Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (Kết)
Nguyễn Văn Lục
Vấn đề không phải là ưu tiên hoạc tách biệt vấn đề quân sự và dân sự.
Sự đóng góp tích cực của những người Hồi Chánh
(Tiếp theo p1, p2, p3, p4, p5, p6, p7, p8)
Trong cuốn Hồi ký viết chung với Dương Đình Lôi, “Hai ngàn ngày đêm trấn thủ Củ Chi” (gồm 7 quyển, 2250 trang) Đây cũng là một hình thức khác của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Củ Chi gồm 15 xã,sát nách Sài Gòn, chỉ cách 20 km. Với các địa danh nổi tiếng do các cuộc giao tranh xảy ra như Hố Bò, căn cứ Đồng Dù, Xóm Chùa, đồn điền Sinna.
Theo Dương Đình Lôi (Trung đoàn phó) cuối cùng thì Khu Ủy Khu IV đã phải chạy tuột lên tận Preyveng để lánh nạn. Còn chính Củ Chi chỉ còn lại một bãi tha ma không một bóng người, không còn đến một gốc cây đứng vững, không một tiếng chó sủa, gà gáy. Tất cả xã ủy đều chết, bị bắt hay phải hồi chánh. Hoặc ngưng hoạt động.
Nhưng để tránh các cuộc ruồng bắt ngày đêm cộng với bom đạn trút xuống. Cộng sản đã phải đào các địa đạo để trốn lánh tạm thời. Nhưng địa đạo nào chịu nổi sức ép của B.52? Địa đạo trung bình dài 200 mét, chỉ có một cái dài nhất đến 500 mét. Và không có chuyện hệ thống địa đạo dài đến 100 dặm, có cả nhà thương, phòng mổ.
Đây là sự bịa đặt trắng trợn vì không có thể ở lâu dưới địa đạo vì thiếu dưỡng khí sẽ chết ngộp.
Đó chỉ là những hang chuột mà con người không thể ở lâu quá vài tiếng đồng hồ.
Ngay từ năm 1970, khi về Hồi Chánh, tác giả Dương Đình Lôi đã trình bày về sự bịp bợm của cộng sản về địa đạo Củ Chi, tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ngay từ năm 1970. Không biết bao nhiêu chi tiết, không biết bao nhiêu sự bịp bợp gian đối được tác giả phơi bày ra. Vậy mà sau 1975, cộng sản tiếp tục tạo dựng lại địa đạo Củ Chi để bịp toàn thể thế giới.
(Xuân Vũ & Dương Đình Lôi, “Hai ngàn ngày đêm. Trấn thủ Củ Chi”. Nxb Trời Nam xuất bản lần đầu tiên tại Hoa Kỳ, năm 199I. Xuân Thu tái bản năm 1998)
Các Hồi chánh Viên như Xuân Vũ, hồi chánh năm 1968, là vốn quý cho phía Quốc Gia. Qua sự đánh giá ấy, người ta cần đánh giá lại công hay tội của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa cũng như cá nhân ông Ngô Đình Cẩn.
Người ta còn nhớ rằng chính ông Ngô Đình Cẩn đã dùng chính sách chiêu mời anh em cựu kháng chiến trở về với Quốc Gia dân tộc, để xây dựng một xã hội thực sự tự do, dân chủ. Ông Cẩn đánh giá rất cao những thành phần cựu kháng chiến. Nói thẳng ra ông tôn trọng họ hơn những người Quốc gia mà ông cho là họ thiếu lý tưởng.
(Trích bài Nói chuyện của ông Ngô Đình Cẩn trong dịp tết, trong tập photocopy của Nguyễn Văn Trung)
Trường hợp đại tá Nguyễn Bé
Ở đây người viết đặc biệt giới thiệu ông Nguyễn Bé. Một sĩ quan từng phục vụ phía bên kia và sau đó trở thành sĩ quan VNCH. Một vị sĩ quan của quân đội VNCH mà theo một vài người từng làm việc với ông coi ông là gương mẫu về mọi mặt. Tư cách cũng như con người ông có cuộc sống thanh bạch, không hề tham nhũng, lạm quyền, là tấm gương cho các sĩ quan khác trong quân đội VNCH. Theo một người bạn khá thân với ông từng được ông mời đến thuyết giảng tại trung tâm Vũng Tầu cho biết, bà vợ ông phải buôn bán lẻ thêm như thuốc lá, vé số dể có đủ tiền trợ. Trước 1975, tôi chưa từng được nghe về tư cách và phẩm chất không dễ mấy ai có được nhu vậy.
