Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1b)
Nguyễn Văn Lục
Cuốn “Đứng vững Ngàn năm” vẫn chỉ là một loại historiographic fantasy, một thứ tín điều, một loại bài của ban tuyên giáo dùng để tuyên truyền kích động hơn là một biên khảo lịch sử nghiêm túc.
(Tiếp theo phần 1a)
Về Địa Lý
Nước Tầu là một nước rộng lớn đến gần 10 triệu cây số vuông; từ Bắc xuống Nam dài 4000 km, từ Tây sang Đông rộng 5000 km, có đường biên giới giáp 14 quốc gia và lãnh thổ; Đông Bắc giáp Triều Tiên, Liên bang Nga; Bắc giáp Mông Cổ, Tây Bắc giáp Kazakhstan; Tây giáp Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ; Nam giáp Nepal, Bhutan, Myanma, Lào và Việt Nam.
Các miền địa lý ấy lại trải dài đa dạng, từ đồng bằng duyên hải đến vùng núi cao hiểm trở và sa mạc mênh mông. Nơi có tuyêt phủ. Có những nơi có nhiều mỏ. Nơi có đất đai phì nhiêu với nhiều thổ sản. Nơi có những con sông mà hàng năm trước đây đã gây ra những trận lụt lội làm chết hàng triệu người. 1931 trận lụt sông Hoàng Hà thường được coi là một trong những thảm họa thiên nhiên lớn nhất từng thấy, và gần như chắc chắn là lớn nhất của thế kỷ 20, nếu không kể đại dịch và nạn đói, từ 3,7 đến 4 triệu người thiệt mạng theo nuồn của phương Tây.
Về địa lý thì nước Tầu là một láng giềng gần gũi với Việt Nam ở phương Bắc. Sự sát cạnh một nước lớn hơn – giầu mạnh hơn – đôi khi là một mối đe dọa và một nỗi bất hạnh. Vì thế lịch sử đôi bên đã để lại là lịch sử của một cuộc đấu tranh sống còn và hệ quả của nó là một ngàn năm Bắc thuộc kể từ trước công nguyên cho đến thế kỷ thứ 10 và có thể chia làm bốn thời kỳ.
Muốn hiểu rõ hơn về mối liên hệ này thì cần tìm hiểu đường lối chính sách của người Tầu đối với các nước láng giềng như thế nào?
Theo phân tách dựa trên căn bản địa lý, chính sách đối ngoại của người Tầu có thể tóm tắt nó tùy thuộc vào hai khu vực, hai vùng địa lý khác biệt:
Đối với láng giềng phương Bắc
Liên Bang Xô Viết cũ là nước lớn giáp ranh phía Đông Bắc và Tây Bắc nước Tầu. Khủng hoảng vùng biên giới ở cả hai phía Đông Tây năm 1969 là đỉnh điểm của rạn nứt giữa hai nước lớn trong khối cộng sản.
Theo sử liệu Trung Hoa quan hệ giữ người Hán và người Hung Nô – giống dân sinh sống ở khu vực thuộc Mông Cổ này nay, rất phức tạp, có nhiều cuộc xung đột quân sự, và cũng có trao đổi cống phẩm và thương mại, cũng như các thỏa ước về hôn nhân(28). Phía Đông Bắc – với Mãn Châu, dù dân số ít cũng có lúc làm chủ toàn bộ ngước Tàu. Xứ Triều Tiên không phải là nơi dễ ra vào, mặc dầu văn hóa, chữ viết của Tầu ảnh hưởng sâu đậm ở đây và ngay cả ở quần đảo Nhật Bản. Nước Tầu không dễ dàng có cơ hội và tham vọng nào ở phía Bắc được!
Bởi vì con đường từ phương Bắc đến Bắc Kinh không xa xôi gì so với con đường từ Bắc Kinh xuôi xuống phia Nam. Cho nên, chính sách của triều đình Trung Hoa là áp dụng chính sách ngăn chặn, be bờ với Vạn Lý Trường Thành. Đây là rào cản giữ nhà chẳng khác gì rào dậu giữ cho kẻ trộm không vào nhà ta được.
Vạn lý trường thành được liên tục xây dựngbằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Đế quốc Trung Hoan khỏi bị những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ, người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện nay thuộc Mông Cổ và Mãn Châu. Vạn Lý Trường Thành hiện nay xây dưới thời nhà Minh, thế kỷ XVII. Một nghiên cứu sơ bộ công bố hồi năm 2009 ước tính công trình có chiều dài 8.850 km (3.948 dặm Anh).
Theo số liệu mới được công bố, Vạn Lý Trường Thành dài 21.196 km, chiều dài này được đưa ra dựa trên một cuộc khảo sát mới nhất. Chiều cao trung bình tường thành là 7m so với mặt đất, mặt trên của trường thành rộng trung bình 5-6m. Vạn Lý Trường Thành bắt đầu từ Sơn Hải Quan trên bờ Biển Bột Hải ở phía đông, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ (“đất Trung Quốc gốc”) và Mãn Châu đến Lop Nur ở phần phía đông nam Khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.(29)
Chế độ phòng ngự thời bấy giờ tuy nhiên còn thô thiển, đơn giản, lấy thành trì làm nơi an toàn.
Chính sách be bờ không phải lúc nào cũng tỏ ra hữu hiệu. Vó ngựa Hốt Tất Liệt nào có coi ra gì cái bức tường thành ấy. Mông Cổ đã chiếm trọn vẹn nước Tầu, xâm lược toàn vùng mà diện tích đất Tầu lúc ấy đã nhân rộng lên ba lần. Từ 10 triệu cấy số vuông lên đến hơn 30 triệu cây số vuông.
Vì thế, kinh nghiệm của sự xâm nhập của dân Hung nô, của người Mãn Châu và nhất là của Mông Cổ là những bài học khó có thể nào quên được. Nhiều thế kỷ và nhiều triều đại sau này đã củng cố thêm Vạn lý trường thành là vì vậy.
Đối với các láng giềng phương Nam
Các nước ở phương nam quá xa xôi với vùng trung tâm nước Tầu là Bắc Kinh. Điểm dừng chót từ phía Bắc nước Tầu xuôi xuống phía Nam thì bị chặn lại là ở Ải Nam Quan. Địa lý thiên nhiên phía Nam Trung Hoa đồng bằng thì ít mà lại bỏ hoang nhiều vì giặc giã, lại có nhiều đồi núi, rừng rậm. Việc di chuyển không dễ dàng gì. Tây Tạng ở phía Tây như mái nhà của nhân loại, sừng sững và uy nghiêm huyền bí. Triều đình Trung Hoa không có lo ngại bị xâm chiếm mà ngược lại là Thiên Triều muốn thể hiện sức mạnh bành trướng bắng chinh sách chinh phục và sát nhập.
Nấp sau Tây Tạng – khu vực có cao độ lớn nhất trên trái đất, trung bình là 3000 mét – là Ấn Độ, Népal, Pakistan.
Vì thế, Tây Tạng và Việt Nam trở thành đối tượng cho sức mạnh xâm lược diễn ra trong nhiều thế kỷ, nhiều triều đại tiếp nối nhau.
Như vậy, về phía Nam, dựa trên địa lý như thế, người Tầu áp dụng chính sách chinh phục và đồng hóa.
Hễ có cơ hội là họ không tha – với sự dòm ngó vào các nước biên ải như một miếng mồi ngon. Vì thế, Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của chính sách bành trướng này.
Cái viễn ảnh bành trướng xuống phía Nam là một sự thôi thúc và ám ánh là điều không tránh khỏi và nó còn tỏ ra rõ ràng trong giai đoạn hiện nay.
Nó là cửa ngõ di ra biển.
