Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (p4)

Nguyễn Văn Lục

Bài báo trên tờ Trường An, xuất bản tại Huế trong dịp này càng tường thuật đầy đủ bao nhiêu, càng đánh bóng Đức Hòang Thượng bao nhiêu càng cho thấy nó dơ dáy, thối tha bấy nhiêu!

Tìm hiểu con người Bảo Đại qua cuốn Hồi ký của ông

(Tiếp theo p1, p2, p3)

Ngai vàng nhà Nguyễn sụp đổ: chấm dứt 400 năm triều Nguyễn

Vua Bảo Đại cũng như Hoàng hậu Nam Phương là những người thấm nhuần văn hóa Pháp nên không thể nào không so sánh cái hoàn cảnh bấp bênh của họ so với số phận cay nghiệt dành cho vua Louis XVI trong cuộc cách mạng Pháp? Bài học Varennes còn đó hẳn là phải nhắc nhở Bảo Đại điều gì? Thật vậy, vào ngày 20-25 tháng sáu 1791, giai đoạn sôi bỏng của cách mạng Pháp, vua Louis và cả hoàng gia đã quyết định tìm cách trốn ra ngoại quốc qua ngã Varennes. Sự tính toán hẳn là đã hết sức cẩn trọng và bí mật. Nhưng rồi cả hoàng gia đã bị bắt tại nơi đây và sau đó bị lên máy chém. Chỉ nghĩ lại thôi cũng đủ rùng mình cho các trò chơi chính trị.

Louis XVI nghỉ ở Vanrennes (1791). Nguồn: http://pages.uoregon.edu/

Bảo đại muốn tránh cái thảm cảnh đó nên quyết định không bỏ trốn tuy cũng có cơ hội. Theo Nguyễn Kỳ Nam ngày 12 tháng Tám, 1945 một viên đại tướng Nhật vào nội thành xin gặp Bộ trưởng bộ Tư Pháp Trịnh Đình Thảo nói là có việc khẩn và mật. Lúc đó có mặt nhà báo Nguyễn Kỳ Nam vì ông đang là Đổng lý văn phòng bộ Tư pháp trong nội các Trần Trọng Kim ở Huế.

“Viên đại tướng Nhật nói: “Tôi từ Sài Gòn vào đây để nhờ ông Bộ Trưởng vào yết kiến Hoàng đế đặng hỏi Ngài: có muốn trao cho quân đội Nhật gìn giữ trật tự trên toàn cõi lãnh thổ V.N. không? Nếu Hoàng đế muốn dẹp những đảng phái chính trị muốn lăm le đoạt chính quyền, thời quân đội Nhật sẵn sàng dẹp tất cả. Tướng Nhật nói thêm, Bộ tham mưu của chúng tôi phúc trình về nói rằng: Việt Minh đang huy động lực lượng trong bóng tối chờ ngày cướp chính quyền. Nghe trình bày xong, Bảo Đại từ chối nói không, vì không muốn đổ máu nữa.”

(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 190)

Chính vì thế, Bảo Đại quyết định ở lại Huế, chấp nhận đối đầu với một tình thế khó khăn và nguy hiểm. Cuối cùng ông hy vọng dân sẽ không bỏ rơi ông. Đây có phải là một hy vọng ảo tưởng không? Người ta sẽ có câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn lúc ông trịnh trọng tuyên bố thoái vị.

Cho nên, quyết định ở lại là một quyết định khôn ngoan. Có tính toán mà có thể chỉ mình Bảo Đại có thể làm được. Tôi vẫn nghĩ cần đánh giá thực chất con người Bảo Đại ở những lúc tình thế cực đoan như lúc này!

Một tình thế mà dòng cuốn của chính trị cứ thế như một dòng cuồng lũ khó bề giữ nổi. Nó tiếp nối nhau mỗi lúc mỗi căng thảng mà không gì ngăn cản được.

Daniel đã nhận thức ra điều ấy, ông viết:

“Tình thế đã không thể nào đảo ngược. Mặc dầu trước đó có tin một nhóm đột kích lấy tên là “Lambda” gồm 6 người do đại úy Pháp Castelnat đã nhảy dù cách Huế 28 kilô mét nhằm tìm cách ngăn chặn Bảo Đại đừng thoái vị. Họ đã bị Việt Minh bắt ngay khi chiếc dù của họ chạm mặt đất. Cho dù họ có không bị bắt thì tình thế xem ra cũng đã quá trễ. Họ không ngăn cản được việc từ chức của Bảo Đại!”

(Daniel Grandclément, ibid., trang 161)

Bây giờ ngồi nhìn lại thời cuộc lúc đó nhiều người có thể chê trách Bảo Đại là hèn nhát. Nhưng người ngoài cuộc đâu biết rằng ngay sáng ngày 23, Bảo Đại đã nhận được một tối hậu thư của Việt Minh đòi phải từ chức trong vòng 12 tiếng đồng hồ, nếu không lực lượng cách mạng sẽ không bảo đảm tính mạng của hoàng gia. Bức điện tín ký tên rất vu vơ, rất không rõ ràng, chẳng biết cái ủy ban đó là ai? “Un comité de patriotes représentant tous les partis et toutes les couches de la population” (một ủy ban của những người ái quốc đại diện cho tất cả các đảng phái và các tầng lớp dân chúng.)

