Lược sử Bồ Đào Nha (Portugal)
Tomas Pueyo | Trà Mi
Tôi đã viết về GeoHistory của Tây Ban Nha. Nhưng như bạn đọc có thể đã thấy, nó liên hệ chặt chẽ với Bồ Đào Nha. Vì vậy không thể viết về nước này mà không nói đến nước kia. Lịch sử của hai nước giống nhau cho đến những năm đầu thế kỷ 13, vì vậy bạn đọc chỉ cần đọc về những gì đã xảy ra trước đó trong Lược sử về Tây Ban Nha. Nhưng sau đó Bồ Đào Nha có những thách thức đáng chú ý:
— Tại sao Bồ Đào Nha, một nước nhỏ, chưa đến 2 triệu dân và lịch sử hàng hải không có gì đáng kể, lại là nước đầu tiên khám phá ra đường đi xuống Ấn Độ Dương bên dưới mũi Châu Phi?
- Tại sao nước này không tài trợ cho cả Columbus và Ferdinand Magellan, người Bồ Đào Nha?
- Tại sao tất cả châu Mỹ Latin đều nói tiếng Tây Ban Nha trừ Brazil?
- Tại sao tiếng Bồ Đào Nha rất giống với một trong những ngôn ngữ khu vực dùng ở Tây Ban Nha?
- Tại sao một thời Bồ Đào Nha đã là quốc gia giàu có nhất trên Trái đất, và tại sao nó lại mất trắng?
- Tại sao Bồ Đào Nha vẫn cò giữ, cho đến ngày nay, những hòn đảo có giá trị nhất ở giữa Bắc Đại Tây Dương?
Hãy cùng xem bức tranh toàn cảnh!
Trường hợp ngoại lệ của Bồ Đào Nha
Đó là năm 1210. Tây Ban Nha ở giữa Cuộc Tái Chinh phục (Reconquista), chiếm lại bán đảo Iberia từ tay người Hồi giáo.
Reconquista kéo dài 800 năm, từ khoảng năm 711 đến năm 1492. Trong thời gian đó, những vương quốc phía bắc dần dần mở rộng về phía nam. Đây là lý do tại sao Leon và Castile trên bản đồ này là những vương quốc trải dài theo chiều bắc-nam.
Bên bờ biển phía tây, Bồ Đào Nha là một nhánh của Galicia. Nó đã tách ra, độc lập với Galicia — như những vương quốc thường làm vào thời điểm đó.
[Thực ra Hiệp ước Zamora (ngày 5 tháng 10 năm 1143) công nhận sự độc lập của Bồ Đào Nha khỏi Vương quốc León. Dựa trên các điều khoản của thỏa thuận, Vua Alfonso VII của León đã công nhận Vương quốc Bồ Đào Nha trước sự chứng kiến của người anh họ là Vua Afonso I của Bồ Đào Nha, dưới sự chứng kiến của đại diện Giáo hoàng, Hồng y Guido de Vico, tại Nhà thờ Zamora. Cả hai vị vua đều hứa hẹn hòa bình lâu dài giữa các vương quốc của họ. Bằng hiệp ước này, Afonso I của Bồ Đào Nha cũng công nhận quyền độc tôn của Giáo hoàng. Hiệp ước này là kết quả của Trận chiến Valdevez. Nghĩa là Bồ Đào Nha độc lập với León chứ không phải tách ra từ Galacia. Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Treaty_of_Zamora]
Người vẫn có thể thấy nguồn gốc Galicia của Bồ Đào Nha trong ngôn ngữ hiện vẫn dùng ở đó ngày nay: Tiếng Bồ Đào Nha rất giống với tiếng Galicia (Spain), ngôn ngữ của người địa phương ở Galicia. Có lý vì người Galicia đã đưa ngôn ngữ xuôi nam.
Nhưng không giống như Castile hay Aragon, Bồ Đào Nha không tái gia nhập quê hương phía bắc (Galicia) hoặc sáp nhập với nước láng giềng (Castile). Nó độc lập trong suốt thời đại Reconquista. Tôi sẽ giải thích lý do tại sao, trong một bài khác, tại sao Catalonia trở thành một phần của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha thì không. Thực tế là chiều rộng của Bồ Đào Nha được xác định bằng nguồn gốc của nó, vùng đất cổ của nó: Galicia; chiều dài của Bồ Đào Nha được xác định vì sự thành công của nó trong Reconquista chống lại người Hồi giáo. Khi Bồ Đào Nha chinh phục Algarve ở phía nam, vào năm 1249, địa lý hiện đại của nó đã thành hình.