Hiểu cái vùng địa lý như thế và hiểu cái tham vọng bành trướng xuống phía Nam là của ngõ giao thông ra biển cho thấy tham vọng của người Tầu là có cơ bản.
Nhưng Việt Nam có cái may mắn là từ Vân Nam trở xuống là vùng núi non hiểm trở bên cạnh những cánh rừng bát ngát. Việc di chuyển bằng đường thủy hầu như không thể thực hiện được ngoài con đường thủy đi vòng xuống đến sông Bạch Đằng. Ở đây, ta chỉ cần một đội thủy quân tinh nhuệ, với thế sông núi như điểm tựa luôn luôn tạo được những chiến thắng bất ngờ nhất.
Và mỗi lần thất bại lại là một bài học cho kẻ xâm lược.
Đường bộ thì núi non hiểm trở nhờ đó tránh được những cánh quân xâm nhập từ phia Bắc. Người ngựa không thể dễ dàng vượt qua núi đèo, thác ghềnh, rừng thiêng nước độc, bệnh thời khí.
Khách quan mà nói, thiên nhiên như là đội quân thứ hai, như ông Trời giúp Việt Nam trụ lại được.
Có thể nói, núi non và rừng rậm chẳng khác gì một thứ Vạn Lý Trường Thành thiên nhiên ngăn chặn những cuộc xâm nhập vào Việt Nam từ phia Bắc.
Không có bức tường thiên nhiên này thì số phận biên giới miền Bắc cũng chẳng khác gì số phận dành cho các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây mà thôi.
Về mặt chính trị
Trong khoảng thời gian bị đô hộ hơn 10 thế kỷ, người Việt chịu sức ép nặng nề nhất có thể không phải là kinh tế, quân sự mà là chính sách đồng hóa của người Tầu như nhận xét ở trên.
Lệ triều cống, theo tôi nghĩ, nó chỉ cốt để chứng tỏ một thứ uy quyền tối thượng, một sự thần phục của một nước nhỏ đối với một nước lớn.
Cho dù thua hay thắng Tầu thì lệ triều cống không bao giờ bỏ được. Ngay trong thời kỳ tự chủ thì thể lệ triều cống vẫn cứ ba năm một lần.
Chẳng hạn, dưới thời nhà Nguyên, lệ triều cống như sau:
“Mà lệ cống thì phải cho nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và thợ thuyền, mỗi hạng ba người cùng với các đồ sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu và các vật lạ. Vua Mông Cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xich (tiếng Mông Cổ là quan Chưởng ấn), để đi lại giám trị các châu quận nước Nam.”(30)
Chính sách đồng hóa của người Tầu xem ra thành công về mặt văn hóa, nhưng lại không thành công về mặt chính trị. Họ cũng khuyến khích các cuộc hôn nhân dị chủng như một cách thức đồng hóa êm dịu nhất.
Nó thể hiện sự khuất phục như một thứ sức mạnh mềm theo như ta hiểu bây giờ. Chính quan lại Việt thấy văn hóa Tầu tốt đẹp, thấy hữu ích mà tuân phục.
Vì thế về văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, y phục, sinh hoạt làm ăn, Việt Nam bị ảnh hưởng người Tầu một cách rõ rệt.
Văn hóa tiếp thu lâu dần trở thành văn hóa hội nhập và đồng hóa. Và ngay cả khi ta dành được độc lập tự chủ đi nữa, ta vẫn duy trì nếp sống văn hóa đã được hội nhập. Mặc dầu tình tự yêu nước – chủ nghĩa dân tộc – chủ quyền độc lập về mặt chính trị, ngoại giao vẫn là những đòi hỏi sống còn.
Alexandre De Rhodes một lần nữa tỏ ra có lý khi ông viết:
“Có một điều rất thông dụng đó là sự tôn trọng hán học. Không có người nào cao trí hay thấp kém mà không cho con cái theo học bí mật của chữ tử khi còn nhỏ tuổi, vì thế trong nước này, người nào cũng biết vọc vạch một vài chữ và không ai hoàn toàn mù chữ.”(31)
Chẳng hạn, Nguyễn Trãi vừa là mưu sĩ, người làm cách mạng đem thân phụng sự triều đình, phá giặc vừa là nho sĩ, nhà thơ Đường nổi tiếng.
Thời nhà Đường, thơ văn được thời hưng thịnh với thi luật cân đối, nhịp nhàng vần điệu đã du nhập vào Việt Nam và có mặt trong thi cử cũng như trong xướng họa của các nhà thơ Việt Nam.
Trong tập san Những người bạn cố đô Huế (Association des amis du vieux Huế), thành lập từ năm 1913 do sự đề xuất của linh mục Léopold Cadière,(32) người ta đã thấy có rất nhiều bài biên khảo liên quan đến việc xây dựng cung điện, lăng tẩm theo mẫu thức Trung Hoa được thu nhỏ lại. Các buổi lễ nhạc, các buổi tế lễ đều rập theo người Trung Hoa.
Các đạo Lão, đạo Khổng, đạo Phật – phát triển mạnh đời Đường cũng chính thức được nhìn nhận như một quốc giáo – nhất là đạo Nho mà nội dung các kỳ thi cử nhân, tiến sĩ đều có các môn được sát hạch như kinh lễ, kinh dịch và nhất là kinh Xuân Thu – mặc dầu nó đã được có sự chiết trung, kế thừa,và hòa đồng.
Cả ba đạo ấy được coi như một tam giáo mà thực tế nó chỉ là một thứ tôn giáo du nhập.
Chỉ có miền Nam – vùng đất mới – mới tự sáng lập ra các đạo Cao Đài, Hòa Hảo, phù hợp với tính chất bản địa và tâm tư của người vùng đất mới, và tín đồ đạo Phật ở miền Nam là những người theo Phật giáo Nguyên thủy.
Đây là một điểm son của miền Nam cần được ghi nhận.
Về các mặt khác – nhất là mặt giáo dục, thi cử, ta vẫn rập theo người Tầu một cách thiện ý đến độ Việt Nam là một nước Tầu dù không có người Tầu.
Vào thế kỷ thứ 15, vua Lê Thánh Tôn đã ban hành bộ luật Hồng Đức,tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình luật, với sự vay mượn tham khảo luật pháp của người Tầu.
Nội dung của bộ luật này đã được Phan Huy Chú ghi chép lại trong phần Hình luật chí của Lịch triều hiến chương loại chí, nhưng thiếu so với cuốn sách này 143 điều trong tổng số 722 điều. Trong số 722 điều của Quốc triều Hình luật thì 200 điều phỏng theo luật nhà Đường, 17 điều phỏng theo luật nhà Minh. Ngoài ra có 178 điều chung đề tài nhưng Quốc triều Hình luật đưa ra một giải pháp khác các triều đại Trung Hoa. Đáng chú ý nhất là có 328 điều không tương ứng với điều luật nào của Tầu.(33)
Các cung miếu, đền thờ, chùa chiền ở Việt Nam hai bên cửa đều luôn luôn có khắc chữ Nho như một diện mạo văn hóa Tầu khó phủ nhận. (Idéo-grammes chinois).
Một người được coi là trí thức ở Việt Nam thì hiển nhiên người ấy phải rành rẽ chữ Hán, thông lầu kinh sử Tàu.
Nói chung, một gia đình Trung Hoa sống thế nào thì một gia đình Việt Nam rập khuôn như vậy. Đó là một mô hình Trung Hoa được sao chép và chiết trung nhỏ lại.
Cái búi tóc củ hành (hay búi tóc chuy kế) của người đàn ông Việt Nam cũng là kiểu búi tóc chung của nhiều tộc người, trong đó có người Chân Lạp, Chiêm Thành(34). Trong quyển “Xứ Đàng Trong năm 1621”, Christophoro Bori viết người Việt “để tóc xõa và rủ xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là đẹp.”(35)
Từ đây nảy ra một mâu thuẫn đối kháng khó lý giải – một bên là tình thần dân tộc chống kẻ thù xâm nhập bờ cõi – và xu hướng hòa đồng, du nhập tất cả nền văn hóa, văn minh của kẻ thù phương Bắc.