Hôm sau là ngày 23, Bảo Đại cho hay cung điện nhà vua như trống rỗng, vắng mặt Trần Trọng Kim cũng như các vị bộ trưởng, ngoài mấy người lính canh và người anh em họ Vĩnh Cẩn. Cũng theo Bảo Đại, trước đó ông có liên lạc với Tổng thống Truman, thống chế Tưởng Giới Thạch, vua nước Anh, tướng De Gaulle, nhưng đã không được ai trả lời.

Việt Minh hẳn đã tìm đủ cách để cô lập Bảo Đại bao trùm một sự sợ hãi vu vơ, đe dọa trực tiếp, gián tiếp buộc Bảo Đại phải đi đến chỗ từ chức. Mà mạng sống của chính mình và sự an toàn của hoàng gia đủ để Bảo Đại phải từ chức!

Chẳng hạn, đây là một bằng cớ, một thằng nhãi vốn chỉ là một anh kèm trẻ, giáp mặt hoàng thượng vốn đã khó, có thể trở thành một cố vấn!

“Nhưng vào một buổi chiếu, Bảo Đại cho biết có một thanh niên mà ông mới tuyển vào dạy học cho Bảo Long đã vào gặp và năn nỉ Bảo Đại phải rời Hoàng Cung đi trú ẩn ở chỗ lăng tẩm các vua nhà Nguyễn.”

(S.M. Bao Daï, ibid., trang 117)

Bảo Đại không biết đây là một lời khuyên chân thành hay là một sự xúi dục nào khác. Và cho đến sau này, bảo Đại cũng không bao giờ biết rõ câu chuyện. Chỉ rất tiếc, Bảo Đại không cho biết tên người thanh niên này là ai?

Và đến khuya, lại thêm viên giám đốc bưu điện đem vào trình một công điện vào trình đánh đi từ Hà Nội.

“Thể theo ý nguyện của toàn dân Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập quốc gia, chúng tôi kính cẩn xin nhà vua làm một nghĩa cử lịch sử bằng cách từ nhiệm. Công điện do đại diện những người yêu nước đại diện cho tất cả các đảng phái và mọi tầng lớp đân chúng.”

(S.M. Bao Daï, ibid., trang 118)

Nhưng ngay từ đầu bài viết này, tôi đã đánh giá Bảo Đại là người ham sống, sợ chết và bằng bất cứ giá nào, ông cũng chọn cho mình một con đường sống. Chọn sự hợp tác với Pháp, rồi bỏ rơi Pháp, chọn Nhật rồi sau chọn Việt Minh, và lại quay trở lại với Pháp — hưởng trọn vẹn mọi bổng lộc trong vai trò Vua và trong vai trò Quốc Trưởng.

Nếu nói ai là người thúc dục Bảo Đại thoái vị thì người thứ nhất có thể là Huỳnh Thúc Kháng. Bên cạnh đó là Phạm Khắc Hòe. Hòe cũng đưa ra cái gương của Louis XVI và gián tiếp dọa Bảo Đại là đừng để nước đến chân mới nhảy.

Chẳng biết Ủy ban lãnh đạo là ai ở Hà Nội để phúc đáp công điện. Bảo Đại đành gửi cho “Comité des Patriotes” (Ủy Ban những người yêu nước) lá thư phúc đáp như sau:

“Phúc đáp lời kêu gọi của quý ông, tôi sẵn sàng từ nhiệm. Trong cái giờ lịch sử quyết định của dân tộc, đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả cho sự đoàn kết được thực hiện và tôi mong mỏi các vị lãnh đạo ủy ban này đến Huế trong thời gian sớm nhất để chuyển giao quyền hành.”

(S.M. Bao Daï, ibid., trang 119)

Ngày 25-8, đại diện của Hồ Chí Minh là Trần Huy Liệu, trưởng phái đoàn cùng với Cù Huy Cận đến gặp Bảo Đại.

Trần Huy Liệu. Nguồn: http://daidoanket.vn/

Trần Huy Liệu vốn là một nhà báo, bút hiệu Nam-Kiều, viết cho tờ Đông Pháp, ở trong Nam — vóc dáng tầm thường, mắc lác. Trần Huy Liệu nhân danh lãnh tụ Hồ Chí Minh trân trọng nhận chiếu thoái vị từ tay Bảo Đại và yêu cầu Bảo Đại đọc trước công chúng Huế.

Nguyên văn chiếu thoái vị của vua Bảo Đại, buổi chiều, ngày 25 tháng tám, 1945:

“Chiếu rằng:

Hạnh-Phúc của dân Việt-Nam

Độc-Lập của nước Việt-Nam

Muốn đạt mục-đích ấy, Trẫm đã tuyên bồ sẵn-sàng hy-sinh hết thảy, và muốn rằng sự hy-sinh của Trẫm phải lợi ích cho Tổ-quốc.

Xét tới sự đoàn-kết toàn-thể quốc-dân trong lúc này là điều tối cần thiết, Trẫm đã tuyên-bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi trong giờ nghiêm-trọng của Lịch-Sử Quốc-Gia: Đoàn-Kết là sống, Chia rẽ là chết.

Nay thấy nhiệt-vọng dân-chủ của quốc-dân Bắc-Bộ lên cao, nếu Trẫm cứ yên vị đợi một Quốc-Hội thì e rằng khó tránh được sự Nam-Bắc tương tàn, đã thống khổ cho quốc-dân lại thuận-lợi cho người ngoài lợi dụng.

