Phát minh sắc trắng: trường thiên lịch sử của một khái niệm nguy hiểm
Robert P. Baird | Trần Giao Thủy dịch
Trước thế kỷ 17, người ta không nghĩ mình thuộc về một thứ gọi là chủng tộc da trắng. Nhưng một khi khái niệm đó ra đời, nó đã nhanh chóng bắt đầu định hình lại thế giới hiện đại
Vào năm 2008, một blog châm biếm tên là Stuff White People Like đã trở thành một hiện tượng ngắn ngủi nhưng gây xúc động dữ dội. Sự kiêu ngạo rất đơn giản, kết hợp một danh sách 136 tiết mục, về những thứ mà người da trắng thích làm hoặc có, với những miêu tả giả dân tộc học giải thích sự hấp dẫn về chủng tộc có chủ đích của mỗi mục. Dù một số mục hơi quá lộ liễu – nhạc indie ở vị trí thứ 41, phim của Wes Anderson ở vị trí thứ 10 – những tiết mục khác, gồm “awareness” (# 18) và “children’s games as adults” (# 102), đã truyền cảm hứng. Trang blog đó nổi tiếng ngay lập tức. Chỉ trong hai tháng đầu tiên, Stuff White People Like đã thu hút 4 triệu lượt người truy cập và không lâu sau một cuốn sách dựa trên trang blog này đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất của New York Times.
Người sáng lập blog là một diễn viên nói chuyện khôi hài đầy tham vọng và đã bỏ dở học trình Tiến sĩ tên Christian Lander, từng làm việc như một người viết quảng cáo ở Los Angeles khi ông ta bất chợt có hứng làm trang web. Trong các cuộc phỏng vấn, Lander luôn xác nhận rằng sự châm biếm của ông ít nhất cũng liên quan đến giai cấp cũng như đối với chủng tộc. Năm 2009, Lander nói, mục tiêu của trang blog là những người thành thị có học nhiều quá như ông ta. Tuy nhiên, không còn chút nghi ngờ nào sự nổi tiếng của trang blog, phụ thuộc vào tính hài hước của nó trên giả định rằng màu da trắng [hay sắc trắng] là một nhận dạng mặc định không có nội dung, có liên quan nhiều đến câu thần chú thẳng thắn về chủng tộc của nó. Lander nói,
“Là một người da trắng, chúng ta liều mạng muốn tìm một thứ gì đó khác để bám lấy. Khá nhiều người da trắng cùng thế hệ với tôi đều ước mong họ lớn lên trong một gia đình người thiểu số để họ có thể có một ngôn ngữ thứ hai.”
Christian Lander
Nhìn lại Stuff White People Like hôm nay, điểm chỉ dấu tuổi của trang blog không phải là những đặc điểm trớ trêu của nó, cũng không phải là những mục tiêu tổng quát chung của nó. Vẫn còn rất nhiều người da trắng dư quá nhiều thời gian và quá nhiều thu nhập khả dụng trong tay, và nhiều người đó vẫn thích yoga (# 15), xe Vespa (# 126) và “nhạc da đen mà người da đen không còn nghe nữa” (# 116).
Tuy nhiên, điều đã thay đổi – đã thay đổi theo những cách mà Stuff White People Like lão hóa một cách không thể nhầm lẫn – là bối cảnh văn hóa. Mười năm trước, màu da trắng tràn ngập nền văn hóa chính thống như một màn sương mù: mặc dù phổ biến đến mức nổi tiếng ở mọi nơi, nó hầu như không có gì là đặc trưng. Khi những loại sắc trắng mà Lander đang viết cho và viết về nói về việc là người da trắng, các cuộc trò chuyện của họ có khuynh hướng trải dài trong một không gian hẹp giữa sự biện hộ và vụng về. Nếu họ không thực sự cố gắng phân biệt bản sắc chủng tộc của họ và các đặc quyền đi kèm với nó, họ cũng không háo hức công khai đón nhận hoặc thậm chí thảo luận về nó.
Trong những năm sau đó, đặc biệt là trong số những người có thể đã từng coi mình là người hâm mộ blog của Lander, tầm quan trọng công khai của màu da trắng đã được đánh giá lại gần như hoàn toàn. Không còn là điểm nhấn cho một trò đùa gây lo lắng, xúc động, màu da trắng bây giờ được viện dẫn một cách tha thiết, như chủ nghĩa tân tự do hoặc chủ nghĩa dân túy, như một động lực chính của các vấn đề văn hóa và chính trị. Trong khi Lander có thể đã có sách bán chạy nhất năm 2008 chế giễu sắc trắng là một thứ văn hóa nhạt nhẽo mà tội lớn nhất là khôngcó gì thú vị, thì chỉ 9 năm sau Ta-Nehisi Coates đã có cuốn sách bán chạy của riêng mình mô tả tính da trắng là “mối nguy hiểm hiện sinh cho Mỹ và thế giơi”.
Tất nhiên, phần lớn sự thay đổi liên quan đến Donald Trump, người mà như Coates đã nói, “màu da trắng không phải là hư cấu hay biểu tượng, mà là cốt lõi của quyền lực của ông ấy”. Nhưng đó không chỉ là Trump. Sắc trắng đã liên quan đến các sự kiện ở cả hai bờ Đại Tây Dương, gồm cả Brexit; vụ xả súng hàng loạt ở Na Uy, New Zealand và Mỹ; vụ giết George Floyd và Breonna Taylor; và cuộc nổi loạn ngày 6 tháng 1 tại Điện Capitol Hoa Kỳ. Cùng với những biến cố trong thế giới thực này, một mùa bội thu về học thuật, báo chí, nghệ thuật và văn học – của Coates, Nell Irvin Painter, Jordan Peele, Eric Foner, Ava DuVernay, Adam Serwer, Barbara và Karen Fields, Kevin Young, David Olusoga, Nikole Hannah-Jones, Colson Whitehead và Claudia Rankine, trong số nhiều người khác – đã thúc đẩy việc xét lại vấn đề chủng tộc da trắng có ý nghĩa quan trọng nhất trong 50 năm qua.
Việc tính toán này, như đôi khi được gọi, đã có những tác động có thể đo lường được. Trong một cuộc thăm dò của Pew vào tháng 10 năm ngoái, gần một phần ba người Mỹ da trắng nói rằng sự chú ý gần đây đến các vấn đề chủng tộc cho thấy một “sự thay đổi lớn” trong thái độ của người Mỹ về chủng tộc – 45% khác nói rằng đó là một “thay đổi nhỏ” – và gần một nửa tin rằng những thay đổi đó sẽ dẫn đến các chính sách cải tiến tình trạng bất bình đẳng chủng tộc. Tại Vương quốc Anh, một cuộc thăm dò của YouGov từ tháng 12 cho thấy rằng hơn một phần ba người Anh cho hay rằng họ đang có nhiều cuộc thảo luận về phân biệt chủng tộc hơn so với trước đây.
Đồng thời, sự tập trung mới này vào vấn đề người da trắng đã gây ra nhiều sự bối rối và kinh ngạc, đặc biệt là ở những người da trắng không quen nghĩ về mình theo khía cạnh chủng tộc. Cuộc thăm dò của Pew cho thấy một nửa số người Mỹ da trắng nghĩ rằng đã có “quá nhiều” cuộc thảo luận về các vấn đề chủng tộc và một tỷ lệ tương tự cho thấy rằng việc phân biệt chủng tộc ở nơi nó không có là một vấn đề lớn hơn là không thấy phân biệt chủng tộc ở nơi nó xảy ra.