Theo tài liệu quân sử Việt Nam:
“Ông Nguyễn Bé sinh vào tháng 9 năm 1929, tỉnh Thừa Thiên (có chỗ ghi sinh ở Quảng Trị). Số quân 49201.458. Nhập ngũ ngày 1-7-52. Xuất thấn trường Võ bị Địa phương Huế. Cấp bậc và chức vụ sau cùng: đại tá chỉ huy trưởng Trung Tâm xây dựng nông thôn Vũng Tàu. Không bị đi tù cộng sản. Hiện định cư tại Nam California. Và đã từ trần cũng tại nơi đây.”
(Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân và Lê Đình Thụy, Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nxb Hương Quê, 2011, trang 505)
Tiểu sử quân vụ chỉ nói tóm tắt có thế. Nhưng Frank Scotton, nhân viên của Phòng Thông tin Hoa Kỳ có một thời gian dài làm việc tại Việt Nam trong vai trò vừa dân sự vừa quân sự đã có nhiều dịp làm việc chung với Thiếu tá Bé. Scotton đi nhiều, chịu khó xông sáo nên có nhiều nguồn thông tin và cung cấp các dữ liệu thông tin ấy cho Phái bộ Quân viện MACV, cho Sở tình báo hoặc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ.
Ông là tác giả cuốn Uphill Battle. Ông đã hai lấn bị sốt xuất huyết và cả viêm gan. Ông cũng đã thoát chết nhiều lần khi chạm súng với địch va chết hụt khi trực thằn rớt. Và mỗi chuyến đi, mỗi tiếp súc lại giúp ông thêm một bài học. Nhưng ông cho rằng những nguy hiểm mà ông phải đối đầu không thể so với nỗi tiếp cận thường trực lâu dài với nguy hiểm và những sự hy sinh nơi những người mà ông đã gặp.
Ông ghi nhận trong lời nói đầu như sau:
“Rất nhiều ghi chú trong nhiều chương đầu là về tình trạng của một ấp nằm sâu trong các tỉnh Bình Định, Long An, Quảng Ngãi, Châu Đốc hoặc các tỉnh khác, đô khi tôi cũng có nhìn lên, nhưng đa dố ghi chú đều là những gì ngay bên cạnh đời sông của tôi lúc đó.”
(Frank Scotton, bản dịch Cuộc chiến leo dốc, của Phan Lê Dũng, trang 22-23)
Ngày nay nhìn lại cuộc chiến tại miền Nam cho tôi hiểu rằng cuộc chiến ấy thắng thua không hẳn từ cái nhìn từ các đô thị mà từ những chốn thôn quê, hẻo lánh của dân nghèo.
Dĩ nhiên, không thể nào có một cái nhìn đầy đủ, trung thực, bao quát trọn vẹn cuộc chiến vừa qua. Nhưng mỗi yếu tố đều có thể là những nhân tố đưa đến sự thua trận.
Phần tác giả, khi viết cuốn sách này chỉ muốn bày tỏ sự trân trọng tất cả những người Mỹ hay người Việt mà tác giả đã gặp và không thể nào quên được họ. Trong số ấy có Nguyễn Bé
Theo dịch giả Phan Lê Dũng, dịch giả cuốn Uphill Battle ra tiếng Việt nhan đề <i>Việt Nam. Cuộc chiến leo dốc</i>.
Cũng chính nhờ những chuyến đi ấy, ông có thêm những người bạn thân tín như Nguyễn Tùy, John Paul Vann, Nguyễn Bé, Phil Werbiski, Nguyễn Duy Bé, Trần Ngọc Châu, Nguyễn Thị Kim Vui, v.v.