Cũng về mặt chính trị, triều đình Trung Hoa chỉ có thể mang quân sang xâm lược nước ta khi tình hình chính trị tại chính quốc ổn định. Khi bên Tầu có loạn thì làm sao cất quân sang đánh Việt Nam? Điều đó cắt nghĩa được tại sao từ thế kỷ thứ 10 trở đi, chúng ta nắm giữ được độc lập trong 900 năm? Mặc dầu cũng có đến bảy lần Trung Hoa cất quân sang chinh phạt!
Có phải ta giỏi, ta anh hùng, ta yêu nước, ta có truyền thống giữ nước chăng? Điều đó cũng có, nhưng không phải là những yêu tố cơ bản, khách quan.
Kể từ đời nhà Bắc Tống (1004), có lúc nào nước Tầu được yên ổn?
Đời nhà Tống (960–1279) tương ứng với nhà Tiền Lê (980–1000) ở Việt Nam. Lúc bấy giờ ở phía Bắc nước Tầu có quân Khiết Đan đánh phá, vua nhà Tống phải lo dẹp, nước ta mới yên.(36)
Năm 1004, 20 vạn quân Liêu đánh Bắc Tống. Quân Tống thắng, quân Liêu phải xin nghị hòa.
Sang đến thế kỷ XII, đời Nguyên (1276–1368) Thiết Mộc Chân, sau này được tôn là Thành Cát Tư Hãn – dẹp nhà Tống– đã thống nhất Mông Cổ, đem quân đi chinh phạt Đông–Tây, đi đến đâu làm cỏ tới đó, chinh phục Á–Âu mở rộng đất đai vào năm 1279 là 33 triệu cây số vuông. Đó là đế quốc rộng nhất hoàn cầu.
Quân Mông Cổ mang quân sang đánh nước ta ba lần – lúc đó nhà Lý mất ngôi, nhà Trần lên trị vị. Quân Mông Cổ đã vào đến tận Thăng Long. Nhưng vì không quen thổ nhưỡng nên quân lính mỏi mệt, bệnh tật. Quen chuyện binh đao trăm trận đánh, trăm trận thắng trên vó ngụa và bắn cung tên. Quân Mông Cổ tỏ ra thất thế khi sang Việt Nam, vì ngựa không không có cơ hội xử dụng, cung tên không dùng đến. Quân ta thừa cơ phá Mông Cổ. Mông Cổ thua phải rút về Vân Nam.(37)
Đến đời Minh 1368–1644, người Tầu đã phải vất vả đối phó với các thương nhân, các đội thuyền xâm lược của Bồ Đào Nha và quân cướp biển Nhật, gọi là giặc lùn. Có lần đám giặc này đã đánh thẳng đến Thượng Hải, Tô Châu và đến tận Nam Kinh. Cuối đời Minh, thực dân Hà Lan đã xâm chiếm Đài Loan.(38)
Theo Nguyễn Hiến Lê, hiện nay sử liệu liên quan đến đời Minh lên đến 5 triệu tài liệu được cất giữ ở văn khố gần Bắc Kinh.(39)
Khi nhà Thanh lên trị vị thì có một sự việc ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Đó là trường hợp các di thần nhà Minh đã không chịu quy thuận nhà Thanh. Họ đành rời bỏ nước Tầu lánh nạn sang Việt Nam với chủ trương bài Mãn Thanh. Đám lưu dân này đến lập nghiệp ở miền Nam.
Đó là trường hợp Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch qua nước ta vào năm 1679, quy phục Chúa Nguyễn, lập nghiệp ở Đồng Nai, Cù lao Phố, Biên Hòa. Đến trường hợp Mặc Cửu đến lập nghiệp ở Hà Tiên, lập được một hải cảng như một tiểu quốc dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn. Người ta thường gọi họ là Minh Hương. Làng của Người Minh hương.
Xin trích dẫn một đoạn cho thấy Mặc Cửu đã chạy vào Đàng Trong và đã lập nên sự nghiệp như lời kể lại trong sách của Phan Khoang như sau:
“Sau khi thấy nhà Minh không thể phục hưng được thì Mạc Cửu không chịu cạo tóc, gióc bím theo nhà Thanh, chạy sang cư ngụ ở đất Chân Lạp, làm quan với Chân Lạp. Thấy chính cuộc nước này rối ren mà ở Màng khảm, thuộc tỉnh Ream của Miên, mở sòng bạc để lấy xâu, lại đào được một hầm bạc nên trỏ thành giàu. Mạc Cửu bèn xây một ngôi thành trên bờ biển, mở phố xá rồi chiêu tập lưu dân đến ở các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá, Luống Cày, Hương Úc, Cà Mau lập thành 7 xã thôn.”(40)
Sau này, các lưu dân người Minh Hương đã lâp nghiệp tại Cù Lao Phố Biên Hòa và lập nên cả một vùng Chợ Lớn, năm giữ hầu như toàn bộ công việc buôn bán lúa gạo của miền Nam.
Nhiều người sau này ra làm quan triều Nguyễn và có chức phận trong triều đình. Đó là trường hợp Phan Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa và nhiều người khác.
Đời Mãn Thanh (1644–1911) là dấu hiệu suy thoái trước sức mạnh của các cường quốc Tây Phương. Đến độ Hoàng Đế Đại Quang đã phải than rằng: Có hai chiếc thuyền của bọn giặc Tây cũng không thể đánh lui, nực cười đáng hận làm sao! Vũ trang kém cỏi như thế, chẳng trách bọn ngoại quốc coi thường chúng ta.
Mặc dầu nội tình nước Tầu suy yếu, nhưng cũng đã nhiều phen cất quân sang đánh nước ta nếu có cơ hội và nhất là có lời yêu cầu.
Nói chung hai yếu tố địa lý và chính trị trình bày ở trên là căn bản mà bất cứ ai tìm hiểu về nước Tầu bỏ qua thì sự nghiên cứu của họ sẽ tỏ ra thiếu sót!
Lịch sử của dân tộc Việt Nam cũng có những cuộc chiến chống ngoại xâm nhưng với rất nhiều huyền thoại về yêu nước.
Về điểm này, nhiều khi sử của người Việt Nam trở thành một thứ tuyên truyền rất xa sự thật ngay cả bất chấp sự thật, bất chấp thực tế lịch sử và đẫn đến một thứ sử phi sử.
Các bộ sử của chúng ta – bất kể loại nào – bất kể được viết dưới triều đại nào, cần được tu chính và viết lại để sự thật lịch sử là lịch sử. Ngay cả những cuốn sách sau này như của Trần Trọng Kim, Phạm Văn Sơn và các sử gia miền Nam trước 1975 cũng cần được nhìn lại do thiếu thốn tư liệu nên cũng ít nhiều không tránh được tính chủ quan.
Đấy là tôi thực sự không muốn đề cập đến các sử gia miền Bắc XHCN.
Đứng vững ngàn năm?
Gần đây nhất – tôi lấy như một tỉ dụ cuốn Đứng Vững Ngàn Năm của tác giả Ngô Nhân Dụng(41) – không biết có thể gọi đó là cuốn sách sử hay không? Tác giả theo gót chân sói mòn của các tiền nhân, của các nhà sử học đi trước đã viết một cuốn sách mà theo tôi, nó thiếu hẳn một tri thức luận và nhận thức luận – không tài liệu dẫn chứng theo như thông lệ viết sách.