Mặc dầu Trẫm đau đớn nghĩ đến công lao Liệt-Thánh đã vào sinh ra tử đã gần 400 năm để mở mang non-sông đất nước từ Thuận-Hoá tới Hà-Tiên. Mặc dầu Trẫm buồn rầu nghĩ tới 20 năm qua Trẫm ở trong cái cảnh không thể thi-hành được việc gì đáng kể cho nước nhà như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả-quyết thoái-vị nhường quyền điều-khiển quốc-dân cho Chính-phủ Dân-Chủ Cộng-Hoà.

Sau khi thoái-vị, Trẫm chỉ mong ước có 3 điều:

– Đối với Tôn-Miếu và Lăng-Tẩm của Liệt-Thánh Chính-phủ mới nên giữ-gìn cho có trọng thể.

– Đối với các đảng-phái đã từng tranh-đấu cho nền Độc-Lập Quốc-Gia nhưng không đi sát phong-trào dân-chúng, Trẫm mong Chính-phủ mới ôn-hoà mật-thiết xử-đối để những phần-tử ấy cũng có thể góp sức kiến-thiết quốc-gia và để tỏ ra rằng chính thể mới xây đắp trên sự đoàn-kết của toàn-thể quốc-dân.

– Trẫm mong tất cả các đảng phái, các giai-từng xã-hội, các người trong Hoàng Tộc nên hợp nhất ủng-hộ triệt-để Chính-phủ Dân-chủ để giữ vững nền Độc-Lập nước nhà.

Riêng Trẫm trong 20 năm Ngai vàng Bệ-ngọc, đã biết bao lần ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước Độc-Lập, quyết không để ai lợi-dụng danh nghĩa của Trẫm hay danh nghĩa của Hoàng-Gia mà lung-lạc quốc-dân nữa.

Việt-Nam Độc-Lập muôn năm!

Dân-Chủ Cộng-Hoà muôn năm!

Khâm Thử: BẢO ĐẠI.”

(Nghiêm Kế Tố, Việt Nam Máu Lửa, Nhà xuất bản Mai Lĩnh 1954, trang 38, 39, 40.)

Đây là bài diễn văn đọc trước vài ngàn dân chúng trước cửa Ngọ Môn vào buổi chiều do đề nghị của Trần Huy Liệu. Bài chiếu thoái vị này do Hoàng Thân Vĩnh Cẩn viết; người khác cho là Trần Huy Liệu soạn sẵn, Bảo Đại chỉ có việc đọc. Trong lúc đọc, do xúc động cũng có, dù có micro, do đọc tiếng Việt không sõi, người nghe chữ được, chữ không. Chỉ biết đây là nội dung thoái vị.

Vua Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ ở Ngọ Môn, Huế vào chiều 30 tháng 8, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận. Nguồn: “バオ・ダイ帝 “ (Hoàng đế Bảo Đại) http://vietkon.blog73.fc2.com/blog-entry-454.html.

Khi đọc xong chiếu thoái vị, Bảo Đại quan sát những người đứng gần cho thấy họ đều ngạc nhiên đến sửng sốt. Cả đàn ông đàn bà như vừa nghe tiếng sét đánh, sững sờ.

Trong một bầu khí như câm lặng, Bảo Đại vội vàng trao ấn tín cho Trần Huy Liệu và dân chúng tản ra về trong sự im lặng! Theo Bảo Đại khi đọc xong chiếu thoái vị thì ở dưới im lặng như tờ. Dân chúng cảm thấy kinh hoàng khi nghe chiếu thoái vị.

Cho đến bây giờ, tôi vẫn mong được đọc một nhân chứng sống đã có mặt trong buổi lễ thoái vị này. (Trách nhiệm treo và hạ cờ là do hai thanh niên Huế là Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương. Sau này Việt trở thành Trung Đoàn Trưởng và Lương là cục phó cục quân báo.)

Bảo Đại lập tức rời địa điểm tập họp bên cạnh có Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đi kèm, dân chúng cũng rút lui một cách thầm lặng. Trước khi họ chia tay, Trần Huy Liệu nhân danh Hồ Chí Minh mời Bảo Đại ra Hà Nội. Bảo Đại nhận lời.

Nhận xét của tác giả Daniel Grandclément có phần thiên lệch với giọng điệu chế diễu:

“Và lúc đó đám đông đã phá lên cười khi Huy Cận đứng trên bục, micro cầm trên tay, dơ lưỡi thanh kiếm và nói: “Huy Cận nói to: thanh kiếm đã rỉ rồi, biểu tượng của quyền hành của nhà vua đã mục rỉ rồi.”

(Daniel Grandclément, ibid., trang 171)

Tôi vẫn tin rằng, dù thế nào đi nữa, trong hoàn cảnh này, người dân Huế không thể cười nhạo Bảo Đại. Và có khó gì đối với Việt Minh, họ dàn cảnh một bọn người cầm cờ quạt, biểu ngữ và hô khẩu hiệu.

Ngày hôm sau, bà Từ Cung rời cung điện. Bà Nam Phương cũng rời khỏi cung 24 tiếng đồng hồ sau. Bảo Đại còn lại trong cung và đây là tâm trạng của ông:

“Tôi cảm thấy một sự an bình to lớn trong tôi., một sự bình tĩnh lớn và tôi không thấy có gì để hối tiếc. Tôi cảm thấy cần thiết phải viết như sau: Cuối cùng, tôi được tự do. Cảm thức này đến với ông một cách tự nhiên như thể ông vừa trút được một gánh nặng cho phép tôi cứu được xứ sở của tôi. Và hy vọng dân chúng xiết chặt hàng ngũ chung quanh một nhóm người mà cứ bề ngoài cho thấy, họ có đầy đủ khả năng hơn tôi để thực hiện được một nền độc lập.