Điều mà các cuộc tranh luận gần đây đã chứng minh hơn bất cứ điều gì, có lẽ, là vẫn còn rất ít sự đồng thuận về sắc trắng là gì và nó phải như thế nào. Gần như ở khắp mọi nơi trong xã hội đương đại, “người da trắng” được coi là một chỉ số căn cước có ý nghĩa, như tuổi tác và giới tính, đủ quan trọng để được đề cập trong các bản tin, được đưa vào các cuộc thăm dò chính trị và được ghi lại trong cơ sở dữ liệu của chính phủ. Tuy nhiên, những gì mà căn cước đó được cho là cho chúng ta biết về cơ bản vẫn còn nhiều tranh chấp. Theo nhiều cách, sắc trắng giống với thời gian như Thánh Augustine đã thấy: chúng tôi cho rằng chúng tôi hiểu nó miễn là chúng tôi không được yêu cầu giải thích nó, nhưng nó sẽ trở nên không thể giải thích ngay khi chúng tôi được yêu cầu giải thích.
Hơn một thế kỷ trước, trong bài tiểu luận Linh hồn của người da trắng, nhà xã hội học và nhà phê bình xã hội WEB Du Bois đã đề nghị điều vẫn được xếp hạng là một trong những hiểu biết sâu sắc và bền vững nhất về bản sắc chủng tộc mà chúng ta gọi là người da trắng:
Mặc dù cực đoan trong thời đại của nó, nhưng đánh giá của Du Bois về cái mà ông gọi là “tôn giáo mới của sắc trắng” – một tôn giáo được thành lập dựa trên giáo điều “trong tất cả các màu của Chúa, chỉ riêng màu [da] trắng là vốn có và rõ ràng là tốt hơn màu nâu và rám nắng” – sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến cách các sử gia và các học giả khác hiểu về bản sắc chủng tộc. Một phần điều này liên quan đến sự khăng khăng của ông rằng một chủng tộc như người da trắng giống với một niềm tin tôn giáo hơn là một sự thật sinh học. Du Bois bác bỏ quan niệm, vẫn còn phổ biến vào thời của ông, rằng các chủng tộc phản ảnh sự phân chia tự nhiên trong nhân loại – cũng như hệ quả gần như không thể tránh khỏi rằng các đặc điểm thể chất, tinh thần và ứng xử liên quan đến chủng tộc da trắng là những đặc điểm được các xã hội hiện đại đánh giá cao nhất.
Đó cũng là quan điểm của Thomas Jefferson, người đã cố gắng phác họa “sự khác biệt thực sự mà tự nhiên đã tạo ra” giữa các chủng tộc, trong Ghi chú của ông về Tiểu bang Virginia, xuất bản lần đầu năm 1781. Đó cũng là quan điểm việc đó sẽ xuất hiện, ít nhất là ở dạng loãng đi, hai thế kỷ sau trong Biểu diễn hình chuông của Charles Murray và Richard J Herrnstein, xuất bản vào năm 1994. Murray và Herrnstein cho rằng lời giải thích “hợp lý nhất” cho sự khác biệt giữa dân số da đen và da trắng được ghi lại trên các bài kiểm IQ là “một dạng hỗn hợp giữ gen và môi trường” – nói cách khác, ít nhất một số khác biệt là do sự khác biệt tự nhiên.
Vào thời điểm The Bell Curve xuất hiện, Du Bois khẳng định rằng các phân loại chủng tộc không có cơ sở sinh học đã được nhiều người chấp nhận. Kể từ đó, bằng chứng khoa học cho sự hiểu biết đó ngày càng trở nên quá nhiều. Một nghiên cứu năm 2017 đã kiểm định DNA của gần 6.000 người từ khắp nơi trên thế giới và thấy rằng dù có một số khác biệt di truyền giữa con người có thể bắt nguồn từ các dòng họ tổ tiên khác nhau – ví dụ: Đông Phi châu, Nam Âu hoặc vùng quanh cực – không có dòng họ nào trong số DNA đó tương ứng với những quan niệm truyền thống về chủng tộc.
Nếu ngày nay đã đủ dễ dàng để nhiều người chấp nhận rằng da trắng là một hiện tượng xã hội học thuần túy – vẫn còn một số trong xã hội quan niệm rằng “chủng tộc là một cấu trúc xã hội” đã trở thành một sáo ngữ – điều tương tự không thể nói đối với gợi ý của Du Bois rằng sắc trắng là một điều tương đối mới trong lịch sử loài người. Và cũng giống như trong trường hợp khoa học di truyền, trong nửa sau của thế kỷ 20, một số sử gia đã chứng minh rằng dù Du Bois đã lệch vài trăm năm, ông đã đúng rằng chỉ trong thời kỳ hiện đại, con người mới bắt đầu nghĩ về bản thân họ thuộc về một thứ gọi là chủng tộc da trắng.
Tất nhiên, điều quan trọng là không nên phóng đại hóa: sự phát triển quan niệm về sắc trắng rất lộn xộn và thường không rõ ràng. Như sử gia Nell Irvin Painter đã cảnh cáo, “bản sắc da trắng không chỉ bắt đầu hồi sinh cho cuộc sống toàn diện và bất biến.” Nó có những tiền nhân quan trọng gồm ý thức ngày càng tăng về bản sắc toàn châu Âu; các hiệp hội văn hóa lâu đời coi sắc trắng là biểu tượng của sự thuần khiết và đức hạnh; và chủ nghĩa dân tộc tiêu chuẩn không có thật.
Tuy nhiên, với độ chính xác hơi phóng đại, chúng ta có thể nói rằng một trong những phát triển quan trọng nhất trong việc “khám phá ra sắc trắng của cá nhân” đã diễn ra vào nửa sau của thế kỷ 17, ở vùng ngoại vi của đế chế Anh vẫn còn non trẻ. Hơn nữa, các sử gia như Oscar và Mary Handlin, Edmund Morgan và Edward Rugemer phần lớn đã xác nhận sự nghi ngờ của Du Bois rằng trong khi chủ nghĩa bài ngoại dường như khá phổ biến trong mọi nhóm người, phát minh ra bản sắc chủng tộc da trắng ngay từ đầu đã được thúc đẩy bởi nhu cầu biện minh cho sự nô lệ người châu Phi. Theo lời của Eric Williams, một sử gia, người sau này trở thành thủ tướng đầu tiên của Trinidad và Tobago,
Nếu hỏi một người Anh vào đầu thế kỷ 17 ông ấy da màu gì, thì rất có thể ông ta đã gọi nó là da trắng. Nhưng làn da trắng của ông ta không phải là một phần của căn cước tập thể hơn là cái mũi tròn trịa hay cái đầu hói của ông ta. Nếu yêu cầu ông ấy tự định vị trong biên giới đang mở rộng nhanh chóng của thế giới đã biết, ông ấy có thể sẽ tự nhận mình, trước tiên và tự nhiên nhất, là một người Anh. Nếu phạm trù đó tỏ ra quá hẹp – giả sử, ông ta cần phải mô tả những điểm chung của ông ta với người Pháp và người Hòa Lan mà ông ta không chia sẻ với người Ottoman hoặc người Châu Phi – thay vào đó, ông ta gần như chắc chắn sẽ tự gọi mình là một Cơ đốc nhân.