Phải nói là tác giả đã lập luận khơi khơi, vô bằng và không có cách gì kiểm chứng được những lập luận của tác giả. Tác giả thiếu hẳn một cái nhìn cơ bản dựa trên căn bản địa-chính trị giữa nước ta và nước Tầu như tôi vừa trình bầy ở trên.
Yếu tố quan trọng nhất trong việc tìm hiểu tại sao các chiến thắng của câc vị anh hùng như Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung là cần dựa trên yếu tố địa-chính trị (Géo-Politique).
Trước hết xin nhường chỗ cho Nguyễn Ngọc Bích – một người có tiếng trong làng sách báo người Việt, nhận định về cuốn sách.
Theo ông Nguyễn Ngọc Bích(42), cuốn sách:
“ …cho ta những thông tin mới hay những nhận-định sâu sắc, độc-đáo dựa vào những kết-quả rất đáng kể của ngành sử-học, xã-hội-học, khảo-cổ-học mà ta đã thụ đắc được trong gần 100 năm qua, kể từ quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
Nhưng khác với quyển sau này, cuốn của ông Kiểng chỉ đi từ những sở-kiến của ông mà hầu như không nhắc đến những nghiên cứu của ai khác. Ngược lại, cuốn Đứng vững ngàn năm thì gần như chỗ nào cũng “nói có sách, mách có chứng,” Ông nêu ra những tìm tòi của Lê Thành Khôi, Pierre Gourou, Vũ Quốc Thúc, Paul Mus, Nguyễn Phúc Long (Les nouvelles Recherches archéologiques au Vietnam) trong tiếng Pháp, của Keith Taylor (The Birth of Vietnam), Nguyễn Quốc Trị trong tiếng Anh, của cả sử-gia Nhật viết về Việt-nam, và nhất là những sử-gia Việt-nam có sách gần đây, như Lê Mạnh Hùng (Nhìn Lại Sử Việt), Tạ Chí Đại Trường (Thần, Người và Đất Việt), Trần Gia Phụng (Việt Sử Đại Cương), Vĩnh Sính, Lê Mạnh Thát. Ông cũng không ngại nhắc đến những sử-gia hay tác-giả đứng đắn ở Hà-nội như Phan Huy Lê (Tìm về Cội nguồn), Trần Quốc Vượng hay Trần Từ (Cơ cấu tổ chức của Làng Việt cổ truyền), Trần Nghĩa, hay những tác- giả cổ hơn nhưng vẫn còn giá-trị (Phan Kế Bính, Lê Dư, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Toan Ánh, Bình Nguyên Lộc…). Tóm lại, đọc Ngô Nhân Dụng, ta có cảm-tưởng được xem một bảng tổng-quan về những tiến-bộ sử-học, xã-hội-học, văn-học, khảo-cổ-học, thậm chí cả kinh-tế-học về Việt-nam, nghĩa là được thấy kiến thức của ta được phong phú hẳn lên.”
Quả thực, phải xin phép ông Nguyễn Ngọc Bích để thưa rằng, tôi phải nói Không. Không đủ mọi thứ.
Ngay trang mở đầu cuốn sách, tác giả Ngô Nhân Dụng đã trích dẫn 4 câu thơ của Thanh Tâm Tuyền – 4 câu thơ nói lên tâm trạng không khuất phục, không quỵ lụy của một trí thức miền Nam trong lao tù cộng sản.
Bốn câu thơ như sau:
“Đứng vững không khụyu chân
Trên mảnh đất nghèo khổ
Thở hít tận vô cùng
Ngây say đóa hồng rợ
Vang vang trời vào xuân, Thanh Tâm Tuyền” (TTT)
Bốn câu thơ này chỉ có ý nghĩa khi đặt nó vào trong cái ngữ cảnh (contexte) của nhà thơ trong trại tù cộng sản.
Về bài thơ Ngô Nhân Dụng trích ở chương đầu sách, Nguyễn Mạnh Trinh viết,
“Đọc những trang thơ, thấy hiển hiện những sinh hoạt của trại tù. Dù bị trù dập, dù bị đè nén, nhưng vẫn là thái độ rõ ràng, thua trận nhưng không bại hoại tư cách…”(43)
Thật ra, đây là một đoạn trích dẫn từ một dị bản của bài thơ thứ 22, “Vang vang trời vào xuân” trong tập “Thơ ở đâu xa”. Theo bản đầu tiên đã được Thanh Tâm Tuyền xem lại từng bài(44), trước khi đóng thành tập thì đoạn được Ngô Nhân Dụng trích dẫn đúng ra phải là:
“Chống cuốc đứng vững chân
Trên mảnh đất khốn khổ
Thở hít đến vô cùng
Mãi mê ngắm hồng rợ”
Từ hình ảnh “chống cuốc đứng vững chân” đến “đứng vững không khụyu chân” đã là một bước khá xa. Vậy mà với hậu ý, ông Ngô Nhân Dụng đã bắt người tù cộng sản TTT đi thêm mấy dặm đường, rồi bẻ quẹo tâm tư nhà thơ trở thành ý thức dân tộc “không khuỵu chân” trước mười thế kỷ thuộc Tầu, rồi in thành sách.
Người ta đồn, ông Ngô Nhân Dụng là một thứ Nhạc Bất Quần. Lời đồn ấy quả không sai qua câu chuyện này.
Phần tôi, cảm thấy tủi cho vong linh nhà thơ TTT, bài thơ ấy trong bối cảnh lao tù hận cộng sản – bài thơ bày tỏ một tâm tư bất khuất – bị khoác cái áo hư ảo, trở thành khí cụ tuyên truyền.
Về cách xử dụng và trích dẫn tài liệu
Được biết là ông Ngô Nhân Dụng, tên thật là Đỗ Quý Toàn, khi tị nạn cộng sản ở nước ngoài đã đi học lại. Và cũng theo những tiết lộ được công khai đăng trên báo, ông đỗ bằng tiến sĩ về kinh tế và còn là giáo sư của bốn trường đại học ở tỉnh bang Québec, hai đại học tiếng Anh là Concordia và McGill, hai đại học và cao đẳng tiếng Pháp là Đại học Université du Québec à Montréal và Royal Military College Saint-Jean(45). Nhưng mới đây cũng có thông tin trái chiều.(46)
Với đẳng cấp và học vị như thế, tôi không thể nào hiểu được ông viết một cuốn sách biên khảo – dẫn chứng mà thật sự không dẫn chứng. Ông chỉ nêu tên cuốn sách, tác giả. Sau đó ông tùy tiện viết mà người đọc đành chịu không biết dòng nào, đoạn nào, tư tưởng nào là của tác giả? Muốn truy cứu thì hoàn toàn bó tay.
Tôi lấy một cuốn sách khác để làm một so sánh nhỏ. Đó là một tác phẩm của sử gia John Prados, “Việt Nam: The history of an Unwinable War, 1945-1975” do University Press của ĐH Kansas ấn hành năm 2009. Cuốn sách dầy 665 trang, trong đó từ trang 551 đến cuối sách là notes. Nghĩa là 114 trang hay hơn 17% cuốn sách dành cho các chú thích.
Người đọc dễ dàng kiểm chứng sự kiện cũng như tham khảo thêm, khi cần. Cuốn sách “Đứng vững ngàn năm”, dầy 447 trang – không có đến một dòng chú thích – ngoại trừ mấy tấm bản đồ và ít trang mục lục.
Chắc là ông Ngô Nhân Dụng có dụng ý gì khi viết và trình bày như thế mà tôi không được biết. Nhưng tôi đặt ra nghi vấn, phải chăng đây là một thứ gian lận? Một thứ mượn tên? Hay một sản phẩm ‘ngụy tạo’ thiếu tinh thần phương pháp luận và cả tri thức luận để che lấp sự nghèo nàn về tài liệu tham khảo – một thứ nói ‘khống’ vô bằng!
