Việt Nam sẽ xoay trục sang Mỹ?
David Koh | Trà Mi dịch
Không có khả năng Trung Quốc tấn công vào Việt Nam trên đất liền và cũng không ai đoán như vậy, nhưng những xung đột hay đụng độ ở Biển Đông không thể bị loại bỏ hoàn toàn.
Chuyến viếng thăm thành công của Obama tăng khả năng Việt Nam xoay trục sang Mỹ; mất thêm đảo của Việt Nam ở Biển Đông có thể dẫn đến một liên minh như vậy.
Đến nay âm vang trong chuyến viếng thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đến Việt Nam vào tháng trước đã lắng xuống, và đến lúc người ta xem chuyến đi của ông đã góp những gì cho tình hình chiến lược trong khu vực.
Đầu tiên, chuyến viếng thăm của ông Obama là một tín hiệu rõ ràng cho thấy cả hai bên muốn là bạn thân với nhau hơn, sự thân mật đó có thể gây lo lắng cho Trung Quốc. Obama tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận vận vũ khí đối với Việt Nam không nhắm vào Trung Quốc nhưng là để Việt Nam tự vệ. Để chống ai? Người ta có thể hỏi, và câu trả lời vang dội trong óc của tất cả mọi người. Khán giả nhiệt liệt hoan nghênh ông khi Obama nói trong một bài đọc ở Mỹ Đình “không một quốc gia nào có thể áp đặt ý của họ hoặc quyết định số phận của các bạn.” Dĩ nhiên, ngay sau đó là lời quả quyết của Obama là Mỹ không muốn áp đặt hình thức của chính phủ ở Washington với Việt Nam.
Cuộc ve vãn Việt Nam của Mỹ đi vào lĩnh vực kinh tế-xã hội. Có nhiều thoả thuận kinh doanh và viện trợ trong các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng sạch, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và giáo dục. Thỏa thuận mậu dịch lớn nhất là VietJet Air đã ký kết mua 100 máy bay của Boeing. Đoàn Chí nguyện Mỹ sẽ đến dạy tiếng Anh, và đại học của Mỹ sẽ mở thêm chi nhánh và cơ sở tại Việt Nam.
Nhưng không có thỏa thuận nào lớn hơn so với các cam kết của Mỹ để giữ Việt Nam trong quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Trong khi TPP có thể được xem như là một lực đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc, động lực của Việt Nam là sử dụng khung cửa lớn hơn đến với thị trường Hoa Kỳ giới đầu tư để đẩy mạnh nền kinh tế của mình. Có sự đồng thuận rộng rãi tại Việt Nam là sự thành công về kinh tế sẽ tạo ra khả năng lớn hơn trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia ở Biển Đông, nơi đang diễn ra một loạt các tuyên bố chủ quyền chồng tréo với các nước láng giềng, đặc biệt là với Trung Quốc. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, và các công ty Mỹ sẽ được khuyến khích đầu tư nhiều hơn nữa vì sự thành công của chuyến viếng thăm vừa qua.
Ông Obama là tổng thống thứ ba của Mỹ liên tiếp đến thăm Việt Nam sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Nó có nghĩa là chính sách đối ngoại của Mỹ coi Việt Nam như một điểm đến ưu tiên và Tổng thống Mỹ nên có Việt Nam trong lịch trình công tác ở nước ngoài. Tuy nhiên, cả ba tổng thống Mỹ đều đến thăm Việt Nam trong nhiệm kỳ thứ hai của họ, điều đó cũng ngụ ý Việt Nam không phải là ưu tiên cao nhất của Mỹ.
Chúng ta chưa thấy hoặc nghe nói trong chuyến viếng thăm của Tổng thống Mỹ vừa qua bất kỳ lời nói hoặc ngay cả một gợi ý nào về một cam kết sâu hơn hoặc lớn hơn của Mỹ vào việc bảo vệ Việt Nam. Mỹ đã nói họ sẽ không đứng ở bất kỳ bên nào trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, và chính sách đó vẫn không thay đổi.
Lệnh cấm vận vũ khí sát thương đã dỡ bỏ trên nguyên tắc nhưng việc bán vũ khí giết người sẽ vẫn phải hội đủ những yêu cầu về quyền con người, mặc dầu đã không được quy định trước. Và nhân quyền và giới hoạt động dân chủ ở Việt Nam vẫn đang gặp khó khăn, điều này cũng sẽ không thay đổi trong giai đoạn ngắn hạn.