(Frank Scotton, Việt Nam, ibid.)
Nhờ Frank Scotton mà người ta được biết thêm về con người của Nguyễn Bé.
Được biết ông Nguyễn Bé lúc còn thanh niên, lúc 20 tuổi, từng là cấp chỉ huy một đơn vị quân đội trong hàng ngũ Việt Minh chống Pháp. Nhưng đến năm 1965, ông đã là Thiếu tá Phó tỉnh trưởng, tỉnh Bình Định, phụ trách các hoạt động bình định nông thôn.
Chính trong thời gian này, ông đã có cơ hội làm việc chung với F.Scotton. Và F.Scotton cũng là người hết lòng yểm trợ cho Nguyễn Bé.
Lúc bấy giờ, đại tá Đào Trọng Tường là Tỉnh trưởng theo thói quen khi gặp người Mỹ đã nêu những khó khăn với cố vấn Mỹ thuộc cơ quan Juspao khi họ tới thăm như trường hợp ông Carl.
(Đại Tá Đào Trọng Tường, sinh 1935 tại Thái Bình. Xuất thân trường Võ bị Đà Lạt. Chức vụ cuối cùng là Đại tá đặc trách ĐPQ và NQ, quân khu I. Bị tù cộng sản 13 năm. Định tại Hoa Kỳ San Diego. Qua đời 26-1-2011.
(Trích trong Lược sử Quân lực VNCH, ibid., trang 536)
“ Đại tá than phiền tình hình an ninh ngày một suy giảm..
Ông Carl đã nhẹ nhàng khước từ ý kiến của của đại tá và trả lời: “Tôi không hề đến đây để liều mạng. Ông Tường ngạc nhiên không rõ ý ông Carl và nói ông cần trở về văn phòng.” (Frank Scotton, Uphill Battle. Bản tiếng Việt, ibid., trang 280)
“Khi đại tá Tường đi khỏi, Thiếu tá Nguyễn Bé đã dẫn ông Carl tới thăm một đơn vị pháo binh, sau đó đưa ông Carl tới thăm một đội giảng viên đang huấn luyện một đội thông tin lưu động ở một ấp không xa, cách trụ sở quận Tuy Phước một cây số, đồng thời trình bầy cho ông Carl một buổi tập kích về ban đêm ở chung quanh ấp.”
“Khi ông Bé làm việc ở Bình Định, ông còn phải đụng đầu với vấn đề tham nhũng công khai ngay tại cảng Quy Nhơn như sau. Các quân cụ của của Sư đoàn I không kỵ cũng như của sư đoàn Đại Hàn sau khi cập bến cảng thì nhiệm vụ chuyển vẩn theo hợp đồng chỉ đến cảng là xong nhiệm vụ. Sau đó là có những thất thoát mà hãng chuyển vận như Han Jin không còn còn có trách nhiệm nữa.
Việc tham nhũng thứ hai là khi xây cất căn cứ không lực ở Phù Cát, các viên chức của Đại Tá Tường đã cho vào danh sách nhiều tên gia đình thêm vào danh sách để nhận tiền bối thường khi họ được chuyển đi nơi khác. Và người ta không khỏi ngạc nhiên là các xã này có số dân số đông dân cư nhất trên toàn cõi Việt Nam.”
(Frank Scotton, Việt Nam cuộc chiến leo dốc, ibid.,, trang 298)
Đoạn văn này cho thấy, Thiếu tá Bé là người chủ xướng các lớp huấn luyện cho cán bộ nông thôn về thông tin, một việc mà các ông Phó tỉnh khác thường không mấy lưu tâm. Có thể chỉ những người như thiếu tá Nguyễn Bé mới hiểu tầm mức và vai trò của cán bộ nông thôn. Nhưng vì không có sự yểm trợ từ chính quyền, ông phải tự lo và tổ chức các lớp huấn luyện cho các các bộ nông thôn. Trường hợp này cũng giống trường hợp ông Nguyễn Liệu, ngoài Quảng Ngãi. Ông Nguyễn Liệu đã tự đề xướng ra một chương trinh huấn luyện cán bộ xây dựng nông thôn và gọi đó là Chương trình Về Làng.