Một vài ví dụ về những lý luận theo dân tộc chủ nghĩa trong cuốn “Đứng vững ngàn năm”
Ở Chương 9, Dụng Hạ biến Di, Ngô Nhân Dụng kết luận,
“Và sau đó hơn một ngàn năm thì các người phía Nam Trường Giang không còn phân biệt người Sở, người Ngô, người Mân người Việt nữa. Họ đều hãnh diện tự coi họ là người Trung Quốc. Quá trình Dụng Hạ biến Di đã thành công.”(47)
Theo Ngô Nhân Dụng, như vậy nghĩa là nhà Hán đã đồng hóa được dân phía nam sông Dương Tử nhưng không vào được Việt Nam. Tuy vậy, tác giả hoặc không biết hay không giám đề cập đến cái tự hào về tính “Hoa” “Hạ”, “Trung hạ”, “Trung Châu”, “Trung Quốc” của vua quan Việt Nam.
Một, Alexander Woodside viết,
“In 1805 Gia-Long referred to Vietnam as the “middle kingdom” or trung-quốc. The conventional Chinese term for China thus became, in Vietnamese hand, an abstraction devoid of any one geographic reference.”(48)
“Năm 1805 Gia Long coi Việt Nam là “vương quốc trung tâm” hay “Trung quốc”. Thuật ngữ tiếng Hán thường dùng để chỉ Trung Hoa, vào tay người Việt, đã trở thành một khái niệm trừu tượng không có một liên quan địa lý nào.”
Hai, Toàn thư, Tập IV, trang 135, tờ 14b chép,
“Trước đây Lý giác trốn sang Chiêm Thành nói tình hình hư thực của Trung quốc (1104)”; “Đối với những người hào kiệt Trung quốc, chúng (chỉ nhà Minh) phần nhiều vờ trao cho quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc (1417)”; Tháng 8, năm 1426, vua Lê Thái Tổ ban dụ cho cả nước viết: “Giặc còn ở Trung quốc, dân chúng còn chưa yên”(49)
Bản dịch Việt văn trong nước CHXHCN Việt Nam hiện nay chỉ dịch “Trung quốc” là nước ta, trong nước.
Ba, “Thái úy Đỗ Anh Vũ nhà Lý nói, ‘Để bọn man di quấy Hạ là tội của thần […] nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình; trộm cắp dân ven, mất mật mà theo hàng hóa.”(50)
Và còn rất nhiều thí dụ khác về việc vua quan Việt Nam tự coi mình là người Trung quốc và tự hào về văn minh “Hoa”, “Hạ”.
Tóm lại có phải “Dụng Hạ biến Di” chỉ thành công với “các người phía Nam Trường Giang” như Ngô Nhân Dụng mơ viển vông hay là chiến lược này đã ít nhiều thành công ở cả Việt Nam nữa?
Ở Chương 13, Sức đề kháng của dân Việt, Ngô Nhân Dụng viết, “Nhưng người dân Việt Nam từ thời Hai Bà Trưng cho tới thời Quang Trung vẫn nhất định bảo vệ bộ răng đen, mớ tóc dài, và cái váy.”(51)
Có thật thế không?
Về kiểu tóc
Trần Quang Đức viết,
“Qua khảo sát tư liệu hình ảnh và văn tự tương quan, có thể thấy người Việt từ thời Lý đến thời Nguyễn đã từng để nhiều kiểu tóc khác nhau […] 1. búi tóc chuy kế (búi tóc củ hành); 2. cạo trọc; 3. cắt tóc ngắn; 4. xõa tóc dài.
Trong đó, búi tóc chuy kế (búi tóc củ hành) là kiểu tóc thịnh hành vào thời Lý, và là kiểu tóc đơn nhất của nam giới Việt thời Nguyễn; tục cạo trọc đầu thường thấy ở thời Trần; mái tóc ngắn chấm vai phổ biến vào thời Trần và Lê sơ; tóc xõa dài được ưa chuộng vào thời Lê – Trịnh.”(52)
Tiếp tục đề cao chủ nghĩa dân tộc, Ngô Nhân Dụng, kể chuyện Lê Quýnh ở cuối thế kỷ 18, viết, “Một câu nói của ông còn được lưu truyền: ‘Đầu tôi có thể chặt nhưng tóc tôi không thể đổi; da tôi có thể lột nhưng áo tôi không thể bỏ.’”(53)
Cũng chuyện Lê Quýnh, Trần Quang Đức viết,
“Ngoài ra cần lưu ý thêm rằng trong khi triều thần nhà Lê là Lê Quýnh thà chết không chịu cạo tóc thì Quốc Uy công Nguyễn Phúc Thuần ở Đàng Trong lại cạo tóc tương tự kiểu kayasaki của người Nhật. Triều thần Lê Quýnh sau khi bị Phúc Khang An dụ cạo tóc đã tức giận trả lời: “Bọn ta đầu có thể chặt tóc không thể cạo, da có thể lột chứ y phục không thể thay.”(54)
Cùng một câu chuyện, Ngô Nhân Dụng và Trần Quang Đức viết rất khác nhau. Một bên đề cao dân tộc chủ nghĩa, một đằng biên khảo lịch sử. Lại nữa Trần Quang Đức luôn luôn dẫn chứng nguồn bằng văn tự nguyên bản và bản dịch, nếu có/cần cũng như hình ảnh có thực.
Thí dụ câu nói, “Ngã bối đầu khả đoạn, phát bất khả trĩ, bì khả tước, phục bất khả dịch dã”, của Lê Quýnh đã được Trần Quang Đức ghi ở cước chú là: (Việt) Hoàng Lê nhất thống chí – Đệ thập tam hồi. Nguyên văn: 我輩頭可斷,發不可雉,皮可削,服不可易也 Mục tháng 4 năm 1789 trong Cương mục cũng có ghi chép tương tự.
Về cái váy
Ngô Nhân Dụng viết câu đó “Cái thúng mà thủng hai đầu / Bên ta thì có bên Tầu thì không” chỉ là một cách để “chứng tỏ Ta và Tầu khác nhau”. Tác giả cũng nhắc đến hai câu, “Chiếu vua mùng tám tháng ba / Cấm quần không đáy người ta hãi hùng” mà ông gọi là hai câu ca chế riễu nhưng hoàn toàn không luận đến việc nếu bị cấm mặc váy thì đàn bà chẳng lẽ không mặc gì thay thế hay sao. Ngô Nhân Dụng không bàn đến việc này vì sự thực lịch sử từ năm 1744 đã đạp đổ cái luận cứ “không khụyu chân” mà ông đưa ra ở Chương một.
Theo những điều Lê Quý Đôn cho biết trong “Phủ biên tạp lục”, tương tự như sử đã chép trong “Đại Việt sử ký tục biên” và ký “Lịch sử Đàng Trong” của giáo sĩ Jean Koffler và nhiều tài liệu lịch sử khác.
1744, Nguyễn Phúc Khoát, sau này nhà Nguyễn truy tôn là Thế tông Hiếu Vũ Hoàng đế vì lời sấm truyền của người Nghệ An, “Bát thế hoàn trung đô” xưng Vũ Vương (thực ra vì Chúa Trịnh Đàng Ngoài đã xưng vương), thay đổi y phục triều đình, ra lệnh trai gái hai xứ Thuận Hóa Quảng Nam “đổi dùng quần áo Bắc quốc để tỏ sự thay đổi”, “đều ăn mặc theo thể chế nhà Minh”, “Chúa bắt bỏ lối quần áo thô bỉ của người Đàng Ngoài mà châm chước theo lối quần áo của người Tầu.”(55)
Như vậy câu nói của Nguyễn Trãi, “Phong tục Bắc Nam cũng khác” để xác định sự bất đồng giữa người Việt với người Tầu hẳn cũng đúng với văn hóa Đàng Trong Đàng Ngoài vào cuối thế kỷ thứ 18. Và như thế thì “cái váy” của Ngô Nhân Dụng đã bị chúa ở Đàng Trong đánh khuỵu. Và sau đó quần áo Đàng Ngoài đã bị vua Minh Mạng tung quả đấm bồi, cấm nhiều loại y phục trong đó áo tứ thân, váy đụp, và khố là trang phục Minh Mạng cho là xấu xí, hủ lậu nhất.
