Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p7)

Nguyễn Văn Lục

Huế là sân khấu chính trị của biết bao biến cố lớn nhỏ. Vậy mà nay nó để lại gì? Ai muốn đi tìm di tích đồn Mang Cá thì tìm ở đâu? Hỏi để hỏi vậy thôi. Càng hỏi càng không có câu trả lời. Các địa danh như Phủ Cam, Kim Long, Phường Đúc, Phú Xuân củng có biết bao dấu tích lịch sử tôn giáo, chính trị.

Bia 8 thánh tử đạo đến di tích lịch sử 9 hầm của Ngô Đình Cẩn dưới nhãn quan cộng sản

(Tiếp theo p1, p2, p3, p4p5p6)

Trấn Bình Đài (Đồn Mang Cá) phía đông bắc cố đô Huế. DCVOnline tổng hợp ảnh OntheNet

Rồi Phu Văn Lâu sừng sững như mặt tiền của Huế. Nhưng mấy ai còn để ý và nhớ nhớ tới bốn chữ ghi trên Phu Văn Lâu: khuynh cái, hạ mã. Tất cả hình như chỉ còn là vang bóng lịch sử cái còn cai mất.

[khuynh cái, hạ mã là “nghiêng lọng, xuống ngựa” khi đí qua những nơi linh thiêng, nhất là trước các Văn Miếu, Văn Thánhđể tỏ lòng tôn kính những bậc hiền tài, những vị thầy đáng kính có công lao dạy dỗ học trò. Thành ngữ của Tàu là 下 马 倾 盖 (Hạ mã khuynh cái — xuống ngựa nghiêng lọng)]

Nói chung, theo tôi, người Việt thường vô tình với lịch sử. Nay người ta thường tổ chức các buổi “Nhớ Huế”. Nhưng người ta nhớ cái gì của Huế? Chẳng lẽ chỉ nhớ tới món ăn Huế, giọng Huế, người Huế mà quên lịch sử Huế?

Ngay biến cố tết Mậu Thân nay còn để lại di tích gì? Tôi mong mỏi ít nhất dân Phủ Cam- một trong những nơi chịu nhiều oan sai trong dịp Tết mậu Thân nhất nên dựng một bức “Tường thương tiếc” với đầy đủ danh sách nạn nhân. Và không thể quên tên của nghị sĩ Trần Điền. Phủ Cam cũng là họ đạo lâu đời nhất, có nên có một biên niên sử về những người con của Chúa từng xuất thân từ họ đạo này.

Hiện nay ở Huế, người ta chỉ thấy có hai di tích lịch sử được dựng lên sau này một cách vụng về, rất phản cảm và với sự đồng tình của chính quyền Cộng sản.

Một là có một bia dựng lên ngay chỗ đài phát thanh Huế trong vụ nổ làm chết 8 người, đa số là trẻ em, năm 1963. Việc dựng bia này cũng là việc nên làm. Trên tượng đài có ghi danh sách 8 người đã tử nạn và được gọi là 8 Thánh tử đạo.

Đài kỷ niệm Thánh tử đạo tại Huế. Nguồn Vườn Lam.

Việc dựng bia tưởng niệm này, theo tôi, người ta dựng cho có vì nó sơ sài và thiếu trang nghiêm lắm. Đúng vậy, người ta có thể dựng một bia tượng bằng đá cẩm thạch chứ? Hà tiện chi với người đã chết. Các em chết do sự bất cập thời đại mà đáng lẽ các em không phải chết. Hẳn là các em không muốn làm thánh cho bằng sống tuổi thơ của mình, nhởn nhơ đánh đu, chơi đáo?

Ai là người đã cướp đi cái tuổi thơ đó? Đó là câu hỏi quan trọng nhất chứ không phải việc phong thánh cho các em.

Và vì thế có lẽ chỉ cần đề tên họ, ngày sinh có cần chi những chuyện tôn giáo, chính trị? Bản thân các em tò mò đến đó, rồi đùng một cái chết lãng xẹt nào có khái niệm gì về tôn giáo, về tranh đấu, về sự hy sinh!

Còn đối với bà mẹ các em, chỉ có một điều là họ nghĩ rằng con họ sẽ không bao giờ trở lại nữa.

Đó là nỗi đau xót nhất.

Và đối với các bà, lúc này đây, không có lý tưởng tốt xấu, mà chỉ có những đứa con đã mất. Khi ra tòa xử Đặng Sỹ — người được coi là thủ phạm gây ra 8 cái chết này — Tôi lấy làm ngạc nhiên là không một ai trong số các cha mẹ các em lên tiếng đòi bồi thường. Họ có cái quyền đó chứ. Tại sao họ đã không đòi bồi thường?

Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra ở đây cần được nhân rộng, khơi mở gợi ý cho giới tăng sĩ Phật giáo, các phật tử Huế là có đài tưởng niệm — điều đó là quý rồi — Ngoài khu bia tưởng niệm 8 nạn nhân chẳng mấy gì làm đẹp đẽ trang trọng, xây trên một khu đấp hẹp bằng xi măng. Nó thiếu một khoảng không gian rộng rãi, thoáng mát. Nó thiếu cảnh trí như cây cối, ghế ngồi. Nghĩa là nó trơ trọi và tầm thường. Nhưng không phải chỉ cho 8 nạn nhân chết oan — mà cần một đài kỷ niệm để tưởng nhớ đến 5000 nạn nhân chết thảm khốc trong vụ Tết Mậu Thân. Và nếu có thì phải gọi những nạn nhân này là gì?

Và từ 1968 đến nay, chúng ta phải làm gì và đã làm gì cho những bà con anh em, ông bà cha mẹ ruột thịt đã chết thảm, chết oan uổng, chết chôn sống, chết không toàn thây, chết vô tội trên mảnh đất oan nghiệt là xứ Huế?

Trách các thầy thì cũng không đúng. Từ 1968-1975, chúng ta có dư thời gian để dựng nên một bức tường thương tiếc, ghi danh tánh đầy đủ các nạn nhân trong vụ tàn sát thảm khốc 1968 do cộng sản gây ra. Cả dân Huế đến chính quyền Đệ II Cộng Hòa đã không ai quan tâm đủ đến việc đó.

Nay chẳng lẽ đòi cộng sản phải làm thay cho chúng ta?

Ở nước Pháp, đi đến đâu, ở khắp nơi, người ta đều ghi nhận những di tích chiến tranh đều được ghi dấu để lại. Chỗ nào có chiến trận, chỗ ấy có nghĩa trang dành cho các anh hùng tử sĩ. Ở nơi ấy, các mộ phần, không còn biên giới thù địch nữa. Sự kiêu hãnh cũng như tủi nhục không còn nữa.

Ở đó không có chỗ cho sự phê phán, phân biệt ai là thù ai là bạn, không có người Đức Phát Xít hay người kháng chiến Pháp. Đó là nét đẹp hòa giải sau chiến trận mà ý nghĩa của sự chiến thắng hay thua cuộc không được nhắc tới.

Chỉ có sự thương tiếc là đáng kể đối với những người đã ra đi.

Phần người dân Huế phải tự hỏi họ đã làm gì? Cấp chính quyền Huế hiện nay phải tự hỏi họ có bổn phận gì khi họ là nguyên nhân gây ra tội ác? Không lẽ những oan hồn uổng tử ấy chết không một nấm mồ, không một vòng hoa, không một mộ bia tưởng niệm?

Phải nhìn nhận rằng trong chiến thắng, người cộng sản đã thiếu một thứ văn hóa đối với kẻ thua trận và đối với cả người đã chết. Họ chỉ giỏi khơi động lòng căm thù như trong trường hợp Khu 9 hầm sẽ được nói tới sau đây.

Khu tưởng niệm chín hầm và hầm số 8. DCVOnline tổng hợp ảnh Onthenet.

Từ đài kỷ niệm Thánh tử đạo tại Huế và di tích 9 hầm cho thấy thiếu một văn hóa của lòng khoan dung đối với người đã chết và cả đối với người còn sống, đối với lịch sử của dân tộc.

Phần người dân Huế thì theo quán tính có thể im lặng mãi đến khó hiểu. Chẳng khác gì sự im lặng trên 40 năm nay của ngươi lãnh đạo các Phong trào Phật giáo xuống đường là ông sư Thích Trí Quang.

Họ là cái nôi của các cuộc tranh đấu xuống đường, họ hô hào, đả đảo ầm ĩ nhất. Họ còn là biểu tượng cho quê hương của Phật Giáo nay lẽ nào để những người con Phật như những oan hồn uổng tử đi vất vưởng đầu đường xó chợ?

Không biết họ sợ hãi nỗi gì? Tưởng niệm người đã chết là một tội chăng? Không lẽ không có một ai đủ thẩm quyền, đủ can đảm, đại diện cho 5000 nạn nhân đã chết, dám đứng lên đòi một tượng đài bia mộ, ghi danh sách đầy đủ các người đã chết oan trong cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân. Người ta có thể đòi một chỗ xứng đáng cho các chiến sĩ VNCH tại Nghĩa Trang đã bỏ mình thì hà cớ gì không đòi được một bia mộ cho nạn nhân Têt Mậu Thân?

Hơn nữa, tôi mong muốn hơn thế nữa. Họ có bổn phận phải đòi xây dựng một nghĩa trang khang trang trên một mảnh đồi, nơi thông thoáng nhất, dành để chôn cất tất cả những người ấy.