Ngoài công việc xây dựng cán bộ nông thôn thiếu thốn đủ mọi phương tiện, thiếu tá Bé còn phải đối đầu với tệ nạn tham nhũng trong tỉnh. Nhưng vì ông là người cực Kỳ liêm chính (Chữ dùng của Trung Tá Nam, trưởng khối hành chánh tài chánh sau này làm việc dưới quyền đại tá Bé tại Vũng Tàu nói với tác giả bài này) nên ông gặp rất nhiều khó khăn phải đối đầu với tệ nạn tham nhũng tại Bình Định. Nhưng rất may cho Thiếu tá Nguyễn Bé là ông được người Mỹ thấy được công việc làm của ông nên hỗ trợ, trong đó có việc bảo vệ ôn g khỏi bị ám hại bởi cánh tham nhũng trong tỉnh.
“Sau này, khi tướng Nguyễn Đức Thắng, Tổng Trưởng Bộ Xây Dựng nông thôn, một vị tướng sạch, chủ trương diệt tham nhũng đã có lần can thiệp yêu cầu các tướng Toàn, tướng Lãm, tư lệnh Quân Đoàn I hoãn không bao vây Quãng Ngãi để bắt gọn nhóm Xây Dựng nông thôn của Nguyễn Liệu.”
(Nguyễn Liệu, ibid., trang 374)
Nhưng một mình vị tướng sạch Nguyễn Đức Thắng thì làm được gì? Chính ông cũng cảm thấy xấu hổ vì bất lực. Người ta không thể nào xây dựng nông thôn đồng thời để cho nạn tham nhũng hoành hành.
Cuối cùng có tin cho biết Nguyễn Bé sẽ bị ám hại. Người Mỹ lo sợ cho tính mạng của ông đã đưa ra kế hoạch là dùng trực thăng chở Nguyễn Bé lên Pleiku, bản doanh Quân Đoàn II của tướng Vĩnh Lộc. Và họ cũng thừa hiểu rằng, Vĩnh Lộc cũng nằm trong đường giây tham nhũng ấy. Nhưng chắc chắn khi gặp Nguyễn Bé thì tướng Vĩnh Lộc bề ngoài phải ra mặt bảo vệ Thiếu tá Nguyễn Bé hơn là để lộ ra ông cũng dự một phần trong vụ ám sát Thiếu tá Bé.
(TrungTướng Vĩnh Lộc (1923-2009). Tốt nghiệp trường Võ bị của Pháp. Thiếu úy sĩ quan cận vệ của Bảo Đại. Ngày 29-4 được Dương Văn Minh cử giữ chức vụ Tổng Tham Mưu trưởng Quân lực thay thế tướng Đổng Văn Khuyên. Nhưng chỉ một ngày sau, sáng 30-4, ông rời bỏ Việt Nam trên Tuần Dương Hạm Tây Sa HQ-615. Ông định cư tại Houston, Texas.) (Trích Lược sử Quân lực. ibid., trang 172)
F. Scotton tường thuật tiếp:
“Thiếu tá Charles, chỉ huy trưởng không quân đồng ý cấp một chuyến bay đặc biệt đến Pleiku. Tôi đưa ông Bé ra sân bay, để ông ẩn mình dưới tấm Poncho sau xe jeep và chúng tôi lái thẳng đến máy bay, nơi thiếu tá Francis đang đợi.
Hôm sau, tôi đến Pleiku và xin gặp tướng Vĩnh Lộc. Sự khinh miệt của ông đối với các bộ lạc ở cao nguyên, và hẹn hò của ông với một ca sĩ Sài Gòn là điều đa số mọi người đều biết. Tôi nói trực tiếp với ông ngắn gọn, nhưng không có ý tố cáo, rằng bất cứ cuộc thanh tra nào cũng sẽ cho thấy mức hối lộ ở Bình Định đang làm hại Quốc gia bằng cách cho phép cộng sản tuyên bố họ thanh liêm. Cuộc thanh tra cũng sẽ cho thấy sự tham nhũng của Tư Lệnh Sư đoàn 22 và Tỉnh Trưởng.