Những đặc điểm này đã khiến Bồ Đào Nha trở thành một quốc gia tập trung vào biển: Ven biển, trải dài và với những dãy núi ở phía bắc và phía nam, những khu vực mầu mỡ đẽ phát triển nhất ở Bồ Đào Nha là đồng bằng ven biển.
Thời đại khám phá của Bồ Đào Nha
Khám phá Đại Tây Dương
Hãy tưởng tượng là Bồ Đào Nha. Đó là năm 1249. Bồ Đào Nha đã chiến đấu với người Hồi giáo trong 500 năm (và với cả một số nước láng giềng Thiên Chúa giáo nữa), và năm nay, 1249, Bồ Đào Nha cuối cùng đã đến được bờ biển phía nam sau khi chinh phục vùng Algarve. Bồ Đào Nha đã hoàn thành sứ mệnh trong Reconquista (sớm hơn 250 năm so với Tây Ban Nha). Bồ Đào Nha sẽ làm gì với tất cả động lực muốn chinh phục và năng lượng với sứ mạnh tràn đầy của mình?
Bản năng đầu tiên của Bồ Đào Nha là tiếp tục làm những gì họ đã làm hay nhất: chiến đấu trên đất liền, chống lại Castile hoặc chống lại người Hồi giáo. Người Hồi giáo đã thất trận, vì vậy hàng xóm cuối cùng của Bồ Đào Nha là Castile. Chiến tranh giữa hai nước đã xẩy ra, nhưng cuối cùng hai bên đã ký hiệp ước hòa bình, lần đầu tiên vào năm 1297 thiết lập biên giới của Bồ Đào Nha cho đến ngày nay, và sau đó vào năm 1411, thiết lập nền hòa bình bền vững.
Khi phần trên đất liền của quốc gia đã ổn định, Bồ Đào Nha tập trung vào nỗ lực rõ ràng nhất tiếp theo: vượt qua eo biển Gibraltar và tấn công người Hồi giáo ở Bắc Phi. Họ đã chinh phục thành phố Ceuta của châu Phi vào năm 1415.
Có một số lý do để Bồ Đào Nha chinh phục Ceuta:
- Nó là một ga cuối chính của những con đường thương mại xuyên Sahara.
- Đó là một trong những điểm gần nhất qua eo biển.
- Đối mặt với bán đảo Gibraltar ở phía bên kia của eo biển, đó là điểm quan trọng khác để Bồ Đào Nha kiểm soát sự di chuyển giữa Địa Trung Hải và Đại Tây Dương.
- Từ đó, người Hồi giáo đã mở những cuộc tấn công vào bán đảo Iberia, bắt người dân và bán họ làm nô lệ.
Chiến thắng của Bồ Đào Nha ở Ceuta đã làm giảm đi những cuộc tấn công vào Tây Ban Nha, nhưng không chiếm được những con đường thương mại, vốn chỉ chuyển đi nơi khác. Và việc tiếp tục con đường chinh phục châu Phi khó hơn Bồ Đào Nha nghĩ: Cũng vì lý do mà người Hồi giáo gặp khó khăn ở Tây Ban Nha, người châu Âu gặp khó khăn ở châu Phi. Mở rộng đường yểm trợ trên biển khó hơn nhiều so với trên đất liền. Vì vậy, mặc dù Bồ Đào Nha tiếp tục tấn công ở Bắc Phi, họ phải chuyển trọng tâm sang nơi khác. Bồ Đào Nha sẽ làm gì?
Bồ Đào Nha đang bình yên với người hàng xóm duy nhất của mình, Crown of Castile. Họ đã biết rằng việc tấn công người Hồi giáo trên biển là rất khó. Họ còn lại gì khi không có nơi nào để tiến trừ đi ra biển.
Cho đến lúc đó, chưa có một nền văn minh nào tập trung một cách nghiêm túc vào Đại Tây Dương. Điều đó có nghĩa là không ai ở châu Âu biết cách vượt Đại Tây Dương. Người Bồ Đào Nha là những người đầu tiên chấp nhận thử thách trên đường biển một cách nghiêm túc — vì họ không có lựa chọn nào khác.