Bản sắc tôn giáo đó rất quan trọng đối với sự phát triển của việc buôn bán nô lệ ở Anh – và cuối cùng là sự phát triển khái niệm chủng tộc người da trắng. Vào đầu thế kỷ 17, các chủ đồn điền ở Tây Ấn và các thuộc địa của Mỹ phần lớn phụ thuộc vào sức lao động của những người hầu cận nhập cảng từ châu Âu. Những người hầu này bị coi là động sản và thường bị đối xử tàn nhẫn – điều kiện sống của họ ở Barbados, thuộc địa giàu có nhất của Anh, đã khét tiếng – nhưng họ may mắn ở một khía cạnh nào đó: bởi vì họ theo đạo Thiên Chúa, theo luật họ không thể bị giam cầm suốt đời trừ khi họ là tội phạm hoặc tù nhân chiến tranh.
Người châu Phi không được hưởng đặc ân như vậy. Họ được hiểu là những kẻ ngoại đạo, và do đó là “kẻ thù truyền kiếp” của các quốc gia Cơ đốc giáo, khiến việc bắt họ làm nô lệ là hợp pháp. Vào khoảng năm 1640, sự đối xử thô bạo đối với những người hầu cận đã bắt đầu làm giảm nguồn cung của những người châu Âu sẵn sàng làm việc ttại các đồn điền đường và thuốc lá, và do đó, những người thực dân ngày càng xét đến chế độ nô lệ, và lỗ hổng cỡ Đại Tây Dương đã cho phép họ làm như vậy, để duy trì những hoạt động sinh lời tuyệt vời của họ nhờ sức lao động của người nô lệ.
Những người chủ đồn điền hiểu rất rõ rằng sự đối xử tàn nhẫn của họ đối với những người châu Âu nhập cảng, và thậm chí cách đối xử tàn nhẫn của họ đối với những người nô lệ châu Phi có thể dẫn đến suy nghĩ trả thù – hoặc tệ hơn – là hành động trả thù. Vì là thiểu số so với người nô lệ, họ sống trong nỗi sợ hãi thường xuyên về các cuộc nổi dậy. Họ đặc biệt lo sợ về những biến cố như Cuộc nổi dậy của Bacon, vào năm 1676, khi đó những người châu Âu nhập cảng đã chiến đấu sát cánh với những người châu Phi tự do và người nô lệ chống lại chính quyền thuộc địa của Virginia.
Để ngăn chặn những biến cố như vậy, ban đầu các chủ đồn điền tìm cách tự bảo vệ bằng cách trao cho những người hầu cận “Cơ đốc giáo” của họ những đặc quyền hợp pháp không dành cho những nô lệ “người da đen”. Hy vọng mua chuộc được lòng trung thành của những người châu Âu nhập cảng bằng một loạt các đặc quyền, tuy ít ỏi, đặt họ cao hơn những người châu Phi nô lệ. Vào cuối thế kỷ 17, kế hoạch này đã co thấy có một sự thay đổi đáng kể: nhiều luật điều chỉnh ứng xử của nô lệ và người hầu – chẳng hạn như Đạo luật Người hầu năm 1681 ở Jamaica, sau đó được sao chép để sử dụng ở Nam Carolina – bắt đầu mô tả giai cấp đặc quyền là “người da trắng” chứ không phải là “Cơ đốc nhân”.
Một trong những lời giải thích hợp lý nhất cho sự thay đổi này của Rugemer và sử gia Katharine Gerbner, trong số những người khác, đưa ra là việc xác lập sắc trắng như một phạm trù pháp lý đã giải quyết được tình thế tiến thoái lưỡng nan về tôn giáo. Vào những năm 1670, các nhà truyền giáo Cơ đốc, gồm cả Quaker George Fox, đã khăng khăng rằng những người Châu Phi bị nô lệ nên được đưa vào đức tin Cơ đốc. Vấn đề này đặt ra cho những người chủ đồn điền rất rõ ràng: nếu những người lao động châu Phi của họ trở thành Cơ đốc nhân, và không còn là “kẻ thù truyền kiếp” của Kitô giáo nữa, thì họ có thể bị bắt làm nô lệ trên cơ sở pháp lý nào? Và còn những luật lệ thuộc địa dành cho những người theo đạo Thiên Chúa những đặc quyền, những luật lệ mà các tác giả của họ dường như chưa bao giờ nghĩ đến khả năng một ngày nào đó người châu Phi có thể gia nhập đức tin?
Các chủ đồn điền đã cố gắng giải quyết tình thế tiến thoái lưỡng nan trước đây bằng cách ngăn chặn việc cải đạo của những người châu Phi bị nô lệ, với lý do, như Hội đồng Barbados đưa ra vào năm 1680, rằng việc chuyển đổi như vậy sẽ “gây nguy hiểm cho hòn đảo, vì những người da đen được vào đạo ngày càng trở nên đồi bại và khó chữa hơn những người khác”. Khi điều đó không có hiệu quả (Giám mục London phản đối) thay vào đó, họ đã thông qua luật bảo đảm rằng không thể viện dẫn lễ rửa tội làm cơ sở để tìm tự do.
Nhưng câu hỏi thứ hai, về những đặc quyền dành cho Cơ đốc nhân, đòi hỏi những người thực dân phải suy nghĩ theo một cách mới. Bản sắc tôn giáo của họ không còn có thể tách họ và những người hầu của họ khỏi những người châu Phi nô lệ. Do đó, họ sẽ cần cái mà Morgan gọi là “lưới lọc sự khinh rẻ chủng tộc”. Do đó, họ cần bắt đầu nghĩ họ là người da trắng.
Vào cuối năm 1694, một thuyền trưởng tàu nô lệ vẫn có thể đặt câu hỏi về logic chủng tộc mới được dùng để biện minh cho việc buôn bán nô lệ của mình.
(Thomas Phillips đã viết trong nhật ký, “Tôi không thể nghĩ rằng có bất kỳ giá trị thực chất nào ở màu này nhiều hơn màu khác, cũng không phải màu trắng tốt hơn màu đen, chỉ có điều chúng ta nghĩ như vậy bởi vì chúng ta là như vậy.”)
Nhưng sắc trắng chóng được chứng minh chính nó là một vũ khí mạnh cho phép chủ nghĩa tư bản xuyên Đại Tây Dương bảo đảm có đủ lao động – “người da trắng” và người châu Phi – nó cần. Như sử gia Theodore Allen đã nói,
“Giai cấp tiểu tư sản chủ đồn điền cố tình mở rộng địa vị đặc quyền cho người nghèo da trắng thuộc mọi thành phần như một phương tiện để chuyển sang chế độ nô lệ châu Phi như là cơ sở của hệ thống sản xuất của nó.”