Vì không có việc gì làm ở Huế, tôi chấp nhận lời mời của chủ tịch Hồ Chí Minh ra viếng thăm Hà Nội một chuyến. Nhiều người như hoàng hậu lo sợ cho tôi về chuyến đi này.”

(S.M. Bao Daï, ibid., trang 122)

Chuyện thoái vị là biến cố lớn như thế, nhưng tình hình Huế lại êm ả. Từ trong nhà ra đến đường phố, không có bất cứ một dấu hiệu gì bất thường. Nếu có gì đặc biệt là có những đoàn người đi biểu tình, cầm biểu ngữ hô vang nhiều khẩu hiệu cộng với tiếng loa, tiếng trống ếch của các thiếu nhi và những tiếng hát.

Nhưng trong bóng tối thì có những vụ bắt bớ, tuyên án tử hình và xử ngay lập tức.

Hồ Chí Minh cũng cử ông Lê Văn Hiếu, bộ trưởng Lao động đại diện chính quyền để kiểm tra tài sản của triều đình.

Ngoài những diễn biến công khai chính trị như vừa kể, đã có nhiều dấu hiệu bất bình thường ở Huế. Đã có nhiều cuộc ám sát hoặc thủ tiêu bí mật mà phần đông là những người quốc gia. Chỉ hơn một tuần sau, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi và con trai Ngô Đinh Huân, thông dịch viên cho Nhật bị xử tử ngày 6-9.

Phạm Quỳnh bị xử bắn là một trong những trường hợp điển hình nhất ở Huế. Giết Phạm Quỳnh là giết cả một biểu tượng Huế, một trí thức Tây học, một người cộng tác với Pháp, một tay chân thân tín của Bảo Đại, một quan đại thần của triều đình Huế.

Giết Phạm Quỳnh không bao giờ là sự vô tình hay giết nhầm, giết oan cả. Nó nằm trong chính sách đường lối của Việt Minh. Cha con Ngô Đình Khôi là một cái giá khác phải trả.

Ngoài Bắc, Phan Kế Toại đã kịp thời phải từ chức và ngày 19 tháng 8, 1945 Việt Minh đã chiếm các cơ sở quan trọng như Dinh Toàn Quyền, Bộ tư Pháp cũng như bộ tài chánh, các cơ sở trường đại học cũng như trung học.

Trong Nam, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, lãnh đạo “phong trào thanh niên tiền phong”, nhường chỗ cho Trần Văn Giàu, cũng là người của Việt Minh.

Riêng ngoài Bắc xảy ra nhiều vụ ám sát người của đảng phái hoặc thành phần được coi là Việt gian.

Khi người Tàu rút lui, Võ Nguyên Giáp đã mở chiến dịch rộng rãi tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia. Đây là một thanh toán cho sạch mọi thành phần không theo Việt Minh.

David Marr ghi lại:

“Bình Sơn, một cán bộ Việt Minh trong “những tiếng súng diệt kẻ phản bội” (Shots that eliminate traitors) đã ghi lại việc Bình Sơn được cấp trên cho trừ khử một người tên Truyền. Bình Sơn mang một đội quân gần 100 người đến bao vây nhà của Truyền và hai phụ tá. Sau khi đọc bản án, Bình Sơn hạ lệnh bắn cả ba người.”

(David G. Mar, Vietnam 1945, The quest for power, University of California Press, trang 236)

Những vụ án giết người như thế thường không có đủ bằng cớ, đôi khi ám sát công khai ngay giữa đường phố. Nó có tác dụng ngăn chận và đe doạ và khủng bố người khác. Như ở Hải Phòng, cán bộ Việt Minh đã bắn người ngay trên đường phố vì những người này bị coi là “collaborator” (hợp tác với thực dân) hay thành phần “reactionary” (phản động) trong khi nạn nhân đợi ở bến phà đi Kiến An. Nhạc sĩ Văn Cao cũng nằm trong danh sách các tên sát thủ ấy ở Hải Phòng.

Theo Hoàng văn Hoan, tác giả “Giọt nước trong biển cả”, thành phần đảng phái như Đại Việt quốc gia liên minh là mục tiêu chính của Việt Minh tại nhiều thành phố. Vẫn theo Hoàng Văn Hoan, tổng số Việt Minh lúc bấy giờ vào khoảng trên dưới 5000 đảng viên mà nhiều người còn nằm trong nhà tù của Pháp.

Ngay tại Huế, truyền đơn rải khắp nơi và nhiều nhóm tuần hành trong thành phố ngay sát với hoàng cung.

Diễn biến cuộc tịch thu tài sản của Bảo Đại

Một điều cần ghi nhận là trong Hồi ký Le Dragon d’Annam của Bảo Đại. Ông không đả động gì đến chuyện tịch thu tài sản cả. Cho đến nay, người ta vẫn không hiểu dụng ý của ông tại sao giữ im lặng, tại sao không viết gì?

Người đại diện chính thức đảm trách trông coi việc kiểm kê tài sản là ông Bộ trưởng Bộ Lao Động làm việc cùng với ông Phạm Khắc Hòe. Họ để ra một nguyên tắc kiểm kê rất đơn giản: Cái gì của cá nhân thì mang theo, còn lại những cái khác thuộc tài sản của triều đình. Họ yêu cầu trong nửa ngày mọi người phải dọn ra khỏi Hoàng cung.