Lựa chọn đầu tiên của họ khi ra biển là về phía nam đến châu Phi nơi do người Hồi giáo kiểm soát; ở đó có những con đường thương mại xuyên Sahara và hầu hết là chưa được khám phá ngoài khu vực nơi Sa mạc Sahara gặp Đại Tây Dương. Vì vậy, đó là những gì người Bồ Đào Nha đã làm.
Vấn đề là khi thuyền đi theo hướng đó, họ rất khó quay lại. Vì gió và hải lưu.
Do cấu trúc của Trái đất, gió thổi từ Sahara về phía Đại Tây Dương, hơi hướng về phía nam. Những con tàu đi từ châu Âu xuống bờ biển Sahara phải đi ngược chiều, tất cả đều phải đẩy ngược dòng hải lưu.
Những con tàu vào thời điểm đó được tối ưu hóa cho vùng Địa Trung Hải, nơi không luôn có gió và hải lưu chảy mạnh như vậy. Cuối cùng, người Bồ Đào Nha đã phát minh ra một con tàu mới, caravel, để thực hiện công việc này.
Một khi người Bồ Đào Nha thực sự hiểu về những luồng gió và hải lưu, họ cũng tìm ra cách để dùng chúng. Hóa ra con đường trở về nhà nhanh nhất từ châu Phi không phải là đường thẳng đi đến Bồ Đào Nha, mà là đi về phía đại dương. Họ gọi đây là “vòng xoay của biển cả” hay volta do mar.
Khi họ cảm thấy thoải mái với volta do mar, người Bồ Đào Nha đã khám phá quần đảo Madeira trước tiên (1419), và sau đó là Açores (1427). Trong vài chục năm tiếp theo, người Bồ Đào Nha tiếp tục đi thuyền về phía nam, khám phá ngày càng nhiều hơn về châu Phi và Đại Tây Dương.
Sau đó, vào năm 1453, điều may mắn nhất đã xảy ra cho Bồ Đào Nha ở phía bên kia Địa Trung Hải: Constantinople rơi vào tay người Ottoman, kẻ đã cấm người theo đạo Thiên chúa buôn bán trên Con đường Tơ lụa. Con đường tơ lụa qua Địa Trung Hải bị ảnh hưởng, và đột nhiên giá trị của một con đường thay thế đi đến Ấn Độ trở nên cực kỳ cao. Vào thời điểm đó, những người Bồ Đào Nha đi biển là người có vị trí tốt nhất trên thế giới để tìm được một con đường thay thế. Họ đã tiếp tục khám phá với mục đích đó.
Đế chế của Bồ Đào Nha
Trong vài chục năm theo sau, Bồ Đào Nha đã tìm thấy mũi Châu Phi — chứng minh có một con đường thương mại khác theo hướng này — sẽ đến được Ấn Độ, xây dựng các trạm thương mại và pháo đài dọc hải trình, và bắt đầu khai thác tất cả những khám phá này. Đây là điểm khởi đầu của Đế chế Bồ Đào Nha.
[Khi nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Bartolomeu Dias đi vòng qua mũi đất đá ở Cape Agulhas của Nam Phi vào năm 1488, ông trở thành người châu Âu đầu tiên đến đó, mở một con đường biển từ châu Âu đến châu Á, hải trình phát triển đế chế Bồ Đào Nha.]
Người Bồ Đào Nha tiến nhanh như vậy vì vào cuối những năm 1400, họ hiểu rất rõ các dòng hải lưu và gió của Đại Tây Dương đến mức họ nhận ra rằng họ có thể thực hiện một cú volta do mar ở Nam Đại Tây Dương. Họ đã đúng.
Trên thực tế, lần đầu tiên người Bồ Đào Nha đi thuyền vào Ấn Độ Dương, họ không nhận ra rằng họ đã đến đó, vì họ đã đi quá xa về phía nam của mũi châu Phi.
Chính trong một trong những trận volta do mar này, người Bồ Đào Nha đã khám phá ra Brazil, độc lập với việc Tây Ban Nha khám phá ra châu Mỹ.