“Việc thay đổi y phục ở Ðàng Ngoài được tiến hành quy mô nhất dưới thời Nguyễn. Vua Minh Mệnh từ năm 1827 đã bắt dân Quảng Bình mặc theo lối Ðàng Trong và đến năm 1828 thì bắt dân Bắc Hà đổi theo y phục của triều đình. Việc thống nhất y phục gặp nhiều chống đối nên đến năm 1838 lại ban dụ rằng:(56)
“Ngày trước từ Linh Giang trở ra Bắc, dân vẫn mặc y phục như cũ. Ðã ban dụ truyền lệnh sửa đổi theo y phục từ Quảng Bình trở vào trong, để phong tục đồng nhất. Lại cho thời hạn rộng rãi, khiến dân được thong thả may sắm quần áo. Từ năm Minh Mệnh thứ 8 (1828) đến nay, đã 10 năm rồi, vẫn nghe nói dân chưa sửa đổi. Vả lại, từ Quảng Bình trở vào Nam, mũ khăn quần áo đều theo phong cách của nhà Hán, nhà Minh, xem khá tề chỉnh. Theo phong tục cũ của người miền Bắc con trai đóng khố, con gái mặc áo thắt vạt, dưới mặc váy. Ðẹp xấu đã thấy rõ rệt. Có kẻ đã theo tục tốt, cũng có kẻ vẫn giữ nguyên thói cũ. Phải chăng cố ý làm trái lệnh trên? Các tỉnh thành nên đem ý ấy mà chỉ bảo, khuyên dụ nhân dân. Hạn trong năm nay, phải nhất tề thay đổi. Nếu đầu năm sau, còn giữ theo y phục cũ, sẽ bị tội.”
(Theo Nguyễn Duy Chính trong Tản Mạn Lịch Sử về Hình Dáng Người Việt Thế Kỷ XVIII, dẫn theo “Minh Mệnh chính yếu”. Bản dịch Lê Phục Thiện, Sài Gòn, 1974, tập 3, tr. 283 (dẫn theo Ðỗ Ðức Hùng “Về câu ca: Tháng Tám có chiếu vua ra…”, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế – Tạp chí Xưa & Nay: Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam, 2002), tr. 91.)
May thay, sau Minh Mạng không có chính sách cấm đoán y phục gay gắt nên khăn khố, váy đụp còn được xử dụng đến đầu thế kỷ XX(57).
Như vậy, từ lệnh của Hiếu Võ Hoàng đế bắt dân, quan thay đổi y phục theo thể chế nhà Minh, đến đời Minh Mạng thành “quần chân áo chít”, áo cổ đứng, cài khuy và quần hai ống đã thay hẳn trang phục Đàng Ngoài rồi trở thành trang phục chung cho cả hai phái nam nữ mà ngày nay gọi là áo dài với quần hai ống, quốc phục của người Việt Nam. Lịch sử cho thấy “sức đề kháng” của cái váy đàn bà và cái khố của đàn ông Việt Nam không đủ mạnh và không cường điệu như lời tác giả Ngô Nhân Dụng.
Về trường hợp sử gia Keith W. Taylor và cuốn “The Birth of Vietnam”, University of California Press ấn hành năm 1983.
Sở dĩ tôi đề cập đến sử gia Keith Taylor và cuốn “The Birth of Vietnam” của ông vì một số lý do. Dưới đây chỉ là những nét chính.
Thứ nhất, Keith Taylor viết xong cuốn “The Birth of Vietnam” vào năm 1983, 33 năm về trước. So với tác phẩm mới nhất của ông, 696 trang, do Cambridge University Press phát hành năm 2013, “A history of the Vietnamese” thì rõ ràng ông đã trở lại vấn đề, và viết lại tất cả những tri thức mà ông đã tích lũy về Việt Nam.
Những người quen thuộc với các nghiên cứu lịch sử Việt Nam của những học giả viết tiếng Anh thấy ngay ở những trang đầu cuốn “A history of the Vietnamese” tác giả đang mở ra một con đường mới dù ông không nói rõ điều này. Mãi đến phần “Retrospective” (Nhìn lại), ở cuối sách, ông viết
“Considering the events discussed in this book, no conclusion can be drawn in the sense of discovering some deep logic governing a presumed destiny of the Vietnamese people. Knowledge of the Vietnamese past in the English language accumulated in the late twentieth century in the shadow of war; academics, journalists and politicians accorded the chief privilege of shaping that accumulation to the group of Vietnamese fortunate enough to have allies that remained relatively steadfast until the last battle. What accumulated came from wartime propaganda based on a stridently nationalist version of Vietnamese history that featured, first, an affirmation of Vietnamese identity pre-dating contact with the ancient Chinese and, second, dominant themes of rebellion against colonial oppression and resistance to foreign aggression; neither of these ideas can be sustained by a study of existing evidence about the past.”(58)
“Xét các sự kiện được bàn cãi trong cuốn sách này, không có kết luận nào được rút ra theo cái nghĩa khám phá logic sâu sắc nào đó đã đưa đẩy số phận tiền định của người Việt Nam. Tri thức về qúa khứ của người Việt viết bằng tiếng Anh tích luỹ ở cuối thế kỷ XX, trong bóng tối của chiến tranh; giới hàn lâm, phóng viên, chính trị gia đã có cái đặc quyền trọng yếu định hình sự tích lũy [tri thức] đó cho nhóm người Việt đã may mắn có được những đồng minh tương đối vẫn không dao động cho đến trận chiến cuối cùng [Cộng sản Việt Nam]. Những điều được tích luỹ bắt nguồn từ sự tuyên truyền thời chiến dựa trên một phiên bản chủ nghĩa dân tộc điếc cả tai của lịch sử Việt Nam, thứ nhất, đã đề cao một sự khẳng định về căn cước Việt Nam đã có trước khi có những tiếp xúc với người Hán cổ, và thứ hai, là những chủ đề chính về sự nổi dậy chống lại sự áp bức thực dân và sự kháng chiến chống ngoại xâm; cả hai ý tưởng này không thể được xác nhận bằng việc nghiên cứu những chứng cớ về quá khứ hiện còn.”
Lời thừa nhận đã sai lầm trên đây của sử gia Taylor dù trễ nhưng rất quan trọng.
Điểm sai thứ nhất trong tri thức tích lũy về lịch sử Việt Nam là Việt Nam đã có căn cước dân tộc riêng – từ thời Hùng Vương – trước khi có giao tiếp với người Trung Hoa thời cổ đại. Đây là điều Taylor đã cố lý giải trong cuốn “The Birth of Vietnam”. Tại sao đây lại là một điểm sai lớn?
Ở cuối những năm 1960 đầu thập niên 1970, những học giả “viết sử” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quyết tâm khẳng định về sự hiện hữu của một dân tộc và một nền văn hoá Việt trước khi người Trung Hoa đặt chân đến khu vực này vào thế kỷ III trước công nguyên để phục vụ cho mục đích tuyên truyền, kích động lòng dân trong chiến tranh. Cuốn “Histoire du Vietnam” của Nguyễn Khắc Viện (Éditions sociales, 1974) sau dịch thành “Việt Nam: Một thiên lịch sử” là một thí dụ tiêu biểu. Và chính Taylor đã đưa những “khám phá” này của họ vào nghiên cứu của ông.