Theodore Allen
Lợi ích kinh tế của khái niệm sắc trắng đã giúp nó lan truyền nhanh chóng trên khắp thế giới. Du Bois đã không sai khi gọi nó là một tôn giáo, vì cũng giống như một tôn giáo, nó hoạt động ở mọi tầm mức tâm lý, xã hội học và chính trị, từ chỗ kín đáo nhất đến nơi công khai nhất. Giống như một tôn giáo, nó cũng thích nghi với điều kiện địa phương. Ý nghĩa của màu trắng ở Virginia thuộc Anh không giống với ý nghĩa của nó ở New York trước cuộc nội chiến Hoa Kỳ, ở Ấn Độ trong thời kỳ Raj, ở Georgia trong thời Jim Crow, ở Úc sau Liên bang, hoặc ở Đức trong Đệ tam Đế chế. Nhưng điều kết hợp tất cả những biểu hiện này là một khái niệm kỳ lạ: rằng một số nhóm người được gọi là da trắng tự nhiên vượt trội hơn tất cả những người khác. Như Benjamin Disraeli, thủ tướng Victoria và một trong những nhà tư tưởng chủng tộc kiên quyết nhất trong thời đại của ông, đã nói,
Nói cách khác, khái niệm về sắc trắng giống hệt với quan điểm về sắc trắng thượng đẳng. Trong ba thế kỷ trước phong trào dân quyền, giả định này đã được chấp nhận ở những mức độ văn hóa tinh tế nhất, do những người, trong bối cảnh khác, là một trong những tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ nhất cho tự do và bình đẳng của con người. Ai cũng biết rằng Immanuel Kant đã lập luận rằng chúng ta nên đối xử với mọi người khác “luôn luôn đồng thời là mục đích và không bao giờ chỉ là phương tiện”. Ít được biết đến hơn là đề nghị của ông, trong Bài giảng về địa lý vật lý, xuất bản năm 1802, rằng “nhân loại đạt đến độ chân thiện mỹ cao nhất trong chủng tộc người da trắng”, hoặc tuyên bố của ông, trong ghi chú cho Bài giảng về Nhân chủng học, người bản địa “ở Mỹ và Người da đen không thể tự cai trị. Như vậy, chỉ có thể phục vụ như nô lệ”.
Ngay cả Gandhi, trong thời gian đầu của cuộc đời ông, đã chấp nhận lời nói dối căn bản về người da trắng, lập luận rằng “người Anh và người da đỏ sinh ra từ cùng một gốc, gọi là Indo-Aryan” và rằng “chủng tộc da trắng ở Nam Phi nên là chủng tộc thống trị”.
Như thể ý thức được lương tâm của chính họ đang cắn rứt, các nhà truyền giáo của tôn giáo sắc trắng luôn liều mạng chứng minh rằng đó là một việc gì đó khác chứ không phải là thành kiến. Nơi mà Kinh thánh vẫn còn dùng để thay đổi, bẻ cong câu chuyện về Ham, con trai của Nô-ê thành một lời biện hộ thần thánh cho quyền thượng đẳng của người da trắng. Khi giải phẫu học và nhân chủng học đạt được uy tín trong thế kỷ 18 và 19, họ đã trích dẫn các dấu hiệu giả khoa học về sự khác biệt chủng tộc như chỉ số cephalic và chỉ số tiêu chuẩn của xương trán. Khi tâm lý học chiếm lĩnh thế kỷ 20, họ tự kể những câu chuyện tâng bốc về sự khác biệt trong chỉ số IQ.
Với tất cả những thành công hiển nhiên của họ, những tín đồ của tôn giáo sắc trắng đã không bao giờ có thể đạt được tầm nhìn toàn diện mà họ hằng mong ước. Một phần, nó như thế là do luôn có những người bất đồng chính kiến – gồm cả những người muốn hưởng lợi nhờ nó – những người bác bỏ tín điều về ưu thế chủng tộc. Cùng với những người được lịch sử ghi nhớ – Elizabeth Freeman, Toussaint Louverture, Harriet Tubman, sit Bull, Franz Boas, Haviva Reik, Martin Luther King Jr, Nelson Mandela – có hàng triệu người nay đã bị lãng quên, đã dùng bất cứ phương tiện nào họ có để chống lại nó. Lại nữa, một phần, logic vô nghĩa quy định ranh giới của sắc trắng – quy tắc một giọt ở Mỹ, vốn nói rằng bất kỳ ai có tổ tiên là người Da đen đều không thể là người da trắng; những cuộc tranh cãi vô tận về “người da trắng” là gì; địa vị “Aryan danh dự” mà Hitler ban cho người Nhật – không phù hợp với sự phức tạp quá mạnh của xã hội loài người.
Tuy nhiên, nếu tôn giáo sắc trắng không bao giờ được chấp nhận như một sự thật khoa học không thể chối cãi, thì nó vẫn rất thành công trong việc định hình thực tế xã hội. Một số thành công này có được nhờ vào tính linh hoạt của nó. Nhờ vai trò của nó trong việc tạo điều kiện cho chế độ nô lệ, người da trắng ở Mỹ thường được định nghĩa đối lập với người da đen, nhưng giữa hai thái cực đó là không gian của những biện pháp chiến thuật. Năm 1751, Benjamin Franklin có thể tuyên bố rằng chỉ có người Anh và người Saxon mới “tạo nên khối chính của Người da trắng trên Mặt đất”, và gần 80 năm sau, Ralph Waldo Emerson khẳng định rằng người Ireland, giống như người Trung Hoa và người bản địa ở Mỹ, không phải là người da trắng. Tuy nhiên, theo thời gian, định nghĩa về những người được coi là người da trắng về mặt văn hóa được mở rộng để gồm cả những người Công giáo từ miền nam châu Âu, người Ireland và thậm chí cả người Do Thái, những người trong nhiều thế kỷ được coi là những người ngoại lai tinh túy.
Tôn giáo sắc trắng cũng thành công khi thuyết phục những người theo đạo của mình rằng họ, chứ không phải những người bị họ áp bức, mới là nạn nhân thực sự. Vào năm 1692, các dân biểu thực dân ở British Barbados phàn nàn rằng “những người da đen và nô lệ tạp nhạp trên hòn đảo này, đã chuẩn bị từ lâu, lên kế hoạch, âm mưu và lập một cuộc nổi loạn, tàn sát, ám sát và hủy diệt khủng khiếp nhất, đẫm máu và đáng ghê tởm nhất”. Từ đó, ít nhiều có một đường thẳng dẫn đến tuyên bố của Woodrow Wilson, vào năm 1903, rằng những người miền Nam khởi xướng Ku Klux Klan đã “bị khơi dậy vì bản năng tự tồn”, và theo lời cảnh báo của Donald Trump, khi ông ra mắt cuộc vận động tranh cử tổng thống của ông vào năm 2015, rằng những người Mexico nhập cư vào Mỹ đã “mang theo ma túy. Và họ đang mang tội ác. Và họ là những kẻ hiếp dâm.”