Mối quan hệ Mỹ-Việt Nam sẽ phát triển mạnh hơn, ngay cả sẽ có thể vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế-xã hội, phụ thuộc vào hành động của Trung Quốc, Chiến lược của Trung Quốc đối tới Việt Nam tiếp tục theo hai hướng – cứng rắn trên Biển Đông, và thuyết phục chiến lược để phòng ngừa Việt Nam xoay trục [sang Mỹ].
Việt Nam vẫn là một thách thức lớn đối với mục tiêu chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông, vì số lượng lớn quần đảo Việt Nam đang giữ, cũng như việc Việt Nam có thể hợp tác mạnh hơn với Mỹ, Nhật Bản và Philippines trong lĩnh vực bảo vệ hàng hải.
Về mặt chiến lược, Trung Quốc ve vãn Việt Nam bằng cách nhấn mạnh về sự giống nhau ở mặt chính trị và lịch sử tình đồng chí của họ, đặc biệt nêu lên sự sống còn của chế độ cộng sản ở hai nước phần lớn phụ thuộc vào việc tiếp tục mối quan hệ tốt của hai nước để đoàn kết chống lại những nỗ lực của khối tư bản nhằm lật đổ những chế độ cộng sản.
Tiềm ẩn trong tất cả mồi chài của TQ là một thực tế phũ phàng là nước hàng xóm lớn này bây giờ đã quá mạnh về quân sự và có thể trở mặt và hung hãn thêm một lần nữa – như đã xẩy ra qua cuộc chiến tranh ngắn ở vùng biên giới Việt-Trung năm 1979. Chiến tranh với Trung Quốc trên đất liền là điều cuối cùng Việt Nam muốn.
Sức mạnh mềm của Trung Quốc đối với Việt Nam chưa đi đên đâu cả nếu so với Mỹ. Mậu dịch giữa Việt Nam và Mỹ tăng 150% trong mười năm qua, trong khi Việt Nam tiếp tục bị thâm hụt thương mại khổng lồ đối với Trung Quốc. Mỹ là điểm đến về mặt giáo dục và di cư hàng đầu của người Việt Nam, trong khi có ít người muốn qua TQ sinh sống hoặc du học. Trong một cuộc biểu dương sức mạnh mềm của Mỹ, hàng ngàn người dân Việt Nam đã xếp hàng dài trên đường phố ở cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để đón chào Tổng thống Mỹ. Những chuyến viếng thăm của Chủ tịch Trung Quốc không bao giờ nhận được sự chào đón tự phát như vậy.
Để kết luận, chuyến viếng thăm của Obama tập trung vào trọng tâm là Việt Nam có thể xoay trục về phía Mỹ. Lợi ích kinh tế mạnh và sâu có thể khiến hai nước có những cam kết quốc phòng bảo vệ lẫn nhau.
Trong thực tế, một trục liên minh như vậy chỉ có lợi cho Việt Nam nếu họ thay đổi giả định chiến lược một cách đáng kể và cơ bản. Những giả định có thể gồm một sự thay đổi lớn trong mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam, và Việt Nam tiếp tục bị mất đảo ở Biển Đông. Không có khả năng Trung Quốc tấn công vào Việt Nam trên đất liền và cũng không ai đoán như vậy, nhưng những xung đột hay đụng độ ở Biển Đông không thể bị loại bỏ hoàn toàn.
Đến nay, chỉ khi Việt Nam tiếp tục mất biển đảo thì một liên minh Việt-Mỹ sẽ thành hình. Nếu hành động để đẩy Việt Nam đến gần hơn với Mỹ, Trung Quốc đuơng nhiên tạo ra một liên minh quân sự Mỹ ngay trước cổng, ngoài các đồng minh Mỹ đã có là Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines. Đến lúc đó, cuộc bao vây chiến lược của Mỹ đối với Trung Quốc ở Đông Á coi như đã hoàn tất.
Trong lúc này, nó vẫn là ván cờ mở cho cả Mỹ và Việt Nam về khả năng của một cuộc xoay trục.
Tác giả là người sáng lập và là giám đốc của công ty tư vấn David Koh & Associates và là một nhà phân tích lâu năm về Việt Nam và Đông Nam Á.
© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Will there be a Vietnamese pivot to the US? David Koh. The Straits Times, June 6, 2016.
MỸ, TRUNG QUỐC, VIỆT NAM NGÀY NAY VÀ TRONG TƯƠNG LAI
Ngày nay thế giới chia làm nhiều nhóm chính : nhóm Bắc Mỹ, nhóm Cộng đồng chung châu Âu, nhóm các nước Asean, nhóm các nước Ả Rập Hồi giáo, nhóm các nước Phi châu, nhóm Nga Trung Quốc, nhóm các nước Á châu, nhóm các nước cộng sản cũ còn lại. Việt Nam ngày nay thực chất vừa thuộc nhóm các nước cộng sản cũ còn lại vừa thuộc nhóm các nước Asean. Nhóm Asean có nghĩa là nhóm các nước đang phát triển, nhóm các nước cộng sản còn lại có nghĩa còn lâu dài chịu hậu quả kinh tế xã hội chính trị để lại trong quá khứ về nhiều mặt tinh thần cũng như vật chất ngheo nàn, lạc hậu, nhất là thói quen về cơ chế tổ chức xã hội kiểu quán tính khó thể nào sớm thoát ra được.
Khi thế giới chiến tranh lần thứ nhất rồi lần thứ hai nổ ra, nguyên nhân chủ yếu là do nước Đức khi ấy xé rào đối với trật tự chung của châu Âu, lần đầu với tham vọng đế quốc, lần sau với tham vọng chủ nghĩa quốc xã, khiến cả châu Âu phải rơi vào cuộc chiến tàn khốc, cả hai lần nước Mỹ phải đều nhảy vô để ổn định lại thế giới, châu Âu lại được yên bình phát triển, ngày nay trở thành cộng đồng chung châu Âu, là mô hình thành công phát triển thống nhất trong hòa bình mà toàn thể các quốc gia châu Âu đều được hưởng. Cộng đồng châu Âu trở thành một khối quốc gia đồng minh với Mỹ, bình đẳng với Mỹ cho đến ngày nay, cả hai cùng phát triển có lợi.
Cũng thế, khi cuộc cách mạng bôn sê vích nổ ra ở Nga năm 1917, nước Nga đi theo chủ nghĩa cộng sản, điều đó sau thế chiến thứ hai dẫn đến nhiều cuộc chiến tranh nóng và lạnh ở một số nước trong khối cộng sản than Liên Xô và khối tư bản than Mỹ. Cuối cùng chiến tranh lạnh chấm dứt khi bức tường Bá Linh sụp đổ, Liên Xô tan rã, chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới cáo chung, chỉ còn một số nước vẫn kiên trì đường cũ là Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam, cả thảy chỉ bốn nước. Thế nhưng trong bốn nước này chỉ có Triều Tiên là nước không giống ai, trong khi Trung Quốc và Việt Nam đều hướng theo đổi mới, tức từ bỏ chủ nghĩa cộng sản it ra là mặt hình thức để quay về thực tế kinh tế thị trường, riêng Cuba rang kỳ cượng rồi nay cũng phải đi theo nốt.
Như vậy rõ ràng nói về chính trị thế giới thì mọi nước bình thường, mọi nước tự do dân chủ khó thể nào đánh nhau, khuynh loát nhau, trừ khi các nước rơi vào chỗ độc tài như phát xít, quốc xã, hay các nước cộng sản cũ mới thường đánh nhau để giành quyền lợi và địa vị lãnh đạo, đó là chuyển hiển nhiên bình thường mà ai cũng có thể thấy được qua lịch sử quá khứ. Chẳng hạn như trong thế kỷ trước, sự đánh nhau giữa Liên Xô và Trung Quốc, giữa Trung Quốc và Việt Nam, giữa Việt Nam và Khmer đỏ là điều hết sức rõ ràng không ai có thể phủ nhận. Bởi vì trong các chế độ độc tài, quyền hành chỉ tập trung vào tay thiểu số, thiểu số đó dù là bè nhóm dù là cá nhân vẫn hướng đến cái lợi cụ bộ, cái lợi riêng tư là chính, như vậy chiến tranh thôn tính nhau là điều khó thể nào tránh khỏi cho dù ngôn ngữ tuyên truyền như thế nào để cuối cùng phải có một kẻ làm vua chung.