Bồ Đào Nha bắt đầu buôn bán nô lệ và gia vị giữa các thuộc địa của họ với châu Âu, đi tiên phong trong thương mại vùng tam giác giữa châu Âu, châu Phi và châu Mỹ.
Đây là phần buôn nô lệ trong cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha:
Như có thể thấy trong video này, Bồ Đào Nha thực sự đã vượt qua ranh giới buôn bán nô lệ giữa châu Phi và châu Mỹ: lần đầu tiên bắt đầu vào những năm 1600 và lần cuối cùng dừng lại vào những năm 1800.
Theo thời gian, người Bồ Đào Nha đã xây dựng một hệ thống thương mại trên khắp các lục địa, tạo ra một trong những nơi tập trung tài sản tuyệt vời nhất — mang tiếng về mặt đạo đức — mà thế giới từng chứng kiến.
Trạm thông thương buôn bán vs Thuộc địa
Một việc hiển nhiên khi nhìn vào bản đồ này là Bồ Đào Nha có hai loại thuộc địa rất khác nhau: những trạm thông thương buôn bán và các vùng thuộc địa toàn diện.
Trạm thương mại là tất cả những gì Bồ Đào Nha cần để thỏa mãn hầu hết các nỗ lực thương mại của họ: Đó là những nơi họ có thể giao thương với dân địa phương, kiểm soát những ngả đường thương mại, tiếp tế cho tàu bè của họ và xây dựng một số pháo đài để bảo vệ. Ví dụ, những trạm thông thương buôn bán ở eo biển Malacca và Ormuz cho phép họ kiểm soát những ngả đường thương mại, trong khi những trạm thương mại ở Indonesia là nơi họ mua gia vị.
Brazil thì khác: Nước này không có nền kinh tế địa phương, vì vậy giao thương với người dân địa phương không có ý nghĩa. Nhưng khai thác tài nguyên địa phương thì có lợi. Ban đầu, họ nhắm vào việc khai thác gỗ, nhưng sau đó mở rộng sang đường, thuốc lá và các nguyên liệu thô khác.
Cuối cùng, Angola và Mozambique, ở châu Phi, chỉ là những trạm thương mại trong một thời gian dài nhất. Nhưng trong cuộc tranh giành châu Phi vào những năm 1800, Bồ Đào Nha đã nhảy vào cuộc chiến và tiến vào nội địa của cả hai nước.
Nói cách khác: Trong hơn 300 năm, Bồ Đào Nha là một là đế chế hàng hải (Thalassocracy), là đế chế có lãnh thổ phần lớn trên biển — một quốc gia dựa trên mạng lưới thuộc địa ven biển hơn là một vùng đất cụ thể, như Hy Lạp, Carthage, Venice, Genoa, Aragon, hoặc Liên đoàn Hanseatic ở Châu Âu, hoặc Chola Empire, Majapahit hoặc Srivijaya ở Ấn Độ Dương
Đế chế sụp đổ
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nước đạt thắng lợi lớn nhất trong thời kỳ đầu của sự khám phá: Cả hai nước đều hặp thời, đúng lúc, hoàn thành Reconquista ngay khi cần một con đường thương mại mới với người Ấn, và đúng nơi, hướng ra Đại Tây Dương.
Có rất nhiều điểm khác để kết nối hai nước với nhau: là hàng xóm, cùng tôn giáo, cùng kinh nghiệm về Reconquista và có trước mặt họ một khối lớn hơn họ có thể một mình nuốt trọn. Vì vậy, thật hợp lý khi họ chia khu vực ảnh hưởng của mình và hầu như không có chiến tranh với nhau trong nhiều thế kỷ. Họ đã làm như vậy bằng Hiệp ước Tordesillas ngay từ năm 1494.
Nhưng vô hiệu hóa Tây Ban Nha như kẻ thù là không đủ. Số phận của Bồ Đào Nha cũng giống như Tây Ban Nha: Đế chế của cả hai không thể tồn tại lâu dài.
Không giống như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha thận trọng tập trung vào thương mại và tránh những cuộc chiến tranh tôn giáo và ước mơ viễn vông về sự thống nhất toàn châu Âu. Nhưng cũng giống như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha hoàn toàn đã vung tay quá trán. Nước này quá nhỏ để có thể yểm trợ cho cả đế chế của mình.