Ở những nơi mà tôn giáo màu da trắng không thể thu phục những người cải đạo bằng sự thuyết phục hoặc đe dọa, nó đã triển khai các biện pháp thô bạo hơn để đảm bảo quyền lực của mình, buộc các luật lệ, thể chế, phong tục và nhà thờ phải thực thi các đặc quyền của mình. Trên tất cả, nó phụ thuộc vào vũ lực. Vào giữa thế kỷ 20, giả định rằng một tộc người được gọi là người da trắng vượt trội hơn tất cả những người khác đã cung cấp lời biện minh chính không chỉ cho việc buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương mà còn cho sự tuyệt chủng gần như hoàn toàn của người da đỏ ở Bắc Mỹ; đối với hành động tàn bạo của người Bỉ ở Congo; cho sự đô hộ đẫm máu ở Ấn Độ, đông Phi châu và Úc của người Anh; đối với việc đẫm máu không kém ở những thuộc địa của Pháp ở bắc và tây Phi và đông nam Á; để thực hiện Giải pháp Cuối cùng ở Đức Quốc xã; và cho chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi. Và đó chỉ là những ví dụ cực đoan nhất. Cùng với những người bị sát hại, hãm hiếp và bị bắt làm nô lệ dưới danh nghĩa của sắc trắng, tổng số nạn nhân lên đến chín con số, là một con số gần như không thể tưởng tượng nổi những người mà đời sống bị rút ngắn, hạn chế, chống đối và xúc phạm hàng ngày.
Mãi cho đến sau hậu quả của chiến tranh thế giới thứ hai, những lời tán thành thẳng thắn về quyền thượng đẳng của người da trắng đã bị bác bỏ rộng rãi trong diễn ngôn công khai ở Mỹ. Điều này xảy ra phần lớn là nhờ vào nỗ lực của giới hoạt động dân quyền và chống thực dân, nhưng chính chiến tranh cũng đóng một vai trò nào đó. Mặc dù sự khủng khiếp của chế độ Đức Quốc xã có mức độ gay gắt hơn bất cứ điều gì xảy ra vào thời điểm đó ở Mỹ hoặc ở Anh, nhưng chúng đã cung cấp một tấm gương sáng khiến không thể bỏ qua nạn phân biệt chủng tộc vẫn còn phổ biến ở cả hai quốc gia. (Một bài xã luận của New York Times vào năm 1946 đã nêu rõ mối liên hệ này, lập luận rằng “đây là một năm đặc biệt tốt để vận động chống lại các tệ nạn của sự cố chấp, thành kiến và hận thù chủng tộc bởi vì gần đây chúng ta đã chứng kiến sự thất bại của những kẻ thù đã cố tìm cách làm chủ thế giới dựa trên một chính sách độc ác và nguỵ biện như vậy”.)
Những lời kêu gọi chính trị về sự đoàn kết của người da trắng giảm đi một cách chậm rãi nhưng chắc chắn. Ví dụ, vào năm 1955, Winston Churchill vẫn có thể tưởng tượng rằng “Giữ nước Anh da trắng” là một chủ đề để chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử, và thậm chí vào cuối năm 1964, Peter Griffiths, một ứng cử viên đảng Bảo thủ vào quốc hội, đã giành được chiến thắng bất ngờ sau khi tán thành một khẩu hiệu phân biệt chủng tộc trần trụi. Tuy nhiên, đến năm 1968, khi Enoch Powell đọc bài phát biểu “Những dòng sông máu” – trong đó ông tán thành và trích dẫn lời một cử tri đã than thở rằng “trong thời gian 15 hoặc 20 năm nữa, người da đen sẽ nắm ngọn roi đòn trên người da trắng” – ông đã được chào đón bằng sự phẫn nộ trên tờ Times, tờ báo gọi đó là một “bài phát biểu ác độc”, và bị trục xuất khỏi nội các đối lập của Đảng Bảo thủ. Ở Mỹ cũng vậy, nơi mà một thế kỷ phân biệt chủng tộc kéo theo một thế kỷ nô lệ, những biểu hiện công khai của phân biệt chủng tộc đã gặp phải sự chỉ trích ngày càng tăng của công chúng. Trong suốt những năm 60 và đến những năm 70, Quốc hội đã thông qua một loạt đạo luật coi việc phân biệt chủng tộc rõ ràng là bất hợp pháp trong nhiều lĩnh vực của đời sống công cộng.
Việc dần dần từ chối quyền tối cao dứt khoát của người da trắng do chính phủ thực thi gây hậu quả rất lớn về mặt chính sách công. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người da trắng, với tư cách là một lực lượng chính trị, đã mất đi sức hấp dẫn: trong vài tuần sau bài phát biểu của Powell, chỉ lấy một ví dụ, một cuộc thăm dò của Gallup cho thấy 74% người Anh ủng hộ đề nghị của ông rằng những người nhập cư da nâu phải hồi hương. Nó cũng để lại câu hỏi khó hơn là liệu sắc trắng có thực sự tách rời khỏi lịch sử thống trị lâu dài của nó hay không.
Thay vì quá chăm chú vào lịch sử tồi tệ của sắc trắng, nhiều người da trắng thấy dễ dàng hơn khi quyết định rằng phong trào dân quyền đã hoàn thành tất cả các công việc chống phân biệt chủng tộc cần phải làm. Kết quả là một sự bớt căng thẳng kỳ lạ. Một mặt, sắc trắng không còn là chủ đề thu hút sự chú ý của công chúng, nhường chỗ cho một luận điệu mới về nạn mù (không thấy) màu da chủng tộc. Mặt khác, sự khác biệt lớn về kinh tế và văn hóa cho phép người da trắng tiếp tục thực hiện quyền lực thể chế và cơ cấu đã tích lũy thay cho họ trong suốt ba thế kỷ trước.
Một cuộc biểu tình ủng hộ Enoch Powell.
Tương tự, trong khi những lời khẳng định trắng trợn về quyền lực của người da trắng – chẳng hạn như chiến dịch vận động tranh cử năm 1991 của David Duke, nhân vật cựu lãnh đạo Ku Klux Klan, ở Louisiana – vấp phải sự phản kháng đáng kể của giới tinh hoa, những gì được coi là phân biệt chủng tộc (và do đó phải tuân theo điều cấm kỵ) đã bị hạn chế chỉ những trường hợp rõ ràng nhất của hận thù chủng tộc. Trong số những người theo chủ nghĩa tự do và những người bảo thủ, phân biệt chủng tộc được hiểu rộng rãi là một dạng thù hận, có nghĩa là bất kỳ người da trắng nào có thể nhìn vào trái tim của mình và nhận thấy sự vắng mặt của sự thù địch công khai đều có thể tự xóa tội phân biệt chủng tộc.
Ngay cả cụm từ “quyền tối cao của người da trắng”, có trước nhóm chữ “phân biệt chủng tộc” trong tiếng Anh cách đây 80 năm và từng mô tả một hệ thống đặc quyền chủng tộc đan xen vào nhau tác động đến mọi khía cạnh của cuộc sống, đã được định nghĩa lại để có nghĩa là điều gì đó hiếm hoi và cực đoan. Ví dụ, vào năm 1923, dưới tiêu đề White Supremacy Menaced, tờ New York Times đã in một bài báo có nội dung cảnh cáo một giáo sư Harvard rằng “một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất và gay gắt nhất trước thế giới ngày nay” là “vấn đề cứu chủng tộc da trắng khỏi bị nhấn chìm trong các chủng tộc da đậm hơn”. Năm 1967, tối cao pháp viện Hoa Kỳ đã vô hiệu hóa một đạo luật ngăn người da trắng kết hôn với những người không phải là người da trắng, với lý do “rõ ràng là sự tán thành học thuyết về Quyền tối cao của người da trắng”, và hai năm sau, nhà phê bình Albert Murray đã dùng cụm từ đó để mô tả tất cả mọi thứ, từ thành kiến chống người da đen trong sở cảnh sát đến các loại truyền thông mù quáng về cuộc sống của người da đen đến các nghiên cứu hàn lâm có ảnh hưởng như Gia đình da đen của Daniel Patrick Moynihan.