Bà Nam Phương thì rất nguyên tắc chỉ mang theo quần áo đồ, đùng thường ngày, dự trù khoảng 40 chục thùng. Tất cả đều diễn ra một cách nhanh chóng trong nửa ngày. Cả một đoàn người như một đám di tản, tay sách, đội gánh đi ra khỏi cửa Ngọ Môn. Nhiều người mang nặng quá phải để đồ lại phía bên này cầu Clémenceau.

Riêng Bảo Đại, trước mắt chỉ còn lại hai xe hơi và máy bay đều là những thứ cồng kềnh không khuân đi được nên để lại biếu chính quyền mới.

Tôi có cảm tưởng Bảo Đại đi tay không ra khỏi Hoàng Thành, nơi mà ông đã ở đó khoảng 20 năm. Ông xem ra dửng dưng trước những thứ bị tịch thu và không thèm lưu tâm tới!

Theo Khai Bui, “Bao Dai. The king and a refugee”, Jun 17, 2012,

“Trong cuộc sống ở Pháp Bảo Đại là chủ nhân ông một chiết du thuyền lớn nhất đậu ở Monaco năm 1954, thời giá khoảng 150.000 bảng Anh (khoảng 30 triệu đô-la theo tiền ngày nay) và Lâu đài Thorenc, một bất động sản gồm 20 phòng ngủ, toạ lạc trên một khu vườn rộng gần 3 hecta, nhìn xuống Cote d’Azur, miền Nam nước Pháp; một nhà xe có thể đậu 10 chiếc, gồm một chiếc Lincoln mui trần mầu xanh, một chiếc limousine Citroen đen, vài chiếc xe đua hiệu Simca, và một chiếc Rolls Royce Bentley. Theo nhận định của Bruce Lockhart, lối sống đó đã không chinh phục được sự kính trọng, lòng tin, sự ngưỡng mộ của dân chúng, đa số là nông dân. Và chính Bảo Dại cũng đã than phiền thay cho dân, “Tôi thấy tận mắt, trong những chuyến đi khắp đất nước, đời sống khốn khổ của nông dân, không ai có thể nảo tôi rằng những hình ảnh đó tương ứng với lý tưởng của cuộc cách mạng Pháp, dân chủ”, nhưng sau đó Bảo Đại lại trở về Pháp sống đời thoải mái. Decoux, một Toàn quyền Pháp ở Việt Nam nói, “Bảo Đại có một số tính tốt khiến ông ấy là một người rất dễ chịu, và có những khả năng khác nhưng ông ít khi dùng đến. Ông ấy dành phần lớn thời gian của mình vào những thú vui vô ích, ít làm việc, và tỏ ra không quan tâm đến vấn đề công.”


Bảo Đại tại Lâu đài Thorenc (1955). Nguồn: British Pathé

Vua chúa nhà Nguyễn không chỉ có mình Bảo Đại giàu có. Tài liệu trong thư khố của Bộ Ngoại giao Pháp (Archives Du Ministère Des Affaires Étrangères, MAE) nhan đề “Mémoires et Documents, Asie” của Pháp tiết lộ cho thấy một cuộc tịch thâu tài sản vô tiền khoáng hậu sau khi vua Đồng Khánh băng hà (28/1/1988) do thực dân thực hiện và làm phúc trình lên Toàn quyền Pierre Paul Rheinart.

Đại Nam Thực Lục ghi, “Pierre Paul Rheinart giữ chức Tổng Trú sứ Trung – Bắc Kỳ từ 8/9/1888 đến tháng 5/1889 nên ở đây chép là Toàn quyền, nhưng chỉ là Toàn quyền Trung Bắc lưỡng kỳ.”

Tài liệu này cho thấy, ngay từ thời Minh Mạng, vua Minh Mạng nổi tiếng nhiều vợ nhất và còn nổi tiếng giàu có nhất đã tích lũy rất nhiều tiền của thâu tóm được của dân chúng rồi chôn dấu trong hậu cung để làm của riêng.

Tại sao những việc động trời như thế này không thấy sử sách Việt Nam đả động tới?

Khi Đồng Khánh lên ngôi, Đồng Khánh biết được các chỗ chôn dấu ấy của triều Minh Mạng nên đã cho tay chân đào lên. Nhưng chẳng may chình quyền thực dân biết được. Vì thế, ngay khi vua Đồng Khánh vừa băng hà, thực dân Pháp đã cho người đào lên lấy lại tất cả. Thực dân Pháp cướp toàn bộ tài sản triều đình Nguyễn từ thời Minh Mạng-Đồng Khánh để lại và sau đó, dùng tàu thủy chuyên chở tất cả về bên Tây.

“Đồng Khánh mất ngày 28-01-1889, vì những trận nôn mứa ra máu đen, sau một cơn hấp hối kéo dài 10 ngày theo lời ghi chú lại của một bác sĩ Pháp có bổn phận chăm sóc sức khỏe cho nhà vua. Quan tài Đồng Khánh còn quàng tại điện Cẩn Chánh thì toàn quyền Rheinart đã cho kiểm tra tài sản của Đồng Khánh trong thời gian ba năm, bốn tháng. Người có trách nhiệm kiểm kê đã làm phúc trình như sau:

“Tôi cùng ông Boulloche tham gia vào việc tìm kiếm và kê khai:

– Hai hòm nhỏ đựng 20.000 đồng bạc, gói thành từng cuộn 50 đồng một.