Thật rất tiếc nếu người ta không làm được.

Nay thì người ta chỉ lo truyện chiêng trống, cờ xí bên ngoài, quần áo lòe loẹt, lễ hội phù phiếm cóp nhặt, bắt chước để câu khách du lịch.

Du lịch là một nghề buôn giết cái hồn của dân tộc. Càng hoành tráng, càng trống rỗng nội dung, càng bày ra sự nhố nhăng, lấy cái bề ngoài, cái vỏ làm lẽ sống.

Trong khi đó, người cộng sản cho xây dựng Khu 9 hầm như chứng tích sự độc ác, tàn bạo như một địa ngục trần gian của bạo chúa Ngô Đình Cẩn. Toàn bộ khu vực nhà giam là 4 hectare, vốn là các kho đạn để lại từ thời Pháp thuộc nằm trên một ngọn đồi. Phía trước ngọn đồi là các hầm đánh số 1, 2, 3. Hầm số 4, 9 nằm trên đỉnh đồi. các hầm số 5, 6, 7, 8 nằm sau phía bên kia đồi.

Cảnh bài trí, tái thiết các hầm với các hình nộm người tù nhân — nạn nhân của Ngô Đình Cẩn — xem ra không khác chi mấy với những điều người ta đã thiết trí như ở ngoài Côn Đảo.

Ông Ngô Đình Cẩn chết đã trên nửa thế kỷ, người cộng sản vẫn sợ ông, vẫn nguyền rủa ông. Họ vẫn cố tạo ra một chế độ phi nhân, tàn bạo, phi dân tộc qua hình ảnh Ngô Đình Cẩn để che lấp tội ác của chính họ. Có hàng ngàn trại giam cộng sản từ Bắc chí Nam từ thời Pháp thuộc, thời VNCH, thời sau 1975 với hàng vạn cái chết đủ loại.

Bao giờ họ phá bỏ được các di tích ấy để đứng thẳng làm người?

Qua hơn nửa thế kỷ, vết nhơ 9 hầm càng hiển lộ là của chính họ, chứ không còn là của ông Cẩn nữa.

Cảnh trí khu 9 hầm nay thật sơ sài, hoang dã đến buồn nản.

Nhưng tôi đặc biệt quan tâm đến một trong những bức hình ghi lại trong nhà lưu niệm là hình ảnh Ngô Đình Cẩn bị xử bắn ở nhà giam Chí Hòa vào ngày 9-5-1564.

Ngoài ra thì không còn gì để nói đến nữa. Người ta còn có thể xem gì ở những nơi ấy?

Để lại hình ảnh Ngô Đình Cẩn bị xử bắn là cố gắng đổ hết tội lên đầu Ngô Đình Cẩn. Nói tới Ngô Đình Cẩn là người ta nói tới độc ác, tàn bạo, dã man và cũng là biểu tượng cho nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Những hướng dẫn viên du lịch được dặn dò phải gọi ông Cẩn là thằng Cẩn, thằng Diệm. Bật cười thay cho xã hội chủ nghĩa văn minh, tiến bộ nhất loài người?

Điều gì dành cho ông Cẩn thì trước đó cũng đã được dành cho người Pháp. Jules Roy, một phóng viên đã sang thăm Việt Nam sau trận Điện Biên Phủ đã buồn bã nói rằng đi đâu tôi cũng hỏi: Đâu là mồ của những người Pháp chúng tôi?

Chúng ta cũng có quyền hỏi, đâu là mồ cho những chiến sĩ VNCH đã bỏ mình trong chiến tranh?

Suy nghĩ về di tích 9 hầm của Ngô Đình Cẩn, tôi càng thấy cái đê tiện, cái hèn hạ, cái nhỏ nhen của người cộng sản!

Đây chẳng qua là trò ném đá dấu tay hèn hạ của người cộng sản. 9 hầm làm chết bao nhiêu người? Danh sách bao nhiêu? Trong khi tội ác giết hại 5000 dân vô tội trong dịp tết Mậu Thân thì cộng sản cố tình xóa bỏ.

Kể từ ngày 26-2-1993, 9 hầm và ngôi nhà của Ngô Đình Cẩn được sắp xếp vào di tích lịch sử với lời ghi: “Lưu niệm di tích lịch sử tội ác của 9 hầm và nhà Ngô Đình Cẩn”.

Và mỗi năm khách du lịch đi qua đây lại được bọn hướng dẫn viên cò mồi có dịp kể tội nền Đệ Nhất Cộng Hòa, kể tội thằng Cẩn độc ác, dã man chưa từng có.

Chúng ta có nên để họ tiếp tục làm như thế nữa chăng!

Người dân Huế phải đứng lên đòi công đạo.

