Sài Gòn (hơn) bốn mươi năm hổ thẹn

Minh Võ

Viết nhân 30 năm ngày CSVN chính thức trét tro lên bộ mặt Sài Gòn.

CSVN chính thức trét tro lên bộ mặt Sài Gòn. Đây là sự xấu hổ, là niềm tủi nhục của dân Sài Gòn. Nguồn: NXB Tổng hợp Tp HCM

Một đại tá Công An từng nằm vùng tại miền Nam với nhiệm vụ tình báo và tuyên truyền cho Cộng Sản cho đến tận ngày Sài Gòn thất thủ, trước khi chết (cách nay 4 năm) đã tỉnh ngộ và than với một người bạn nạn nhân CS: Dân tộc Việt Nam bất hạnh vì có một lãnh tụ là ông Hồ Chí Minh. Chúng ta cũng có thể nói: Dân Sài Gòn vô phúc và lấy làm xấu hổ bị gọi là dân thành phố Hồ Chí Minh.

Sài Gòn đã từng được mệnh danh là hòn ngọc Viễn Đông. Sài Gòn từng là thủ đô của Việt Nam Cộng Hoà, trong đó người dân sống an bình, sung túc, tự do. Sài Gòn đã từng là nơi tập trung những đại diện của gần một trăm quốc gia trên thế giới, là nơi mà du khách khắp nơi tuốn đến để chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh của Việt Nam. Ngày 2/7/1976, Sài Gòn ấy bỗng dưng bị cộng sản áp đặt mang cái tên của một kẻ gian hùng.

Hồ Chí Minh là sự xấu hổ, là niềm tủi nhục của dân Sài Gòn. Vì Hồ Chí Minh tượng trưng cho gian trá, xảo quyệt, độc ác, và cực kỳ đạo đức giả. Vì Hồ Chí Minh đã đem máu xương của nhân dân Việt Nam đổi lấy cái hư danh giả dối là anh hùng cứu quốc, “Cha già dân tộc”.

Gian trá
Trước khi đổi tên là Hồ Chí Minh ông ta đã gia nhập, và chẳng những gia nhập mà còn là sáng lập viên đảng Cộng sản Pháp (1920). Sau đó trở thành cán bộ cao cấp của Quốc Tế Cộng sản. Đã được rèn luyện hơn 4 năm tại Liên Xô về các vấn đề chủ nghĩa, chiến lược sách lược đấu tranh giai cấp. Đã được học tập và giảng dậy về tuyên truyền tình báo, gián điệp, về du kích chiến, về kỹ thuật xâm nhập, thao túng, lũng đọan, chiếm lãnh các tổ chức, phong trào phi Cộng sản, để biến chúng thành ra tổ chức Cộng sản,… Nhưng trong rất nhiều trường hợp ông ta đã chối phăng trước những câu hỏi: ông có phải Cộng sản không?

Khi thấy có sự chống đối trong nhân dân, nhất là của các đảng quốc gia phi Cộng sản, và sự nghi ngờ và rút sự ủng hộ của các nước Tây phương, ngày 11/11/1945 ông ta đã tuyên bố láo rằng đảng CS đã được giải tán, nhưng thực tế nó vẫn tồn tại, vẫn sinh họat đều đặn và không ngừng tuyển thêm đảng viên. Hội nghiên cứu Mác Xít, rồi đảng Lao Động chính là đảng CS thay tên, đổi áo. Đến khi toàn thắng, đảng CS đã trở lại cái tên cũ. Lịch sử đảng  Cộng sản cũng không màng giấu giếm điều đó nữa. Tóm lại Việt Nam Cộng sản đảng, rồi Đông Dương Cộng sản đảng, hay hội nghiên cứu Mác-xít, đảng Lao Động, đảng nhân dân Cách Mạng (riêng tại miền Nam) và đảng Cộng sản Việt Nam sau cùng tất cả đều chỉ là một. Như vậy suốt nhiều thập kỷ ông Hồ đã trắng trợn nói dối quốc dân, đánh lừa dư luận thế giới.

Xảo quyệt
Con người có cả trăm tên và bút danh, bí danh, như chính ông ta viết. Con người có tới 2 ngày chết khác nhau, ngày sinh không biết chính thực là ngày nào, năm sinh mỗi lúc khai một khác, có tất cả năm cái. Tại sao lại phải giấu đút, man khai như vậy? Nếu không phải để mưu đồ chuyện mờ ám? Tại sao lại chiếm bút danh của 4 nhà ái quốc ở Pháp? Tại sao lại xâm nhập, lợi dụng, rồi thao túng, biến tổ chức yêu nước phi cộng sản thành ra tổ chức CS? Những Tâm Tâm Xã của các đồ đệ của nhà cách mạng Phan Bội Châu, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của cụ Hồ Học Lãm… đã bị chiếm đọat, chiếm danh.