– Phía sau nhà hát, có hai chiếc hòm to tướng bọc sắt. Đồng Khánh đã cho đặt ở chỗ đó gần hai năm nay, mỗi hòm có thể đựng ngót 100.000 nén, tức 1.500.000 đồng bạc. Một hòm thì trống rỗng, Một hòm thì còn lại một.”

(Nguyễn Xuân Thọ. “Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thông thuộc địa Pháp tại Việt Nam (1858-1897), Paris 2002, trang 504. Trích dẫn theo “Mémoires et Documents” quyển 74, chưa xuất bản).

“Tại một khu vườn hoang, vườn Hoàng Phước, có chôn các bao bạc thời Minh Mạng được chôn dấu ở đây. Các nén bạc được đóng vào từng bao 150, 250 nén một. Tôi đã đi kết luận, một cách chắc chắn rằng, mỗi lỗ cất giấu 100.000 lượng, tính ra là một vạn nén, tức trị giá 150.000 đồng là một số tiền khổng lồ vào thời Minh Mạng. Đồng Khánh đã đào bới được bạc trị giá 450.000 của Minh Mạng.”

“Chưa kể những đồ vàng bạc, châu báu, hàng trăm ngàn đồ vật linh tinh, hầu hết không có giá trị gì như ly, cốc, bình lọ, bát đĩa pha lê, những đồ ngọc thạch khá nhiều, biểu hiện một gíá trị khá quan trọng, theo như các công chức ước tinh, có thể lên tới 500.000 quan.”

“Tôi sẽ không nói gì về tính phóng đãng của nhà vua; nhưng điều tôi lưu ý hơn hết là những mánh khóe bất hảo mà đâu đâu người ta cũng nhắc tới. Người ta kể những cuộc khai quật “rất phát tài” của Đồng Khánh thực hiện trong nội cung, những hòm bạc mang đi chôn dấu tại Quảng Trị và trong Thiên Thanh, (lăng vua cha).”

(Nguyễn Xuân Thọ, ibid., trang 504-505)

Tiền bạc của Đồng Khánh tích lũy được hay đào được của các tiên đế như Minh Mạng rồi tìm cách chôn dấu rồi để cho cho người Pháp tịch thâu được và chở tất cả bằng tàu thủy về Pháp. Nguyễn Xuân Thọ nhờ kho tài liệu lưu trữ của Pháp nhan đề “Mémoire et Documents Asie” thuộc Archives Du Ministère Des Affaires Étrangères (Thư khố Bộ Ngoại giao Pháp) đã cho người đọc biết được những gì xảy ra trong nội cung triều đình nhà Nguyễn thời vua Đồng Khánh.

Cuộc kiểm kê và tịch thu tài sản của Pháp thời Đồng Khánh cho thấy vua chúa đã tham ô, lấy của dân để làm giàu cho cá nhân mình.

Đứng về mặt xã hội và pháp lý, họ không xứng đáng là vua mà thuộc phường đạo tặc, bất nhân. Tại sao một kẻ thường dân ăn cắp một con chó, một con gà bị đánh què cẳng, có khi thiệt hại cả đến tính mạng trong khi hàng vua chúa cướp của dân lại được bình an vô sự? Đọc đọan này, tôi tin chắc có những thành phần bảo hoàng sẽ nổi điên lên vì xúc phạm đến những kẻ vô sỉ mà họ tôn kính.

Xin đọc đoạn phúc trình sau đây do chính quyền thực dân / bảo hộ Pháp viết như một lời kết luận cho phần này:

“Đồng Khánh vừa mất, thì những tiếng đồn chẳng hay ho gì về ông đã lan truyền khắp nơi: và chắc chắn là ông đã chẳng để lại trong lòng người dân một thoáng cảm thông nhớ tiếc nào. […] Tôi sẽ không nói gì về tính phóng đãng của nhà vua; nhưng điều tôi lưu ý hơn hết là những mánh khóe bất hảo mà đâu đâu người ta cũng nhắc đến; Người ta kể những món tiền lớn lao cho các quan chức và tư nhân vay; những lệnh mua sắm giao cho một vị hoàng thân chắc chắn đã nhận được những món tiền kếch sù; người ta kể những cuộc khai quật “rất phát tài” của Đồng Khánh thực hiện trong nội cung, những hòm bạc mang đi chôn giấu tại Quảng Trị và trong Thiên Thành, (Lăng vua cha).”

(Nguyễn Xuân Thọ, ibid., trang 507, trích “Mémoires et documents, Asie”, MAE, quyển 74,)

Kết luận về vai trò làm vua của Bảo Đại dưới thời Pháp thuộc

Độc giả đã theo dõi bốn kỳ trên DCVOnline.net viết về giai đoạn Bảo Đại làm vua. Kể từ lúc 5 tuổi khi còn ở trong cung cho đến lúc được 9 tuổi được vua cha Khải Định gửi gấm cho ông Jean François Eugène Charles, Khâm sứ Trung Kỳ từ 1913 đến 1920, nhận làm con nuôi, đưa sang học tại Pháp. Bảo Đại về lại Việt Nam, chịu tang cha đồng thời đăng quang, sau đó ông lại tiếp tục sang Pháp học tiếp cho đến năm 19 tuổi.