Trái lại, ở cuốn “A history of the Vietnamese” Keith Taylor đã phản tình bằng cách bắt đầu bằng cuộc Nam tiến bành trướng của đế chế Tần vào năm 221 trước công nguyên, và lập luận rằng ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam đã hình thành trong mười thế kỷ khu vực này thuộc về các đế chế Trung Hoa. (59)
Dựa trên một phân tích sơ bộ về tiếng Hoa-Việt, và các dữ liệu mới về ngôn ngữ Mường, nhà ngôn ngữ học John Phan lập luận(60) rằng
“An Nam đã chứng kiến một “sự thay đổi ngôn ngữ” ngay trong thành phần dân số ưu tú thoát khỏi một phương ngôn tiếng Hán trung cổ và hướng về về một phương ngôn, không phải là tiếng Hán của nhóm “Proto-Việt-Mường” (tiền thân trực tiếp của ngôn ngữ hiện đại Việt và Mường). Quá trình “thay đổi ngôn ngữ” này thay đổi hoàn toàn ngữ pháp và từ vựng của Proto-Việt-Mường.”
Và thứ hai, ông cho rằng
“Một nhóm nhỏ của những phương ngôn trong mảng (đã) đa dạng của các phương ngôn lai Việt-Mường, biến đổi trong cô lập, và cuối cùng đã phát triển thành ngôn ngữ Việt Nam hiện đại.”
Như thế John Phan cho rằng ngôn ngữ Việt Nam đã “sinh” ra ở những thế kỷ đầu thiên niên kỷ thứ hai, và trong suốt ngàn năm khi người Hán thuộc địa hóa đồng bằng sông Hồng, khi người dân nói một phương ngữ tiếng Hán địa phương chuyển sang một ngôn ngữ địa bản địa.
Taylor cũng thế, trong cuốn “A history of the Vietnamese” đã theo những lập luận của John Phan, người đã cho rằng ngôn ngữ Việt Nam như hiện nay đã hình thành trong suốt đoạn sau một ngàn năm bị người Hán đô hộ.
Với lập luận nhóm ngôn ngữ và văn hoá mà gọi là người Việt Nam đã hình thành trong phạm vi, và là một thành phần của đế chế Trung Hoa, Taylor đã thách đố phần tri thức tích lũy về lịch sử Việt Nam – cho rằng người Việt luôn luôn chống lại ngoại xâm, đặc biệt là Trung Hoa – cái mà John Phan gọi là loại “tưởng tượng học thuật lịch sử” (historiographic fantasy).
Thứ nhất, Taylor cho rằng ý tưởng huyền ảo, nặng tính chủ nghĩa dân tộc, cho rằng Việt Nam liên tục ở trong tình trạng nguy ngập vì Trung Quốc không có có sở trong thực tế. Chỉ có vài lần người Trung Hoa đem quân tấn công lãnh tụ người Việt trong nhiều thế kỷ ở thiên niên thứ nhất sau công lịch – thời gian tổ tiên người Việt đã sống yên ổn, hòa bình như những cư dân của đế chế Trung Hoa. Những cuộc chinh phạt miền Nam là “hệ quả của những hoàn cảnh đặc biệt” và do đó không tiêu biểu cho bất kỳ một hiện tượng bền vững nào(61). Thứ hai, với lập trường cho rằng người Việt, về mặt văn hoá, là một thành phần trong cùng một thế giới đế chế như người Trung Hoa, ông chứng minh rằng những tuyên bố về tính riêng biệt, nét đặc thù văn hoá mà giới sử học cho rằng người Việt cố gắng gìn giữ và chống lại sự xâm lược từ bên ngoài là chuyện không có.
Đó là vài nét chính về sự thay đổi nhận định của một sử gia già kinh nghiệm và học thuật về lịch sử Việt Nam. Trong cuốn sách đồ sộ “A History of the Vietnamese” còn rất nhiều điểm đánh đổ những “tưởng tượng học thuật lịch sử” khác trong cuốn “Đứng vững Ngàn năm”.
Để hiểu tại sao đến thế kỷ XXI vẫn còn lấy những “tưởng tượng học thuật lịch sử” đem in thành sách, và vẫn có người đọc rồi vỗ tay. Hãy đọc qua dẫn chứng sau cùng. Trong bài tiểu luận tựa đề “Việt Nam Khai Quốc” (hay Những con số biết nói) đăng ở Facebook, ngày 21 tháng 7, 2013, Trần Minh Khôi viết
“Các thế hệ Việt Nam lớn lên đầu thế kỷ 20 và trong thời kỳ hậu thuộc địa tin/viết/được dạy rằng lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Họ tiếp tục thuyết giảng niềm tin này cho các thế hệ sau và nó đã trở thành một thứ tín điều, cản trở chúng ta trong việc có những nhận thức đúng đắn về quốc gia Việt Nam hiện đại. Con số không biết nói dối. Bảng thống kê dưới đây, chắc hẳn là chưa đầy đủ, cho chúng ta thấy một lịch sử hoàn toàn khác, một diện mạo khác về sự hình thành quốc gia Việt Nam.”
Sau đó tác giả liệt kê một bản niên đại gồm 64 sự kiện bắt đầu từ [1] 938 Ngô Quyền đánh Nam Hán xâm lược đến [64] 1979-1988 Việt Nam xâm nhập Thái Lan (từ Cambodia) và ghi chú như sau:
“Những cuộc chiến tranh chống kẻ thù phương Bắc. Tổng cộng: 8 lần, chưa đến 40 năm. Phần còn lại, ngoài chiến tranh chống Pháp, là chiến tranh giữa các vương quốc làm nên quốc gia Việt Nam hiện đại.”
Ghi nhận trên khai triển một đóng góp khác, mới và không nhỏ, của Keith Taylor trong cuốn “A History of the Vietnamese” về những xung đột vùng miền trong suốt lịch sử người Việt Nam, căng thẳng giữa Thăng Long với Thuận Hóa ngày xưa hay Hà Nội với Sài Gòn ở thời cận đại. Đối lập cả giữa Bắc và Nam và trong cả hai miền Bắc và Nam là một sự kiện thường xuyên tái diễn(62). Y phục Đàng Trong Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn phân tranh là thí dụ điển hình. Cảnh cán bộ cộng sản vùng Thanh Nghệ tràn ngập Hà Nội sau 1954 lại tái diễn ở Sài Gòn sau tháng 4, 1975 với cán bộ cộng sản từ Hà Nội tràn vào. Ngay cả khi ở cùng một chế độ, người Việt Nam ở giai cấp lãnh đạo cũng có phân biệt vùng miền, “Tổng Bí thư phải là người miền Bắc, có lý luận…”(63) cũng như vấn đề cân đo Nam Bắc trong những nội các Việt Nam Cộng hòa, hay tỉ số áp đảo người miền Nam trong Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Lịch sử cho thấy chưa bao giờ có một dân tộc Việt Nam thống nhất.
Tóm lại, “Quá trình tự vệ và trưởng thành của dân tộc trong ngàn năm Bắc thuộc là một phép lạ cho người Việt tự hào”(64) cũng như hàng ngàn con chữ tương tự trong cuốn “Đứng vững Ngàn năm” vẫn chỉ là một loại historiographic fantasy, một thứ tín điều, một loại bài của ban tuyên giáo dùng để tuyên truyền kích động hơn là một biên khảo lịch sử nghiêm túc.
Tôi đâm ra nghi ngờ khả năng đọc của một số nhân vật đã đọc “Đứng vững ngàn năm” của Ngô Nhân Dụng, viết bài điểm sách(65) cũng như tổ chức các buổi ra mắt sách.
Đôi lời kết
Tình thế của ngày hôm nay có khác trước nhiều.