Vị Tư lệnh Quân Đoàn có thể chứng minh sự thanh liêm của ông bằng cách bảo vệ Thiếu tá Bé và chỉ định một Tư lệnh mới cho Sư đoàn 22. Tôi xác định với ông Vĩnh Lộc rằng lo lắng của tôi hoàn toàn vì danh tiếng của ông.”
(Frank Scotton, Bản dịch của Phan Lê Dũng, ibid., 303-304)
Sau đó thì tướng Sang Bị đổi và tướng Nguyễn Văn Hiếu, một vị tướng được coi là vị tướng có kỷ luật và nổi tiếng liêm khiết nhất trong hàng ngũ tướng lãnh đến thay thế. Rất tiếc sau này tướng Hiếu bị giết hay tự tử vào ngày 8-4-1975 tại Bộ Tư lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hòa.
Đại tá Nguyễn Bé, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn luyện Cán bộ xây dựng nông thôn
Khi còn ở Quảng Ngãi, thiếu tá Nguyễn Bé là người chủ trương đổi các chương trình huấn luyện Biệt Kích Nhân Dân ở Quảng Ngãi năm 1964 để huấn luyện hoạt động bình định. Thời gian 1964 cho thấy, ông đã hoạt động ở Quảng Ngãi trước khi ông Nguyễn Liệu được đề cử làm Tỉnh Đoàn Trưởng tỉnh đoàn xây dựng nông thôn, tỉnh Quãng ngãi vào năm 1966-1967.
Về sau các hoạt động tự khởi xướng này trở thành các đội xây dựng nông thôn.
Không hiểu do cùng xuất thân từ trong lòng chế độ cộng sản mà Trung tá Trần Ngọc Châu cũng như Thiếu tá Nguyễn Bé cùng có chung một đường lối hoạt động: có nghĩa lấy nông thông làm gốc và có các chương trình phát triển nông thôn. Đường lối ấy cũng phù hợp với quan điểm người Mỹ lúc ban đầu. Họ đã hân hoan và yểm trợ hết mình công việc làm của ông Nguyễn Bé.
Nhưng sự can thiệp thuần túy quân sự bằng các đại đơn vị dần dần lấn át. Nhưng người Mỹ đã thất bại vì không thể nào ngăn cản được các căn cứ hậu cần xuất phát từ bên Cam Bốt cũng như các hệ thống đường mòn thông qua Lào.
Và cứ như thế quân đội Bắc Việt và Mặt trận Giải phóng miền Nam đánh quỵ ý chí cam kết của người Mỹ tham chiến ở Việt Nam.
Các cơ quan Dân Sự Vụ và Phát triển nông thôn MACVORDS là một nỗ lực khhông đồng bộ- giữa truy kích và bình định- của người Mỹ không đưa đến một kết quả hữu hiệu như mong muốn.
Việc can thiệp quân sự bằng số lượng vũ khí áp đảo bề ngoài xem ra thành công. Nhưng nhiều vùng đông dân cư đã được ổn định về quân sự vẫn có những khoảng trống và vùng ranh giới bỏ ngỏ vì thiếu một sự can thiệp chính trị để thu phục nhân dân.
Các cơ quan đân sự là chỗ bổ khuyết cho những tham vọng quân sự vẫn chưa được quan tâm cho đủ cả về phía Mỹ lẫn Việt Nam.
Thật vậy, chúng ta đã có nhiều trường huấn luyện quân sự cho câp bậc sĩ quan và quân binh chũng chuyên môn. Nhưng vẫn thiếu một Trung tâm để đào tạo cán bộ cho nông thôn.
Khi Thiếu tá Bé được điều động về Vũng Tàu làm Chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Xây Dựng Nông Thôn là đã trễ. Trước đó, tại Vũng Tầu đã có sẵn một trung tâm huấn luyện cán bộ có tên là Biệt Chính.
Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, trong một Hồi ký có tên “Cát Lở, Năm mươi năm nhìn lại”, ông đã có thời kỳ làm huấn luyện viên tại trung tâm này dưới quyền chỉ huy của ông Lê Xuân Mai, rồi đến Lê Văn Thinh, Trần Ngọc Châu, sau cùng mới đến Thiếu tá Nguyễn Bé. (Nguyễn Mạnh Cường, Cát Lở, Năm mươi năm nhìn lại, Newvietart)
Chắc hẳn từ khi Nguyễn Bé làm chỉ huy trưởng đã có nhiều thay đổi và đà phát triển mạnh. Từ mùa thu 1966, khi trung tâm này được mở, đã có gần 40.000 cán bộ nông thôn được huấn luyện trong Phong trào Phát triển nông thôn.
Trung bình có khoảng 8000 cán bộ nông thôn trong mỗi khóa học được huấn luyện trong vòng 12 tuần lễ, trước khi trả họ về nông thôn. Các cán bộ này được huấn luyện làm thế nào để tổ chức các làng xã, dạy cho người nông dân các phương pháp canh tác, chăn nuôi có hiệu quả, từ đó tạo mối liên hệ tốt giữa chính quyền và dân chúng. Họ còn được học hỏi làm thế nào thay dổi được cái đầu của người dân, thay đổi lối suy nghĩ của người dân trước đây, thuyết phục được mọi người cộng tác để xây dựng hạnh phúc, an toàn, ấm no cho mọi người. Đồng thời phải tìm cách ngăn chặn mọi sư phá rối của cộng sản
Riêng ông Nguyễn Bé, ăn mặc như người nông dân, tham gia và sinh hoạt trực tiếp, cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với các cán bộ và khóa sinh. Họ phải tự xây dựng nhà ở cho chính mình trong khu rừng Chí Linh, tự quản trị việc nấu nướng, sinh hoạt trong trại .
Theo một số Hồi ức của một số cựu khóa sinh, trong đó có nhiều khóa dành cho nữ giới, những ngày huấn luyện tuy cực nhọc kham khổ, nhưng là những ngày tràn đầy vui tươi, hy vọng của tuổi trẻ.
“Là nữ cán bộ HCLĐ/THC tỉnh, được cải tuyển qua chương trình XDNT để hướng dẫn công tác Hành chánh Xã, Ấp tại địa phương, tôi phải đi thụ huấn khóa 3//66 vào tháng 10/năm 1966. Vì khóa này tập trung khoảng 400 nữ. Đến ghi danh tại Trại Lam Sơn TTHL CB/XDNT/TƯ Vũng Tàu, tôi được “ Cán Bộ dẫn đạo” đón tiếp, đi nhận vật dụng cá nhân để dùng trong thời gian thụ huấn 12 tuần lễ rồi đưa đến phòng nghỉ ngơi và ở luôn tại đó. Cũng xin nhắc thêm, trại Lam Sơn nằm trên Quốc Lộ 15, từ Bà Rịa đi Vũng Tàu, trước kia là nơi đào tạo Cán bộ Biệt Chính. CHT là Thiếu tá Lê Xuân Mai, K.8 Võ bị Đà Lạt. Về sau này trại Lam Sơn thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Trung Ương. Bs Hoàng Đình Bảng là trại trưởng kiêm Trưởng bệnh xá Lam Sơn Trung Tâm Huấn Luyện CB/XDNT/TƯ.” (…)
“Buổi lễ mãn khóa 3/66 Cán bộ XDNT NỮ tại rừng Chí Linh Vũng Tàu, chấm dứt trong niềm vui bất tận. Tôi chia tay với CHT, T/Tá Nguyễn Bé, bác sĩ Hoàng Đình Bảng. HLV cơ bản thao diễn TQCL Đào Khắc Ty, HLV y tá Nguyễn Văn Nhựt, HLV quân sự, giảng viên chính trị.. Cán bộ dẫn đạo và khóa sinh nữ TĐ. 8 Trưng Vương.. sau ba tháng thụ huấn gian khổ bên nhau để cùng tiếp thu một chương trình rất hữu ích.. Thời gian như bóng qua cửa sổ, thấm thoắt đã 49 năm, gần nửa thế kỷ, tuổi đời đã thấp thập cổ lai hy, khi nhớ về dĩ vãng.. kỷ niệm xưa nơi mình đã sinh ra, lớn lên và cống hiến cho đời.. nhớ rừng Chí Linh-Lam Sơn-Hồng Lĩnh,Vũng Tàu đã đào tạo CBXDNT VNCH mà tiêu biểu là xây dựng một “Ấp Đời Mới” cho nông thôn Việt Nam thanh bình, thạnh trị như hình thức “ đem dân về với chính quyền Quốc Gia mà giảm bớt dùng đến súng đạn”. Một chương trình rất hữu ích mà chính người đã học hỏi, va chạm thực tế vẫn còn mơ về “ Ấp Đời Mới năm xưa” đã xây dựng trên một nền tảng đạo đức, một cuộc sống an bình, ấm no thực sự cho nông thôn Việt Nam dù gì chăng nữa vẫn còn được tiếp diễn.”
