 cũ tiếp tục hiện hữu. Bộ Chỉ huy gồm có: Chỉ huy trưởng, Huỳnh Văn Nghệ; Phụ tá: Nguyễn Van Dung; Chính ủy: Nguyễn Văn Tri. (CP 208) Ngày 26/4/1950, nhân cuộc biểu tình chào mừng Bảo Ðại hồi hương tổ chức linh đình tại Hà Nội, Việt Minh ném một quả lựu đạn, khiến một em bé tử thương. Theo Lãnh sự Gibson, Pháp kiều bắt đầu bán các cơ sở kinh doanh, chuẩn bị hồi hương; FRUS, 1949, VII:21.
121. Thủ Tướng: “Ðức” Bảo Ðại, Quốc trưởng. Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Xuân. Tổng trưởng Ngoại Giao: Nguyễn Phan Long; Tư Pháp: Nguyễn Khắc Vệ; Quốc Gia Kinh tế và Kế hoạch: Trần Văn Văn. Bộ trưởng Phủ Thủ tướng kiêm Nội vụ: Vũ Ngọc Trản; BT Tài chánh: Dương Tấn Tài; BT Ngoại Giao: Lê Thăng; BT Quốc Phòng: Trần Quang Vinh; BT Thương Mại & Kỹ nghệ: Hoàng Cung; BT Canh Nông, Xã hội, Lao động: Phan Khắc Sửu; BT Công tác, Giao thông & Kiến thiết: Trần Văn Của; BT Quốc Gia Giáo dục: Phan Huy Quát; BT Thanh niên: Nguyễn Tôn Hoàn; BT Y tế: Nguyễn Hữu Phiếm; BT Thông tin: Trần Văn Tuyên. TTK Chính phủ: Ðặng Trinh Kỳ; CBVN, II:2 [13/8/1949]:14. Ngày 3/7/1949, Bảo Ðại ký sắc lệnh 4-CP, bổ nhiệm Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt; Phan Văn Giáo, Thủ hiến Trung Việt, và Trần Văn Hữu, Thủ hiến Nam Việt; CBVN, II:1 [6/8/1949]:6.
122. Ngày 24/3/1950, Luật tiết lộ với cơ quan tình báo Pháp (SEHAN) rằng Diệm không thân cận được với Bảo Ðại vì bản tính nhu nhược (faible) và thiếu cương quyết (indécis) của Bảo Ðại. Nếu lên nắm quyền, Diệm sẽ chống Cộng thẳng tay, mà muốn thế cần có sự tín nhiệm và yểm trợ tuyệt đối của Bảo Ðại. Ðiều này chắc không có. Ngoài ra, lập trường chính trị của Diệm cũng khác biệt. Thứ nhất Diệm muốn biết chắc thể chế độ chính trị của Việt Nam sẽ được tương tự như India trong Liên Hiệp Bri-tên. Nhưng sự bảo đảm chắc chắn này không được chứng tỏ qua thực tế, như việc bàn giao chủ quyền, hay qua sự tiến hoá của các khuynh hướng chính trị tại Pháp. Luật thêm rằng tại miền Bắc, Diệm chẳng có bao nhiêu người ủng hộ, ngoại trừ phe Ki-tô chịu ảnh hưởng Phát Diệm. Tại Hà-nội, theo Luật, có thể có Trần Văn Lai, Trần Trung Dung và Nguyễn Xuân Chữ. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H xxx [1039].
123. Một trong những biên khảo xuất sắc về liên hệ giữa QTCS với Ðảng CSÐD do học giả Anatoli Sokolov thực hiện. Ấn bản Việt ngữ của tác phẩm này, theo Sokolov, không được chính xác. Một số phụ chú đã bị cắt bỏ. Tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years, 1924-1941 (2003) của Quinn-Judge và tuyển tập Lê Hồng Phong (Hà Nội: 2002) cũng chứa đựng nhiều tài liệu Nga giá trị. Xem thêm những công bố của học giả Việt như Ðỗ Quang Hưng, Trần Văn Hưng, v.v. trong Tạp chí Lịch Sử Ðảng (1999-2000).
124. Hầu hết các chi tiết trên đã được công bố từ thập niên 1950. Tuy nhiên, ngày tháng và chi tiết mới được tài liệu Trung Cộng xác tín từ thập niên 1990. Xem Vũ Ngự Chiêu, “Chuyến Ði Cầu Viện Bí Mật Năm 1950 Của Hồ;” Hợp Lưu Magazine (Fountain Valley, CA), No. 109, Tháng 3-4/2010, tr. [5-25]. Xem thêm Qiang Zhai, China & The Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: Univ. of North Carolina Press, 2000), tr. 15-20; Võ Nguyên Giáp, Ðường tới Ðiện Biên Phủ (Hà Nội: NXBQÐND, 2001), tr. 10-16.