Biên giới địa lý không còn là yếu tố quyết định cho việc thành bại hay thắng thua. Ngay cả yếu tố chính trị nay với những liên minh quân sự, chính trị, kinh tế sẽ được đặt lên bàn cân để tính toán về cái lợi, cái hại. Tất cả tùy thuộc vào một người lãnh đạo, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi đảng phái.
Nếu nói về cái hại thì cái hại số một hiện nay ở Việt nam là có một đảng độc quyền không đếm xỉa gì đến quyền lợi đất nước. Lẽ thua được nằm ở chỗ đó mà thôi!
Tiếc thay, Việt Nam đã mất nhiều cơ hội để hội nhập với bạn bè thế giới bằng lối đi ra biển, vượt thoát áp lực của nước láng giềng khổng lồ.
Một nước Lào nhỏ bé cũng có một chọn lựa can đảm để tìm một lối thoát cho họ. Còn chúng ta?
Lại một lần nữa, một tập đoàn bán nước sẵn sàng làm tay sai cho giặc.
© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline hiệu đính và minh họa
(28) Hung Nô, Bách khoa Toàn thư mở
(29) University of Washington, “A. The Main Caravan Routes (b) The Central Route” or “Middle Route.” Web <http://depts.washington.edu/uwch/silkroad/texts/weilue/appendices.html>, 12/01/2016
(30) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Quyển I, Bộ Giáo Dục, Trung tâm Học liệu, trang 129
(31) Alexandre De Rhodes, Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài, trang 27
(32) Xem các tập về “Những Người bạn cố đô Huế”, nxb Thuận Hóa, nhiều tập. Hoăc các tập này đã được người Pháp sau 1975 số hóa.
(33) Nguyễn Ngọc Huy, “Quốc triều Hình luật. Quyển A”. Viet Publisher, 1989. tr 177.
(34) Trần Quang Đức, Ngàn năm áo mũ, Nxb Nhã Nam & Thế giới, 2013, trang 92
(35) Christophoro Bori, Xứ Đàng Trong năm 1621, Hồng Nhuệ (Translator), Nguyễn Khắc Xuyên(Translator), Nguyễn Nghị (Translator), 1988, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
(36) Trần Trọng Kim, Ibid., trang 90.
(37) Trần Trọng Kim, Ibid, trang 127
(38) Xem Tào Đại Vi – Tôn Yến Khanh – Dịch giả Đặng Thuy Thúy, Lịch sử Trung Quốc, nxb Tổng Hợp Tp. HCM, 2011. , trang 130–131
(39) Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Nhà xuất bản tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 1982, trang 116
(40) Phan Khoang, Việt sử: xứ đàng trong, 1558-1777. Cuộc nam-tiến của dân-tộc Việt-Nam. Xuân Thu, 1967, trang 326–327.
(41) Ngô Nhân Dụng, “Đứng vững ngàn năm”, Người Việt xuất bản, năm 2013.
(42) Nguyễn Ngọc Bích, Đọc “Đứng vững ngàn năm” của Ngô Nhân Dụng. Diễn Đàn Thế kỷ
(43) Nguyễn Mạnh Trinh, “Thanh Tâm Tuyền, Nhà Thơ: Từ “Liên, Đêm Mặt Trời Tìm Thấy” đến “Thơ Ở Đâu Xa”. Trang Người Tình Hư vô, <https://nguoitinhhuvo.wordpress.com> truy cập 2/212016′
(44) Thanh Tâm Tuyền, “Thơ ở đâu xa”, Trang Talawas, <http://www.talawas.org/>, Truy cập 2/1/2016.
(45) Luân Hoán, “Đỗ Quý Toàn và cái cổ hạnh phúc”, 2007. Web 12/01/2016).
Thica.net, “Trang thơ Đỗ Quý Toàn”. Web <http://www.thica.net/tac-gia/do-quy-toan/>, 12/01/2016
Bách thư Toàn thư mở (tiếng Việt), Đỗ Quý Toàn. Web <https://vi.wikipedia.org/wiki/Đỗ_Quý_Toàn>, 12/01/2016; và Nguyễn Hưng Quốc, “Đọc ‘Đứng vững ngàn năm’ của Ngô Nhân Dụng”. VOA tiếng Việt, Web <http://www.voatiengviet.com/>, 12/01/2016
(46) Bằng Phong Đặng Văn Âu, “Thư gửi nhà báo Đỗ Quý Toàn”, DCVOnline, <http://dcvonline.net/>, 2/1/2016.
(47) Ngô Nhân Dụng, Ibid., 133.
(48) Alexander Woodside, “A Comparative Study of Nguyen and Ch’ing Civil Government in the First Half of the Nineteenth Century”, Harvard University Asia Center (December 15, 1988)
(49) Trần Quang Đức, Ngàn năm áo mũ, Nxb Nhã Nam & Thế giới, 2013, trang 25. Nguyên văn: 初覺亡占城,言中國虛實; Tr.289. Tờ 1b. Nguyên văn: 凡中國豪傑之士陽假以官,安揷于北; Tr.307. Tờ 37b. Nguyên văn: 賊在中國,民猶未定.
(50) Trần Quang Đức Ibid., trang 27 trích lại Cự Việt Quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự. Dẫn theo Thơ văn Lý Trần. Tập I. Trang 464 (nguyên văn: 蠻夷猾夏,臣之罪也[…]禁止夷俗,拱手而受墨刑;盜賊邊民,喪膽而歸皇化)
(51) Ngô Nhân Dụng, Ibid., trang 172.
(52) Trần Quang Đức, Ibid., trang 91.
(53) Ngô Nhân Dụng, Ibid., trang 174.
(54) Trần Quand Đức, Ibid., trang 256.
(55) Trần Quang Đức, Ibid. trang 259-260.
(56) Nguyễn Duy Chính, Tản Mạn Lịch Sử về Hình Dáng Người Việt Thế Kỷ XVIII, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 8-9 (97-98). Sở Khoa học Công nghệ Thừa thiên Huế. 2012. trang 91.
(57) Trần Quang Đức, Ibid., trang 262-263.
(58) Keith Taylor, “A history of the Vietnamese”, Cambridge University Press, 2013, trang 620.
(59) Liam C. Kelley, University of Hawai’i at Manoa, Review, Keith Taylor, “A History of the Vietnamese”, Cambridge University Press, 2013. xvi, 696 pp. $45.00 (paper). Journal of Vietnamese Studies , Volume 9 (1) – Jan 1, 2014, p107-110. Norman G. Owen, Honorary Professor, University of Hong Kong, and Scholar in Residence, Duke University. Review of a History of the Vietnamese by K. W. Taylor. 28 May 2014.
(60) John Phan ©2010, “Re-Imagining ‘Annam’: A New Analysis of Sino–Viet– Muong Linguistic Contact”, Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010 南方華裔研究雑志第四卷, 2010
(61) Keith Taylor, Ibid., trang 622-3.
(62) Keith Taylor, Ibid., trang 623-4
(63) Nguyễn Phú Trọng, “Tổng bí thư phải là người miền Bắc, có lý luận”, tuyên bố trước Đại hội XII của đảng CSVN, 29/12/2015.
(64) Ngô Nhân Dụng, Ibid., trang 19.
(65) Nguyễn Hưng Quốc, “Đọc ‘Đứng vững ngàn năm’ của Ngô Nhân Dụng”, Blog Nguyễn Hưng Quốc, VOA – Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Nguyễn Ngọc Bích, “Đọc ‘Đứng vững ngàn năm’ của Ngô Nhân Dụng”. Diễn Đàn Thế kỷ. Du Tử Lê, “Khả năng phân thân Đỗ Quí Toàn / Ngô Nhân Dụng”, Trang Ái hữu Đại học Sư phạm Sài Gong. Web <http://daihocsuphamsaigon.org/index.php/gioithieu/1632-docdvnnngonhandung>, 12/01/2016