Được huấn luyện một cách bài bản, nghiêm nhặt, được trông thấy, được quan sát đầy đủ nếp sống văn minh xứ người. Học đươc rất nhiều mà không hành, không áp dụng. Về việc học ở L’Institut d’études Politiques de Paris (SciencePo) Bảo Đại nói, “Tôi không khi nào bỏ những giờ học kinh tế, chính trị.” (I never missed lectures on economics, politics. Khai Bui, ibid., Jun 17, 2012)

Đáng lẽ khi về Việt Nam, ông sẽ mang cái học trong bấy nhiêu năm nơi xứ người về chính trị, về giáo dục, về hành chánh, về kinh tế để phát triển đất nước đi đến chỗ cường thịnh rồi từ đấy liệu bề đòi hỏi độc lập, dân chủ về cho đất nước, từng bước một.

Tiếc thay trong 20 năm ở ngôi vua, ông lo chơi hơn là làm, lo hưởng thụ hơn là nghĩ tới dân. Ông đã làm thất vọng mọi người trong đó có cả người Pháp như ông bà cha mẹ nuôi cũng như chính ông. Ông đóng trọn vẹn vai trò một vị vua bù nhìn không hơn không kém.

Nghĩ tới ông, nhiều lúc bẽ bàng tủi hổ cho đất nước không có lấy được một người tài.

Ông hưởng hết mọi bổng lộc mà người Pháp dành cho một vị vua Annam. Nhưng càng được người Pháp dung dưỡng, ông càng trở thành bê tha hư hỏng. Ông trở thành một thứ tây con, sống như Tây, hưởng thụ như Tây, hành xử theo cách người Pháp. Ông trở thành một thứ con hoang, người khách lạ trên chính quê hương mình. Nếu được phép thì ông sẵn sàng từ bỏ tất cả cung điện, ngai vàng để có thể sang Tây ở.

Một con người xa đọa, hư hỏng, mất gốc như thế, tôi muốn hỏi thẳng, những người vẫn muốn bảo vệ uy tín cho Bảo Đại, họ có biết ngượng và xấu hổ về việc bảo hoàng ấy không? Ca tụng Bảo Đại, che dấu tất cả những việc làm bại hoại của Bảo Đại là một hình thức vô luân về nhân cách, về đạo đức. Thật vậy, Khi Bảo Đại tuyên bố, thà làm người dân một nước độc lập hơn làm vua một nước bị trị, Bảo Đại đã chỉ lặp lại như máy những gì người ta viết sẵn cho ông đoc! Vậy mà lời tuyên bố dối trá ấy giúp ông thêm nổi tiếng? Chính ông và mọi người đã quên đi quá khứ nhem nhuốc 20 năm làm vua bù nhìn?

Bảo Đại đã hy sinh cái gì cho đất nước? Trước nạn đói, đi thăm dân, cứu đói cho một đứa trẻ, Bảo Đại cũng không bỏ, dù một đồng xu để cứu đói? Nếu bảo Đại có lòng thương dân, ngay từ tháng 5-1944, ông cùng với chính quyền đến ủy lạo, kêu gọi mọi người bỏ tiền cứu đói, đi đến đâu kêu gọi toàn dân cứu đói, xuất quỹ triều đình ra cứu dân từ Quảng Trị ra, nhất là giúp dân Thái Bình thì tôi tin rằng số nạn nhân chết vì đói sẽ không cao như thế và không kéo dài cho đến tháng Năm,1945.

Và cứ như thế người Pháp không mua chuộc ông được và Hồ Chí Minh đã không thể nào dám ép buộc ông thoái vị.

Rất tiếc. Lại rất tiếc, vì ông chỉ là một ông vua bù nhìn.

Trước khi chấm dứt phần này, nhân tiện đây, tôi cũng xin cám ơn ban biên tập DCVOnline đã sưu tầm được tài liệu, một bài báo, quý giá về vụ Bảo Đại gẫy chân đã được tờ Trường An tường thuật đầy đủ trong phần hai của bài này. Tự nó, bài báo cho thấy cái mặt trái của chế độ mà đến nỗi không cần phải nói ra. Bài báo ấy, hình ảnh ấy là một bằng chứng khẳng định chế độ vua quan nhà Nguyễn không có lý do gì để tồn tại lâu hơn nữa.

Bảo Đại đi chơi, chỉ gẫy một cái chân mà làm náo động đến cả nước. Nào bác sĩ đi ô tô lên Ban Mê Thuột điều trị. Thuê chuyến máy bay đặc biệt trở cái chân gẫy về Sài Gòn vào điều trị tại nhà thương Grall. Các quan tây từ Toàn quyền đến khâm sứ, các tai to mặt lớn đều có mặt đông đủ đón tiếp Đức Hoàng Thượng. Về phía triều đình thì từ Huế như quan thượng thư Phạm Quỳnh lục tục kéo vào Saigon vào hầu ngự. Thấy vẫn chưa đủ, Đức Hoàng Thượng còn sang Pháp ở tại lâu đài Thorenc chữa trị vết thương cho mau lành. Chính ở nơi đây, vết thương vừa chữa lành thì một vết thương khác làm cho sau này, đời Đức Hoàng Thượng có lúc thân bại danh liệt. Ngài mê cờ bạc nhiều lúc bán tất cả!

Bài báo trên tờ Trường An, xuất bản tại Huế trong dịp này càng tường thuật đầy đủ bao nhiêu, càng đánh bóng Đức Hòang Thượng bao nhiêu càng cho thấy nó dơ dáy, thối tha bấy nhiêu!