Cựu hoàng Bảo Đại, giám mục Lê Hữu Từ được ông Hồ phong là cố vấn tối cao chỉ với mục đích lợi dụng uy tín hai vị này hòng lôi kéo sự ủng hộ của nhân dân, của người Mỹ và đánh lừa dư luận thế giới.

Cố nài nỉ để các đảng Việt Quốc (VNQDĐ) Việt Cách (MNCMĐM) đứng chung trong chính phủ liên hiệp để rồi sau đó tìm cách triệt hạ uy tín, thậm chí tiêu diệt luôn.

Ký hiệp định sơ bộ 6/3/46 rước Pháp vào để đuổi Trung Hoa Quốc Dân Đảng đi, vì mục đích thâm độc là đánh bật một chỗ tựa của các đảng phái quốc gia phi CS, ngỏ hầu sau đó dùng chính quân Pháp đánh phá các đảng quôc gia phi CS.

Ve vãn người Mỹ, dùng cả lời lẽ trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ, của Pháp đưa vào bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/45 hòng mua chuộc, gây cảm tình và đánh lừa nhân dân các nước tự do dân chủ, nhưng cuối cùng để lợi dụng lòng tốt và sự thiếu hiểu biết của nhân dân Việt Nam và các nước đó, làm chuyện trái ngược, là đưa nhân dân VN vào cuộc chiến chống lại chính nhân dân Việt Nam không thích CS, và toàn thể thế giới Tự Do trong đó có Pháp và Mỹ là những đồng minh của người Việt tự do phi CS. Và cuộc chiến chống nhân VN tự do đó nằm trong một cuộc chiến, bề ngoài tưởng có mục đích dành độc lập, nhưng thực sự là chống chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tự do của thế giới tự do, nhắm mục tiêu cuối cùng là tiêu diệt “tư bản”, mà thực ra là tiêu diệt mọi giai cấp không theo CS, để thiết lập chuyên chính vô sản cho Quốc Tế Cộng Sản, mà cụ thể là cho Liên Xô.

Độc ác, tàn nhẫn
Không có tài liệu nào nói ông Hồ đích thân cầm vũ khí giết ai. Cũng không thấy có tài liệu chính thực nào ghi ông ra lệnh hành quyết đích danh người nào. Nhưng chính ông với tư cách chủ tịch nước đã ký các sắc lệnh 149/SL và 151/SL và chính thức ban hành ngày 19/12/1953 cho tiến hành chiến dịch cải cách ruộng đất với những cuộc đấu tố long trời lở đất, khiến hàng chục vạn người bị hành quyết tại chỗ, sau khi bị toà án nhân dân – một thứ luật rừng dã man, chưa từng thấy trong lịch sử – quyết định những ai phải chết. Cũng trong cải cách ruộng đất, hàng chục vạn người khác bị cô lập, không có phương tiện sinh sống bị chết dần chết mòn. Những nhà viết sử chân chính như Hoàng Văn Chí và cả tổng thống Mỹ Richard Nixon ước lượng có nửa triệu người chết và chính Võ Nguyên Giáp cũng khẳng định có 2 vạn người bị giết oan. Oan theo họ Võ là những đảng viên có công với cách mạng. Còn oan ngoài đảng thì bao nhiêu, ông ta không nói.

Ban ra một sắc lệnh để nửa triệu người bị giết là một tội ác cực kỳ nghiêm trọng. Nhưng nếu đi vào chi tiết, thì vụ hành quyết đầu tiên trong cải cách ruộng đất nhắm vào bà Nguyễn Thị Năm, tục gọi bà Cát Thanh Long, từng là ân nhân của các cán bộ cao cấp nhất của đảng, có hai con đi bộ đội kháng chiến còn cho thấy lòng dạ ông Hồ tàn ác đến mức nào. Là chủ tịch nước, chủ tịch đảng, nắm trọn quyền hành tối cao, ông đã giả dối tuyên bố sẽ can thiệp để bà ta khỏi bị giết, nhưng cuối cùng bà này vẫn bị bắn.

Sự tàn ác của ông Hồ còn nhắm cả vào những đồng chí của ông, vào những nhà cách mạng dân tộc phi cộng sản không kể xiết.

Chỉ cần nêu một việc ông ta để đàn em là Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng An Ninh hãm hiếp rồi thủ tiêu cô Nông Thị Xuân, đã có con với ông, coi như vợ chưa cưới, lén lút, chỉ vì cô này xin ông cho công khai hóa cuộc hôn nhân vụng trộm.

Con người không nương tay giết nửa triệu dân, nhẫn tâm giết người đầu gối tay ấp của mình, dù đã có với mình một đứa con (nay hãy còn sống tại Hà Nội, mang tên Vũ Tất Trung. Vũ là họ của bố nuôi, Vũ Kỳ bí thư của ông Hồ. Nhưng trước đó ông đã đặt tên con là Nguyễn Tất Trung, chữ gắn chặt với chữ Thành là tên khai sinh của ông.) mà lại được CS tuyên truyền là người có lòng nhân ái, khoan hoà không hiếu chiến?