Tuy nhiên, đến những năm 80 và 90, ít nhất trong các phương tiện truyền thông do người da trắng thống trị, “quyền tối cao của người da trắng” chỉ được dành cho những ví dụ gây sốc nhất và suy đồi nhất về phân biệt chủng tộc. Đối với nhiều người lớn lên vào thời điểm đó, như tôi, nhóm chữ đó gợi lên hình ảnh những cuộc đốt thánh giá và đám côn đồ phân biệt chủng tộc, chứ không phải là một mạng lưới luật pháp và chuẩn mực phức tạp duy trì sự chênh lệch về sự giàu có, giáo dục, nhà ở, giam giữ và đường đi đến quyền lực chính trị.
Có lẽ điều ác ý nhất là cáo buộc “phân biệt chủng tộc ngược”, điều này khuyến khích những người chỉ trích hành động khẳng định và các chính sách “có ý thức về chủng tộc” khác để tuyên bố rằng họ, chứ không phải những người ủng hộ chính sách, là những sứ giả thực sự của bình đẳng chủng tộc. Năm 1986, Ronald Reagan đã đi xa hơn khi bảo vệ sự phản đối của mình đối với hạn ngạch tuyển dụng người thiểu số bằng cách kêu gọi Martin Luther King Jr, Reagan tuyên bố:
“Chúng tôi muốn một xã hội mù màu. Theo lời của Tiến sĩ King, một xã hội đánh giá con người không phải bằng màu da mà bằng giá trị nhân cách của họ.”
Ronald Reagan
Tất nhiên không phải tất cả mọi người đều chấp nhận khuynh hướng mới này, mà các học giả đã mô tả khác nhau là “phân biệt chủng tộc cấu trúc”, “phân biệt chủng tộc biểu trưng” hoặc “phân biệt chủng tộc không có kẻ phân biệt chủng tộc”. Trong những thập kỷ sau phong trào dân quyền, giới trí thức và người vận động da màu tiếp tục phát triển truyền thống trí thức Du Boisian hiểu rằng da trắng là một thực thể của sự thống trị xã hội. Trong những năm 80 và 90, một nhóm các học giả pháp luật gồm Derrick Bell, Kimberlé Crenshaw, Cheryl Harris và Richard Delgado đã đưa ra một nhóm nghiên cứu gọi là lý thuyết chủng tộc then chốt, theo cách nói của Bell, “cam kết về mặt tư tưởng đối với cuộc đấu tranh chống lại sự phân biệt chủng tộc, đặc biệt đã được thể chế hóa trong và theo luật định.”
Cùng với lý thuyết chủng tộc then chốt, và theo nhiều cách bắt nguồn từ nó, một xu hướng học thuật mới, được gọi là nghiên cứu về sắc trắng, đã hình thành. Các sử gia làm việc trong lĩnh vực phụ này đã chứng minh vô số cách mà việc theo đuổi quyền tối cao của người da trắng – như theo đuổi sự giàu có và chinh phục phụ nữ – là một trong những động lực chính đã hình thành lịch sử Mỹ [Anglo-American]. Đối với nhiều người trong số họ, bản cáo trạng chống lại người da trắng là hoàn toàn, như sử gia David Roediger đã nói,
Vào mùa thu năm 1992, một tạp chí mới do Noel Ignatiev, một trong những nhân vật chính trong nghiên cứu về sắc trắng đồng sáng lập, đã xuất hiện tại các hiệu sách xung quanh Cambridge, Massachusetts. Tên là Kẻ phản bội Chủng tộc, tạp chí đó đã mang phương châm và đặc tính hướng dẫn trên trang bìa của mình: Phản bội Sắc trắng là Trung thành với Nhân loại. Vấn đề được mở đầu bằng một bài xã luận có tiêu đề khiêu khích không kém: “Hãy bãi bỏ chủng tộc da trắng – bằng mọi cách nếu cần”. Đòi hỏi này, cùng với tiếng vang của Sartre qua Malcolm X, hóa ra không phải là lời kêu gọi bạo lực, chứ đừng nói là diệt chủng. Như Ignatiev và đồng chủ biên của ông ấy, John Garvey, giải thích, họ lấy tiền đề nền tảng “chủng tộc da trắng là một hình thành xã hội được xây dựng trong lịch sử”, một loại câu lạc bộ có thành viên “gồm những người chia nhau những đặc quyền của người da trắng trong xã hội này.”
Đối với Ignatiev và Garvey, màu da trắng đã đồng nhất với quyền tối cao của người da trắng trong một thời gian dài đến mức thật ngu ngốc khi nghĩ rằng nó có thể cứu vãn được. Họ viết,
Theo quan điểm của Ignatiev và Garvey, điều cần thiết là những người được gọi là “người da trắng” – những người giống như họ – từ chối mãnh liệt cái căn cước đó và những đặc quyền chủng tộc đi kèm với nó. Họ gợi ý rằng sắc trắng là một thứ mong manh, không ổn định, chẳng hạn như ngay cả một số nhỏ các cuộc tấn công kiên quyết – phản đối các chương trình giáo dục phân biệt chủng tộc tại cuộc họp hội đồng học chính, chẳng hạn hoặc ghi lại hành vi phân biệt chủng tộc của cảnh sát trên video – cũng có thể khiến toàn bộ dinh thự rung chuyển.
Nhưng trong khi các nghiên cứu về sắc trắng tạo ra nhiều kết quả đánh giá, soi sáng đáng đọc, thì nó đã sớm bị chế giễu như một ví dụ nữa về đặc quyền mà nó nhằm chống lại. Margaret Talbot đã viết trên tờ New York Times vào năm 1997:
“Toàn bộ tổ chức mang lại cho người da trắng một vị thế trong mô hình đa văn hóa mà họ chưa bao giờ tận hưởng trước đây. Và tất nhiên, nó liên quan đến họ trong một hành trình khám phá bản thân, trong đó suy nghĩ của người da trắng về độ trắng của chính họ có được một tính hợp pháp mới rất quan trọng.”
Margaret Talbot
Ngay cả Ignatiev sau đó cũng nói rằng ông ấy “không muốn dính đến” nó.
Vào giữa những năm 2000, ý thức hệ “mù màu” đã quá thành công đến mức nó đã có thể che chắn ngay cả những chiến dịch rõ ràng hơn của người da trắng – ví dụ con số áp đảo người da trắng trong giai tầng lãnh đạo của những công ty, hoặc trong các kỹ nghệ truyền thông và kỹ nghệ – khỏi bị nhiều kiểm duyệt. Ở Mỹ, khi sự khác biệt về chủng tộc không thể bị bỏ qua, người ta thường cho rằng thời gian là biện pháp khắc phục đáng tin cậy duy nhất: khi tỷ lệ người da trắng giảm đi, thì quyền lực chính trị và kinh tế của họ cũng sẽ giảm đi. (Đừng bận tâm rằng độ trắng đã tìm cách thoát khỏi những dự đoán về sự diệt vong trong nhân khẩu học trước đây, bằng cách tích hợp các nhóm mà trước đây nó đã giữ ở bờ rìa của nó.)