Việt Minh mặc dầu có tội với dân tộc. Nhưng việc xóa bỏ chế độ phong kiến, chế độ vua quan nhà Nguyễn, chấm dứt 400 năm triều Nguyễn là điều không thể làm khác được.

Không có Việt Minh thì sau này đến lượt Ngô Đình Diệm, ông ta cũng phải làm. Ông Diệm không có công gì cả, cùng lắm truất phế một vị Quốc Trưởng như một thay đổi về mặt hành chánh!

Kỳ sau, xin mời bạn đọc theo dõi phần: Vai trò cố vấn tối cao của Bảo Đại

(Còn tiếp)

© DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


DCVOnline biên tập và minh hoạ.

1 Comment on “Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (p4)

  1. TỪ BẢO ĐẠI ĐẾN VIỆT MINH

    Một thời lịch sử rồi qua
    Sau này con cháu xót xa vạn phần
    Nước nhà gặp buổi gian truân
    Thực dân phong kiến kết nhau đè đầu

    Bốn trăm năm cũng tới hồi
    Đế quyền rệu rã cuối cùng rồi tan
    Khởi đầu hoàng đế Gia Long
    Bôn ba phục quốc non sông thu về

    Tới thời Tự Đức não nề
    Đất đai thành lá dâu phơi cho tằm
    Đầu tiên ba tỉnh Miền Đông
    Miền Tây ba tỉnh tiếp dòng ra đi

    Nam Kỳ lục tỉnh còn gì
    Thành nền bảo hộ đến khi xong rồi
    Vua quan hóa lũ tôi đòi
    Chỉ còn ngoan ngoãn dưới giầy thực dân

    Bao nhiêu bòn rút từ dân
    Biến thành tài sản làm phần của riêng
    Cuối cùng giặc Pháp cướp liền
    Chuyển lên tàu thủy chở về Paris

    Thật là nhục nhã mấy khi
    Cả thời Bảo Đại làm vì tự nhiên
    Pháp nuôi ăn học ưu tiên
    Suốt đời hưởng lạc triền miên lạ gì

    Quả thời đất nước suy vi
    Nhân dân một cổ biết chi hai tròng
    Bên phong kiến bên thực dân
    Chỉ toàn ú ớ mơ mòng vậy thôi

    Cũng may thời cuộc chuyển rồi
    Lần hai Thế chiến tới hồi tàn theo
    Nhật vào hất cẳng Pháp đi
    Thực dân chấm dứt mấy khi thế này

    Cái trò Nhật phiệt cũng hay
    Tìm người cố vớt lá bài Á Đông
    Chắc chi lịch sử xuôi dòng
    Nhưng mà cố tát chính Trần Trọng Kim

    Thế nhưng con tạo nào im
    Việt Minh khởi nghĩa tiến lên rần rần
    Khiến làm Bảo Đại run chân
    Ấn vua kiếm báu một lần trao ngay

    Trao vào chỉ bọn tay sai
    Nhân danh đại diện trong tay ông Hồ
    Thật là lịch sử hồ đồ
    Ông vua khiếp vía lẽ nào mà vinh

    Ông Hồ tên tự Chí Minh
    Nhưng theo mác xít tận tình trước sau
    Đứng vào hàng ngũ Nga Tàu
    Đinh làm cách mạng trước sau vẹn toàn

    Nhưng rồi lịch sử đa đoan
    Pháp liền quay lại Mỹ sang mấy hồi
    Chiến tranh ý hệ không tồi
    Nước nhà khốn đốn tuyệt vời ai hay

    Ba mươi năm tựa tên bay
    Máu đào xương trắng nói ngay ngập trời
    Rồi thì cũng kết cuộc thôi
    Liên Xô cũng đổ xong rồi chiến chinh

    Tới khi thống nhất hòa bình
    Chuyển thành cải tạo rung rinh nước nhà
    Thuyết ông Các Mác bày ra
    Hai mươi năm nữa xót xa tận cùng

    Cuối cùng chỉ có rưng rưng
    Nghèo nàn xơ xác mới đành đổi thay
    Cho dù đổi mới những ngày
    Nhưng rồi lăng tẩm Bác Hồ nguy nga

    Được tôn tầm vóc cha già
    Trong dân nhiều chỗ sa đà thờ ông
    Lập ông ngồi với tổ tiên
    Bàn thờ tiên tổ trở nên dị kỳ

    Cả toàn xã hội lâm ly
    Học theo lời Bác còn gì nói sao
    Việt Nam từng một cơ đồ
    Hoàng Sa giờ lại coi như mất rồi

    Quả là lịch sử than ôi
    Trường Sa héo hắt chắc hồi cũng tiêu
    Bao nhiêu ngôn ngữ mỹ miều
    Nói theo thì được dám ai ngược lời

    Tự do dân chủ một trời
    Triệu lần hơn hẳn khác đời xa xưa
    Nhân dân làm chủ chỉ thừa
    Bởi vì có Đảng như vua được rồi

    Một thời Bảo Đại trời ơi
    Diệt xong phong kiến bây giờ là đây
    Sự đời nào khác con quay
    Thời nay quay lại những ngày thời xưa

    Kiếm vua ấn tín cùn rồi
    Chúng toàn rỉ sét ối thôi còn gì
    Đúng Cù Huy Cận từng khi
    Nói lời nói ấy lạ gì hôm nay

    NGÀN KHƠI
    (28/12/16)