Đạo Đức Giả
Như vậy chẳng phải là cực kỳ đạo đức giả sao? Cho đến nay chuyện ông Hồ có nhiều vợ, nhiều người tình không còn là điều bí mật nữa. Ngoài trường hợp bi thảm của cô Xuân này ra, còn những Nguyễn Thị Minh Khai, Đỗ thị Lạc, Tăng Tuyết Minh, Tuyết Cần, Li Sam, Brierre, Vera Vasilieva, v.v. đã đi vào đời ông Hồ. Đó là chưa kể những “người đàn bà sa đọa” ở Liên Xô như một cựu đồng chí của ông là Manabendra N. Roy một đảng viên Ấn Cộng đã tiết lộ, hay ở Pháp ở Anh là những nơi vấn đề mua dâm không khó khăn gì. Việc quan hệ trai gái ngoài hôn nhân, hay chuyện tình cảm kín đáo chẳng đáng lấy làm quan trọng, như Bùi Tín hay William Duiker đã viết về những chuyện lăng nhăn của ông Hồ. Nhất là khi họ nêu vấn đề này thì đang xảy ra chuyện lăng nhăng của những vị tai to mặt lớn nhất của Mỹ (T.T. Bill Clinton) và của Pháp (T.T. Francois Mitterand).

Nhưng cái quan trọng, cái đáng nói là trong khi xảy ra những chuyện lăng nhăng đó, thì ông và đảng Cộng sản của ông luôn luôn giấu nhẹm đi để đề cao ông là người hết lòng vì dân đến nỗi đã hy sinh mọi tình cảm riêng tư và hạnh phúc gia đình cho đất nước. Thậm chí còn ca tụng ông như bậc thánh sống. Đấy là sự giả dối, là sự đạo đức gỉa vĩ đại.

Tưởng không cần phải nhắc lại chuyện ông thường có hai bao thuốc lá trong túi. Khi có người khác thì ông hút thuốc nội, còn khi vắng thì ông hút thuốc ngọai. Cũng khỏi cần nói đến chuyện ông không ở dinh sẵn có dành cho một nguyên thủ quốc gia, mà lại bắt phải làm thêm một ngôi nhà gỗ bên cạnh làm phủ chủ tịch, khiến cho những quốc khách đến thăm phải ngượng ngùng trước cảnh giả tạo khôi hài. Những ví dụ về sự đạo đức giả của ông Hồ thì kể ra không hết.

Nhưng không thể không nói đến chuyện ông viết sách (dưới bút hiệu Trần Dân Tiên) tự đề cao là “cha già dân tộc”, nhưng lại khen mình là vô cùng khiêm tốn vân vân. Chuyện này ông đã cố giấu cho đến khi chết. Ông còn chỉ đạo đàn em không được tiết lộ. Nhưng sau khi đã chiếm được cả nước, biết không còn gì phải sợ nữa, đảng CS mới thú nhận Trần Dân Tiên đích thị là bút danh của “bác”.

Đã đến lúc dân Sài Gòn ngẩng cao đầu hất nhào cái nhãn hiệu Hồ Chí Minh đó đi,

Một con người gian trá, xảo quyệt, tàn ác, lại mang bộ mặt giả nhân giả nghĩa, tự đề cao mình là nhân ái, ôn nhu, là “Cha già dân tộc”, như vậy có đáng cho dân Sài Gòn nhận làm ân nhân của mình không? Không một kẻ nào, dù là gì gì đi nữa cũng không bao giờ được làm “Cha” một dân tộc! Không! Dân tộc là vĩnh viễn, cao quý, là trên hết, là tối thượng. Một cá nhân, thậm chí có vĩ đại bao nhiêu đi nữa thì cũng chỉ là một thành phần bé nhỏ của dân tộc. Huống hồ là Hồ CHí Minh như chúng ta đã biết! Đây là một sự nhục nhã, tủi hổ.

Kết luận, đã 30 năm rồi, Hồ Chí Minh là nỗi hổ thẹn của Sài Gòn, của cả dân tộc với hàng ngàn năm văn hiến. Đã đến lúc dân Sài Gòn ngẩng cao đầu hất nhào cái nhãn hiệu Hồ Chí Minh đó đi, để mở mắt cho toàn dân và cả thế giới thấy rõ cội nguốn tai họa của dân tộc chính là xuất phát từ một con người gian trá, xảo quyệt, tàn ác và đại giả hình đó.

Nam California, 2/7/1976 – 6/2006

Sài Gòn. Nguồn: OntheNet

© 2006-2018 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: DCVOnline minh họa và biên tập. Đăng lần đầu ngày 28 tháng Sáu 2006.