Trong khi đó, những người theo chủ nghĩa tự do da trắng trẻ hơn, loại người có thể đã đọc Bell hoặc Crenshaw hoặc Ignatiev ở trường đại học, có khuynh hướng né tránh chủ đề về bản sắc chủng tộc của họ với một sự lúng túng. Lớn lên như người da trắng trong những thập kỷ sau phong trào dân quyền hơi giống như có một người anh họ giàu có nhưng đáng khinh bỉ: bạn chưa bao giờ biết anh ta làm gì, hay những món quà xa hoa anh ta mua cho ngày sinh nhật của bạn, và vì vậy, nói chung, bạn thấy nó dễ dàng hơn khi không nói bất cứ điều gì.
Sự vắng mặt của các cuộc đối thoại về người da trắng đã phổ biến đến mức có thể tự thuyết phục bản thân rằng nó là một trong những trở ngại chính đối với sự tiến bộ về chủng tộc. Khi tôi còn học cao học vào đầu những năm 2000, vào cuối đợt bùng nổ nghiên cứu về người da trắng, tôi thường nghe – kể cả từ chính miệng tôi – lập luận rằng vấn đề thực sự là người da trắng không nói đủ về bản sắc chủng tộc của họ. Nếu bạn có thể khiến mọi người thừa nhận sắc trắng của họ, chúng tôi tự nhủ, thì có thể khiến họ thừa nhận những cách không công bằng mà sắc trắng đã giúp họ.
Rắc rối với khái niệm này sẽ sớm trở nên rõ ràng, khi nhiệm kỳ tổng thống của Barack Obama đưa ra phép thử chắc chắn nhất cho đến nay về mệnh đề cho rằng người da trắng đã tách mình khỏi quá khứ theo chủ nghĩa thượng đẳng của nó. Mặc dù cuộc bầu chọn Obama làm tổng thống ban đầu được một số người ca ngợi là bằng chứng rằng Hoa Kỳ đang bước vào một giai đoạn hậu phân biệt chủng tộc mới, nhưng chỉ mất vài tháng để đảng Trà, một phong trào bảo thủ có vẻ như ủng hộ chính phủ nhỏ, cho thấy rằng điều ngược lại gần hơn sự thật.
Vào tháng 9 năm 2009, Jimmy Carter đã gây xôn xao khi cho rằng sự phản đối của đảng Trà là một thứ gì đó khác với phản ứng có nguyên tắc đối với chi tiêu của chính phủ. Carter nói:
“Tôi nghĩ rằng một phần lớn sự thù hận được thể hiện rõ ràng đối với Tổng thống Barack Obama là dựa trên thực tế rằng ông ấy là một người da đen.”
Jimmy Carter
(Suy đoán của Carter sau đó đã được hậu thuẫn bằng kết quả nghiên cứu: chẳng hạn, chuyên gia khoa học chính trị Ashley Jardina nhận thấy rằng “những người da trắng bất bình về chủng tộc hơn có nhiều khả năng nói rằng họ ủng hộ đảng Trà và đánh giá nó tích cực hơn.”)
Phản ứng dữ dội của người da trắng đối với nhiệm kỳ tổng thống của Obama tiếp tục trong suốt hai nhiệm kỳ của ông, cùng với sự trợ giúp của đế chế truyền thông của Rupert Murdoch và đảng Cộng hòa, đảng đã giành được đa số tại cả hai viện Quốc hội bằng cách hứa sẽ cản trở bất cứ điều gì Obama cố gắng hoàn thành. Không có dự án nào ngăn được Obama thắng nhiệm kỳ thứ hai, nhưng điều này không có nghĩa là chúng không có hiệu lực: mặc dù Obama đã mất 12% cử tri da trắng vào năm 2008, bốn năm sau đó ông đã mất 20% số phiếu của họ, kết quả tệ nhất cho thấy trong số các cử tri da trắng đối với một ứng cử viên thành công trong lịch sử Hoa Kỳ.
Đồng thời, chiến thắng của Obama gợi ý cho một số trong giới quan sát cách chứng minh cho lập luận theo nhân khẩu học: thành phần chủng tộc đang thay đổi của Hoa Kỳ dường như đã thành công trong việc vô hiệu hóa sở thích của cử tri da trắng, ít nhất là trong phạm vi của nhiệm kỳ tổng thống. (Một đảng viên Cộng hòa nói sau chiến thắng của Obama, “Không có đủ những người da trắng trung niên để chúng ta có thể tập hợp lại để giành chiến thắng.”)
Hơn nữa, làn sóng đầu tiên phản đối Black Lives Matter, đã thu hút sự chú ý của quốc tế vào mùa hè năm 2014, đã dẫn đến một đợt sóng tự giải bày tâm sự nội tâm ở người da trắng, đặc biệt là trên mạng. Như phê bình gia Hua Hsu đã viết một cách nửa trêu chọc vào năm 2015, “có cảm giác như thể chúng ta đang sống trong thời điểm mà người da trắng, ở mức thế hệ, đã trở nên tự nhận ra mình.”
Tuy nhiên, không phải lần đầu tiên, những gì hiện trên Twitter là một chỉ dấu kém về khuynh hướng xã hội sâu sắc hơn. Như chúng ta đã biết, những cách mà sắc trắng trở nên nổi bật nhất vào giữa thập kỷ trước phần lớn không phải là những cách khiến các sinh viên tốt nghiệp đại học gần đây tuyên bố ủng hộ Rhodes Must Fall trên Instagram. Quan trọng hơn nhiều là phiên bản của chính trị về căn cước da trắng đánh giá cao những ưu điểm của người da trắng và lo lắng về việc chúng sẽ tuột mất; điều đó đã thấy việc nhập cư là một mối đe dọa hiện sinh; và muốn, hơn bất cứ điều gì, là “Lấy lại quyền kiểm soát” và “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”.
Chính phiên bản da trắng thượng đẳng này đã giúp tạo ra cú sốc kép của năm 2016: đầu tiên là Brexit và sau đó là Trump. Cú sốc thứ hai, đặc biệt – không chỉ là thực tế về nhiệm kỳ tổng thống của Trump mà là giọng điệu của nó, sự báo thù không kiềm chế và sự hồi sinh đã thúc đẩy nó – đã trả lời cho bất kỳ câu hỏi kéo dài nào về việc liệu người da trắng có từ bỏ mặc cảm tự tôn của họ hay không. Ta-Nehisi Coates, hơn bất kỳ người nào khác đã chịu trách nhiệm về việc khiến khuôn mẫu vụng về người da trắng do Stuff White People Like cống hiến trong có vẻ như là một cách nhìn cận thị vô vọng, hiểu ngay điều gì đang xảy ra. Vào mùa thu năm 2017, Coates viết,
“Trump thực sự là một điều gì đó mới mẻ – tổng thống đầu tiên mà toàn bộ sự hiện hữu chính trị của ông đều xoay quanh thực tế của một tổng thống da đen. Ý thức hệ của ông ấy là quyền tối cao của người da trắng, với tất cả quyền lực tôn nghiêm và thần thánh.”