125. Ðại tướng Giáp, trong tập hồi ký Ðiện Biên Phủ (1994) và trong các ấn bản mới của hồi ký (2001) đã ghi nhận sự thực lịch sử cay đắng này.
126. Ngày 21/6/1954, Churchill viết thư cho Eisenhower, đề nghị thành lập một chiến tuyến chống Cộng trong vùng Thái Bình Dương [“establishing a firm front against Communism in the Pacific sphere]. Churchill cũng tán thành việc thành lập một Liên Phòng Ðông Nam Á, giống như Liên Phòng Bắc Ðại Tây Dương tại vùng Ðại Tây Dương và Âu châu [We should certainly have a SEATO, corresponding to NATO in the Atlantic and European sphere]. Churchill nhấn mạnh: “In no foreseeable circumstances, except possibly a local rescue, could British troops be used in Indochina, and if we were asked our opinion we should advise against United States local intervention except for rescue;” FRUS, 1952-1954, XIII:1728-729.
127. Sau đó, có tin đồn Cường Ðể về Bangkok, được một cán bộ CS tên Quy hết sức chiều đãi. Tuy nhiên, hiện chưa có tài liệu nào minh chứng việc này.
128. FRUS, 1950, VI:884-886. Tối 25/10/1950, Acheson điện cho Heath về việc thành lập QÐGVN. Theo Acheson, viên chức Pháp nghĩ rằng có thể đưa các lực lượng giáo phái vào, tổng số chừng 75,000 người. Thục, Chi và Diệm cũng muốn biến lực lượng Ki-tô Giáo thành một phần quân đội; Ibid., VI:909-10. Ý kiến của Thục, thực ra, chẳng có gì mới lạ. Từ năm 1947, quan tướng Pháp đã khéo léo sử dụng các sứ quân tôn giáo, và ngay cả băng đảng, để ngăn chặn Việt Minh. Các Ðơn Vị Lưu Ðộng Bảo Vệ Ki-tô Giáo của Leroy [UMDC] hoạt động không xa giáo phận của Thục. Tháng 7/1950, Bộ Chỉ Huy UMDC rời về tỉnh lỵ Bến Tre. Trung tá Leroy được làm Tỉnh trưởng tỉnh này [cho tới ngày 25/11/1952; SHAT (Vincennes), 10H xxx.
129. Ngày Thứ Tư, 24/1/1951, XLTV Ðại sứ Mỹ Gullion báo cáo là Bảo Ðại đã nhận được thư của Diệm. Nhưng Bảo Ðại không ưa Diệm vì Diệm từng nhiều lần từ chối hợp tác. Phần anh em Diệm và Thục chủ trương giải pháp lập Bảo Long lên ngôi, với Nam Phương và Cường Ðể làm Nhiếp Chính; FRUS, 1951, VI:359-61.
130. FRUS, 1951, VI:348.
131. Ngày 21/6/1954, Diệm nói với Ðại sứ Heath: “I am best known figure in Vietnam after Ho Chi Minh;” FRUS, 1952-1954, XIII:1727. Khi đại ngôn điều này, Diệm quên mất Bảo Ðại, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tường Tam, v.v. Phê bình về lời hợm hĩnh của Diệm, một viên chức ngoại giao Mỹ nhận xét Diệm là “nhân vật thứ hai, cách rất xa, Hồ Chí Minh.”
132. FRUS, 1952-1954, I:134-41.
133. FRUS, 1952-1954, I:522-523.
134. Thương thuyết bắt đầu từ ngày 8/3/1954. Ngày 4/6/1954 [28/4/1954], Laniel và Nguyễn Trung Vinh ký thoả hiệp “kiện toàn [perfection] nền độc lập của Việt Nam.” Hiệp ước này chỉ được “paraphé” [ký tắt]; SHAT (Vinvennes), xxx [1K 233, d. 40].
135. Xem chi tiết về tổ chức này trong Chính Ðạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000) & Tập II-B: Các tổ chức chính trị (Houston: Văn Hóa, đang in). Xem thêm Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi, I:333-342. Nên lưu ý, trong Chính Cương của Cần Lao, không hề đề cập đến thuyết “sáng tạo” hay “tạo hóa” mà đôi lần đề cập đến thuyết “tiến hóa.” Ðiều này chứng tỏ Nhu có thể là một tín đồ Ki-tô, nhưng “chống Giáo sĩ” [anti-clerical] như Nhu thú nhận với Phái đoàn điều tra LHQ vào ngày 28/10/1963; UNGA, Agenda Item 77, Doc. A/5630, 7/12/1963.

© 2004, 2012 Chieu N. Vu. All Rights Reserved.


Nguồn: Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm (1897-1963): Thời kỳ chưa nắm quyền, 1897-1954. Chính Đạo. Hợp Lưu, Thứ Năm, 7 Tháng Mười Một-2013.