(Quế Hương. KBC 6258. GĐCB/XDNT8 Bắc Cali)
Kết luận
Những nỗ lực và chính sách bình định và xây dựng nông thôn của thời Đệ Nhất Cộng Hòa là đứng đắn. Việc xử dụng những người kháng chiến cũ cũng như những chương trình Ấp Chiến Lược hoăc những danh xưng khác như Khu Dinh Điền, Khu Trù mật, trở thành chính sách quốc gia. Thời giờ đi kinh lý của ông Diệm có thể nói dành toàn thời gian cho việc đi quan sát các vùng nông thôn, các khu dinh điền hay Ấp Chiến Lược.
Chính sách không sai. Nhưng có thể phần đông giới quân sự Mỹ đặt nạng ưu tiên cho giải pháp quân sự thay vì dân sự như nhận xét của Frank Scotton:
“Sau đó, trong cuộc bàn luậ với ông Heymann và Dick Moorstein, ttoi nói rõ ràng với hai ông rằng, mặc dù có cơ quan điều phối Dân Sự Vụ và Xây Dựng Nông Thôn ( CORDS), giải pháp của chúng ta đối với cuộc chiến vẫn là phân đôi giữa hai nỗ lực “Truy kích cộng sản” và “Bình Định””.
(Frank Scotton, ibid.,, trang 362)
Vấn đề không phải là ưu tiên hoạc tách biệt vấn đề quân sự và dân sự. Vấn đề là thiếu một sự phối trí nhịp nhàng, ăn khớp và bổ túc một cách linh hoạt.
Những cố gắng trở thành thiếu hiệu quả của ông Diệm, Nhu, Cẩn chỉ vì người Mỹ cố vấn thuộc loại cao cấp không hiểu rõ sâu xa tình hinh Việt Nam. Những quyết định trên giấy tờ của họ do những bá cáo từ lầu năm góc chứ không phải từ một thôn xóm nhỏ bé nào đó của Việt Nam.
Sự mâu thuẫn sâu xa giữa chế độ miền Nam bắt đầu từ sự nhận định khác nhau về những đấnh giá tình hình cũng như chính sách đề ra của đôi bên không phù hợp với nhau.
Những người Mỹ đi sát và gần gũi với ông Diệm đều là những người từng trải, có kinh nghiệm về nông thôn như Frank Scotton, Bob Kelly, Bob Wall, Warner, Billy, Harrisson Reed, v.v.. và rất nhiều người khác.
Trong một bữa ăn chung giữa ông Bé, Kelly và Frank Scotton, họ đã thảo luận và đi đến cùng một quan điểm chung như sau:
“Nếu miền Nam muốn là một cá thể chính trị độc lập, không cộng sản, cá thể đó sẽ phải đặt nền tảng trên sự trự trị của các ấp. Ông Kelly và tôi đã tìm được một anh em đồng chí”
(Frank Scotton, ibid.,, trang 229)
Một dòng chót dành cho ông Bé. Câu chuyện là có lần ông Frank Scotton khoe với ông Bé là ông được mời tham gia vào Cercle Sportif Club. Ông Bé trả lời:
“Nếu vào đó chắc, chắc chắn ông sẽ có nhiều bạn, nhưng tôi không phải là một người trong số đó”.