Ta-Nehisi Coates
Năm 1860, một người đàn ông tự xưng là “Ethiop” đã đăng tải một bài tiểu luận trên Tạp chí Anh-châu Phi, được gọi là tạp chí văn học da đen đầu tiên ở Mỹ. Tác giả với bút danh này là William J Wilson, một người từng là thợ đóng giày, sau này là hiệu trưởng trường công lập đầu tiên dành cho trẻ em da đen ở Brooklyn. Tiểu luận của Wilson có tiêu đề, Chúng ta sẽ làm gì với Người da trắng?
Bài báo một phần nhằm chế nhạo các tác giả và chính khách da trắng, những người đã không ngừng tự hỏi mình một câu hỏi tương tự về người Da đen ở Mỹ. Nhưng nó không chỉ là một sự giả mạo. Bằng một giọng điệu theo chủ nghĩa gia trưởng tự mãn của các mục tiêu của mình, ông ta đưa ra một bản cáo trạng toàn diện về chế độ người da trắng ở Mỹ: cướp bóc và giết “thổ dân”; nạn trộm cắp và nô lệ người Châu Phi; đạo đức giả được thể hiện qua bản hiến pháp, chính phủ và các nhà thờ da trắng ở Mỹ. Ông viết, gốc rễ của tất cả những điều này là “một hệ thống sai trái kéo dài liên tục, rộng khắp và gần như hoàn chỉnh” khiến những người đàn ông và phụ nữ đã có những hành vi này trở thành những kẻ cướp “không ngừng, chụp dựt”. Cuối cùng, Wilson đề nghị,
Đã có nhiều thay đổi kể từ thời của Wilson, nhưng một thế kỷ rưỡi trôi qua, câu hỏi của ông vẫn không kém phần thích hợp. Đối với một số người, chẳng hạn như chuyên gia khoa học chính trị Eric Kaufmann, da trắng là thứ mà người ta luôn giả vờ. Mặc dù thừa nhận rằng các chủng tộc không được xác định bằng sự di truyền, nhưng Kaufmann vẫn coi chúng là sự phân chia có thể biện luận được của nhân loại có một số cơ sở tự nhiên: ông gợi ý, chúng xuất hiện, “qua sự pha trộn giữa nhận thức màu sắc vô thức và các quy ước văn hóa chậm tiến hóa.” Trong cuốn sách năm 2019 Whiteshift của mình, Kaufmann lập luận rằng lịch sử bị áp bức bởi người da trắng là “có thật, nhưng là điểù có thể bàn luận” và ông ấy ủng hộ một thứ gọi là “chủ nghĩa đa văn hóa đối xứng”, trong đó “xác định là người da trắng, hoặc với truyền thống dân tộc của người da trắng, không phân biệt chủng tộc hơn so với xác định là người da đen.” Chúng ta sẽ làm gì với người da trắng? Kaufmann cho rằng chúng ta nên khuyến khích họ tự hào về mình là người da trắng, kẻo họ chuyển sang các biện pháp bạo lực hơn:
“Việc đóng băng các biểu hiện hợp pháp về căn cước da trắng cho phép người da trắng có quyền giữ nó và hoạt động như một trung sĩ mộ binh cho những ý tưởng hoang dã của họ.”
Eric Kaufmann
Từ một quan điểm khác – của riêng tôi, hầu hết mọi ngày – sắc trắng có nghĩa là một cái gì đó khác với các bản sắc chủng tộc và sắc tộc khác vì nó đã có một lịch sử khác với các bản sắc chủng tộc và sắc tộc khác. Trong suốt ba thế kỷ rưỡi, sắc trắng đã được dùng như một vũ khí trên toàn cầu; Ngược lại, màu đen thường được dùng như một tấm chắn. (Như Du Bois đã nói, điều khiến sắc trắng trở nên mới mẻ và khác biệt là “chiều rộng uy nghi của sự vật – sự táo bạo bất chấp thiên đường.”) Cũng không có nhiều lý do để tin rằng sắc trắng sẽ không bao giờ bằng lòng để đi tìm “những biểu hiện hợp pháp”, bất cứ chúng có thể trông như thế nào. Tôn giáo sắc trắng đã có 50 năm để tự cải cách theo đường lối phi chủ nghĩa thượng đẳng, để chứng minh rằng nó phù hợp cho sự chung sống vô thưởng vô phạt. Thay vào đó, nó cho chúng ta Donald Trump.
Tuy nhiên, ngay cả điều này cũng không trả lời đầy hết câu hỏi của Wilson. Vì nếu về mặt lý thuyết, thật dễ dàng để đồng ý rằng phản ứng đạo đức hợp lý duy nhất đối với lịch sử lâu dài và không tranh cãi về quyền tối cao của người da trắng là lập trường theo chủ nghĩa bãi nô được ủng hộ trong các trang của Race Traitor – tức là làm cho sắc trắng trở nên vô nghĩa như một căn cước của một khối người, để đẩy nó vào vùng lỗi thời cùng với “Prussian” và “Etruscan” – có vẻ như rõ ràng là sắc trắng gần như không quá mỏng manh như Ignatiev và Garvey đã tưởng tượng. Cuối đời, James Baldwin mô tả sắc trắng là “một lựa chọn đạo đức”, như một cách để nhấn mạnh rằng đó không phải là một sự thật tự nhiên. Nhưng sắc trắng không chỉ là một lựa chọn đạo đức: đó là một mạng lưới dày đặc các lựa chọn đạo đức, phần lớn trong số đó được tạo ra cho chúng ta, thường ở những thời điểm và những nơi rất xa với chính chúng ta. Theo cách này, sắc trắng là một vấn đề như biến đổi khí hậu hoặc bất bình đẳng kinh tế: nó đã ăn sâu vào cấu trúc cuộc sống hàng ngày của chúng ta đến mức khiến cho quan niệm về các lựa chọn đạo đức trở nên kỳ lạ.
Tuy nhiên, như đối với biến đổi khí hậu, điều duy nhất khó khăn hơn nỗ lực như vậy là cố gắng sống chung với giải pháp thay thế. Sắc trắng dường như không thể tránh khỏi và không thể làm nguôi được, và Toni Morrison chắc chắn đã đúng khi bà nói rằng thế giới “sẽ không trở nên phi chủng tộc vì sự khẳng định”. (Để ngày mai thức dậy và quyết định mình không còn là người da trắng sẽ chẳng giúp ích gì cho ai cả.) Dù vậy, sau 350 năm, nó vẫn như vậy, như Nell Irvin Painter lập luận, rằng da trắng “là một quan niệm, không phải sự thật”. Không phải một mình, và không phải không có nhiều công việc để sửa chữa những thiệt hại đã làm trên danh nghĩa của nó, nhưng chúng ta vẫn phải có khả năng thay đổi suy nghĩ.
Tác giả | Robert P. Baird là một ngòi bút và biên tập viên tự do. Ông đã làm việc tại The New Yorker, The Paris Review, Harper’s, Esquire và Chicago Review. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ tại đại học Chicago. E-mail: [email protected]
© 2021 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net“
Nguồn: The invention of whiteness: the long history of a dangerous idea | Robert P. Baird | The Guardian | April 20 2021.