Thế nhưng ngày nay hoàn cảnh Trung Quốc và Việt Nam không còn giống hoàn toàn như ngày xưa nữa. Mỹ vẫn là nước còn đó và nước đủ sức mạnh duy nhất để can thiệp vào mọi sự xung đột các nơi, đó vừa quyền lợi của Mỹ cúng vừa quyền lợi chung cho toàn thế giới. Vì Mỹ là nước tư bản tự do, luôn muốn tìm kiếm lợi nhuận trong hòa bình. Những luận điệu như xa xưa như Mỹ là nước đế quốc, Mỹ là nước mong chiến tranh để bán vũ khí, chỉ là những luận điệu rẻ tiền của những kẻ hung thần chính trị và đám quyền chúng dốt nát cả tin bị tuyên truyền lừa bịp mà loại các kẻ khuynh tả ở miền Nam trước năm 1975 luôn không thiếu, thậm chí còn bêu rếu ngu xuẩn Mỹ là nước thực dân mới. Bởi thế mọi sự xoay trục của Mỹ từ xa xưa vẫn đều cho thấy Mỹ bao giờ cũng thế, chẳng khi nào có tham vọng đế quốc theo kiểu tuyên truyền rẻ tiền, dối gạt gì cả.
Ngược lại Trung Quốc tuy danh nghĩa là nước đồng chí anh em với Việt Nam, Trung Quốc lại cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam, nay lại đang tôn tạo và lập căn cứ quân sự trên phần đảo Trường Sa của Việt Nam, có nghĩa học thuyết cộng sản luôn không tin được và những tập đoàn lãnh đạo các nước cộng sản từ trược nay luôn không tin được. Bởi chủ nghĩa đó không có thực chất mà chỉ là những ngôn ngữ tuyên truyền để nhân danh các quyền lợi chung cho các mục đích riêng nào đó vậy thôi. Nói như thế cũng để phân biệt dân tộc, đất nước, xã hội như một thực thể tự nhiên và ý thức hệ, chủ nghĩa, cơ chế chế độ chính trị vẫn chỉ cái bề nổi bên ngoài, nhiều khi chỉ là cái bề nổi giả tạo, giả dối và áp đặt sai trái. Vậy nên nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc, đất nước Việt Nam, đất nước Trung Quốc thực ra chẳng có điều gì để phải sợ nhau. Nhưng cái sợ nhất là tập đoàn độc tài lãnh đạo hay cầm quyền tại các nước đó.
Nên ngày nay Việt Nam có sợ Trung Quốc chính là sợ ban lãnh đạo độc quyền hay độc đoán độc tài tại Trung Quốc.
Đó là điều tại sao Việt Nam cần sợ Trung Quốc mà không cần sợ Mỹ hiện nay. Bởi cơ chế đất nước Mỹ là cơ chế tự do dân chủ đúng nghĩa, không bất kỳ người lãnh đạo Mỹ là có toàn quyền tự tung tự tác mà không được sự chấp nhân của toàn dân nếu họ thấy hoàn toàn phi lý. Điều này khó có thể áp dụng được với Trung Quốc, vì guồng máy chuyên chính bạo lực và guồng máy tuyên truyền là hai yếu tố khống chế nhân dân khiến toàn dân của họ đều phải chịu phép. Nên nói cho cùng, chừng nào nước Trung Quốc còn trong chế độ độc tài độc đảng, Việt Nam coi như vĩnh viễn mất Hoàng Sa, Trường Sa và biết đâu còn mất nhiều thứ khác nữa. Vì ngày xưa quân chủ phương Bắc nguy hiểm như thế nào thì ngày nay cộng sản phương Bắc cũng không thể tốt hơn là mấy. Đó là một sự thật, chẳng cần gì phải nghiên cứu chuyên sâu mới có thể khẳng định được. Nên nói chung lại, trong thế giới hiện đại ngày nay chính thể chế chính trị là điều quan trọng nhất để giữa hòa bình và giềng mối hữu lý của mọi quốc gia. Đó là ý nghĩa thực tế, vì ngày nay con đường hòa hợp và thống nhất chung của nhân loại chỉ có thể là con đường tự do dân chủ, văn mnh khoa học, con đường đạo lý, con đường phát triển kinh tế xã hội hoàn toàn tự nhiên, không phải phải là kiểu ý thức hệ ngu ngốc hay kiểu chuyên chính độc tài một cách hoang dã nữa.
NON NGÀN
(08/6/16)