(Frank Scotton, ibid., trang 229)
Thật ra cái nhóm đó chỉ là một hình thức phế thải còn sót lại của chế độ thực dân Pháp dành cho những dân bản xứ có máu mặt, thuộc loại chính trị salon sau này như Dương Văn Minh, Nguyễn Cao Kỳ. Người làm việc cách mạng thực sự thì chỗ đó không phải là chỗ của họ.
Trong một thiệp Giáng Sinh 1967, ông Frank Scotton đã viết như bày tỏ tâm tư của ông:
“Mục đích chính của cuộc đời tôi là giúp thiếu tá Bé. Ngoài cách giúp ông Bé, tôi nghĩ không còn cách nào tốt hơn để giúp hai Quốc gia chúng ta- Tôi tin ông Bé là một người vĩ đại.”
(Frank Scotton , ibid.,, trang 366-367).
Hết.
Ngày 6-10-2017.
© 2017 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net
Nguồn: DCVOnline biên tập và minh hoạ.
NGHĨ LẠI CŨNG HAY
Đúng là ông Mác cũng hay
Đưa ra lý thuyết những ngày còn non
Nhưng rồi sông cạn núi mòn
Người đời hưởng ứng có còn ra sao
Nước Nga phất ngọn cờ đào
Đầu tiên thế giới đi vào Trung Hoa
Thẳng đường cũng tới Việt Nam
Làm nên lịch sử hào hùng một phen
Từ đây sấm dậy đất bằng
Loài người vội vã y rằng chia hai
Bên xanh bên đỏ đều tài
Đánh nhau loảng xoảng lai rai chập chùng
Tuyên truyền cũng thảy thả giàn
Bên nào giỏi mị mới toàn thắng to
Người dân chỉ có thập thò
Tính sao thoát được khỏi lo điều gì
Cuối cùng cũng có ra chi
Liên Xô nhào mẹ còn gì nữa đâu
Từ đây thế giới đổi màu
Đỏ không còn nữa chỉ toàn thành xanh
Đường lên dốc đá loanh quanh
Cuối cùng đi xuống hóa thành thế thôi
Vậy nên nghĩ lại người đời
Hệt như nước chảy có nào khác đâu
Kênh mương vẫn cứ chảy ào
Còn ngoài đồng nội chảy nào cản chi
Tự do khác với độc tài
Nhưng đời vẫn sống đều hài như nhau
Độc tài phải sống co ro
Tự do thì sống khỏe cho mọi điều
Trời sinh quy luật vậy mà
Ai gây cớ sự ai là nạn nhân
Ai gây bao chuyện cù lần
Ai lo giải phóng mọi phần cũng hay
Nhưng rồi tàn cuộc một ngày
Đều lòi ra cả loay hoay làm gì
Khác nhau chỗ sống lâu dài
Kinh qua lịch sử mới thời nhận ra
Bao người chết sớm xót xa
Biết gì sự thật quả là vô duyên
Nên chi nhân loại mọi miền
Chỉ điều chân lý có phiền được ai
Còn như những chuyện ruồi bu
Tranh nhau sai trái đều hư sự tình
Bất công có mãi trên đời
Cũng như nhũng lạm tài nào mà không
Chúng như rác rưởi trên dòng
Nước thì vẫn chảy bộ cần nói sao
Chẳng qua gây cuộc ba đào
Tưởng rằng giải quyết có nào được đâu
Thật thì trâu vẫn là trâu
Cái cày đi trước hoặc là sau lưng
Một thời cách mạng tưng bừng
Cả non thế kỷ cũng chừng ấy thôi
Bởi vì gốc vẫn con người
Có đâu học thuyết mọi điều huyên thiên
Cuộc đời đâu phải thần tiên
Con người đâu phải thánh thiêng được nào
Tại sao dối trá tầm phào
Cuối cùng nước chảy ào ào thảy trôi
Chỉ khi sự thật thấy rồi
Con người mới rõ đâu điều bá vơ
Ai người xấu tốt trên đời
Phải toàn từng trải mới thường nhận ra
NGÀN PHƯƠNG
(16/6/17)