Chiến lược của Bồ Đào Nha tập trung vào thương mại hơn như chiến lược của Tây Ban Nha. Thật không may, trọng tâm của Bồ Đào Nha yếu hơn khi chọn kẻ thù hơn là giao dịch. Bắt đầu từ cuối những năm 1500, cả Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đều phải đối phó vơi những đế quốc mới nổi gồm Vương quốc Anh, Hòa Lan và Pháp. Tất cả chúng đều đang phát triển và có khả năng đi đến Đại Tây Dương.
Nhưng kẻ thù của Tây Ban Nha chỉ giới hạn ở vùng đó. Người bản địa ở Mỹ không phải là mối đe dọa do súng, vi trùng và thép của người Tây Ban Nha.
Điều đó không đúng với Bồ Đào Nha. Những vương quốc Châu Phi tiến bộ hơn những vương quốc ở Châu Mỹ — và người dân Châu Phi có khả năng miễn dịch chống lại các bệnh Châu Âu tốt hơn người bản địa châu Mỹ. Nhưng mối đe dọa lớn nhất là ở Trung Đông và châu Á, nơi có hàng chục đế chế hùng mạnh hoạt động, từ người Ottoman đến người Trung Hoa. Để giữ đế chế của mình, người Bồ Đào Nha đã phải tiến hành các cuộc chiến tranh chống lại người Pháp, người Hòa Lan, người Anh, người Tây Ban Nha, người Ottoman, người Mamluks, người Mughal, đế chế Maratha và Oman, người Safavid, một số quốc vương, Maroc, Kongo… Tất cả được hỗ trợ bằng một dân số ở chính quốc chỉ vài triệu người.
Bồ Đào Nha có thể đứng vững trước hầu hết các kẻ thù châu Phi và châu Á, nhưng không chống lại kẻ thù châu Âu. Nhiều thế kỷ trôi qua, Pháp, Hòa Lan và Anh vươn lên, Bồ Đào Nha suy yếu.
Sự suy giảm này phản ảnh gần chính xác với Tây Ban Nha: Bồ Đào Nha đã có khuynh hướng đi xuống liên tục bắt đầu từ những năm 1600, chịu ảnh hưởng lớn nhất vào những năm 1800 với việc mất các thuộc địa Brazil ở châu Mỹ. Nó lên đến đỉnh điểm vào thế kỷ 20, khi Bồ Đào Nha lần lượt mất các thuộc địa còn lại của mình.
Hiện tại và tương lai của Bồ Đào Nha
Như tấm gương của Tây Ban Nha đã cho thấy rõ, thật khó chịu khi đã là một trong những quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới và sau đó sụp đổ. Chúng ta có thể thấy hậu quả tương tự cho đến ngày nay ở các quốc gia khác: Anh quốc chọn Brexit để giữ độc lập trong khi một mình một ngựa lãng mạn đi về hướng chân trời, hay Putin giữ ý tưởng rằng Nga vẫn có thể là một cường quốc trong thế kỷ 21. Bồ Đào Nha, cũng như Tây Ban Nha, đã phải chấp nhận thực tế mới này và sống với nó.
Giống như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là một quốc gia quá nhiều núi nên rất khó sản xuất và kinh doanh tại địa phương. Những lựa chọn chính của nó là, như Tây Ban Nha:
- Hoạt động như một cầu nối với những thuộc địa cũ: với Brazil (lớn hơn 20 lần về dân số) hoặc Angola, Mozambique hoặc các trạm thương mại cũ của Bồ Đào Nha.
- Hợp nhất với các quốc gia tương tự: Tây Ban Nha, và ở mức độ lớn hơn, Liên minh Châu Âu.
Giống như đối với Tây Ban Nha, hy vọng trong 100 năm nữa, tuổi trẻ Bồ Đào Nha sẽ không được dạy về Đế chế Bồ Đào Nha huyền thoại đã mất. Thay vào đó, họ nên học cách Bồ Đào Nha là một khu vực nằm trong Liên minh châu Âu yêu quý của họ, một bậc thầy về thương mại toàn cầu. Đó là điều mà Bồ Đào Nha hiểu rõ nhất.
© 2022 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: A Brief History of Portugal | Tomas Pueyo | Medium.com | June 16, 2022.