Người dân muốn biết có bao nhiêu đồng chí bị giam ở 9 hầm? Danh sách ở đâu? Những người nào đã thực sự đã bỏ mình, chết bỏ đói ở 9 hầm?

Họ còn đổ tội cho Ngô Đình Cẩn giết hại người dân Huế. Có bao nhiêu thanh niên, bao nhiêu sinh viên, bao nhiêu phật tử bị giam cầm ở đây?

Đối với tôi, tôi còn muốn biết thật đầy đủ có bao nhiêu nhà sư, bao nhiêu Phật tử, bao nhiêu sinh viên bị giam ở 9 hầm như được cho là ở hầm số 4? Chẳng lẽ nhà chùa lại không có được danh sách đầy đủ này cho thấy tội ác của Ngô Đình Cẩn? Cho dù không có danh sách thì nay ít ra cũng có một số nhân chứng, với tên tuổi hẳn hoi, nhìn nhận là nhân chứng, đã từng bị mật vụ Ngô Đình Cẩn giam ở 9 hầm?

Và nếu thật sự có một nhà sư “thật” nào đã bỏ mình hay một phật tử bỏ mình tại nơi đây thì tội ác của Ngô Đình Cẩn không thể tha thứ được.

Trong khi đó, tôi được biết chắ chắn có 6 bị can có tội phản nghịch quốc gia, bị bắt ngày 21-8-1963 có tên sau đây và tôi tự hỏi họ bị giam giữ ở đâu? Họ có phải là nạn nhân của 9 hầm không hay được giam giữ tử tế? Dĩ nhiên, hỏi là trả lời. Họ được giam giữ tử tế.

Đó là các ông Lê Khắc Quyến, Khoa Trưởng Y Khoa Huế, Võ Như Nguyện, Chủ sự Viện Hán Học Huế, Lê Tuyên, Giám đốc Học vụ Văn Khoa, Hoàng Văn Giàu, Giảng nghiệm viên đại học, Võ Văn Thơ, phụ khảo Đại Học Sư Phạm, Nguyễn Đán, tức Thích Trí Thủ, Thượng tọa Tổng Thư ký 5, cấp Trị sự Trung Việt.

(Trich Lê Dư, Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên, Huế, tài liệu phúc trình có tên: “Tổng Kết Nội vụ và Đại Học”, bản in photcopy trang 1)

Xin trích dẫn lời khai của bị can Lê Khắc Quyến trong tập tài liệu:

“Riêng bị can Lê Khắc Quyến trong lời khai đã cho biết rõ ràng đương sự được chỉ thị của Việt Cộng lập ra tổ chức “Hòa Bình thế giới”, tập hợp một số trí thức tại Huế để hoạt động ra tờ báo “Ngày Mai” do đương sự làm chủ nhiệm với sự cộng tác của một số bác sĩ trí thức ở Huế, sau khi tờ Ngày Mai bị đình bản và phong trào Hòa Bình Thế giới bị giải tán. Đương sự vẫn ngấm ngầm tiếp xúc với tên Lê Minh, Thường vụ Khu Uỷ Việt Cộng Khu V, Ngô Trưu tức Lê Lén, Bí thư Thành Ủy Thuận Hóa, Huế để hoạt động. Hành động bí mật của đương sự bị phát giác năm 1957-1958, khi Công an Thừa Thiên bắt được 2 tên cán bộ V.C cao cấp Nguyễn Phụng tức Đạt Phó, Bí thư Tỉnh Ủy VC Thừa Thiên và Tôn Nữ Hoài An, quận Ủy viên VC Thuận Hóa đã khai xuất và tố giác hoạt động của đương sự. Sở dỉ đương sự không bị bắt vì lúc đó được sự che chở của ông Lê Khắc Duyệt, Nguyên Giám Đốc Nha Cảnh Sát và công an Trung nguyên, Trung Phần.”

(Tổng Kết Nội vụ Phật Giáo và Đại Học. Phúc trình của Trưởng Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên. Tối Mật)

Chúng tôi chỉ nêu ra một hồ sơ trên đây làm bằng chứng. Những người như Lê Khắc Quyến đã thú nhận có liên hệ hợp tác với cộng sản như Lê Minh. Sau này Lê Minh là một trong những cấp chỉ huy quân sự đã đánh chiếm Huế, gây ra cảnh chết chóc như chúng ta đã thấy.

Liệu trong số các nhà sư, giáo sư đại học, các sinh viên có dính dáng xa gần với tổ chức cộng sản, có ai trong số họ đã bị Ngô Đình Cẩn giam vào 9 hầm không? Hay 9 hầm chỉ để giam cầm không phải cán bộ cộng sản thường mà chỉ để giam cộng sản không chuyển hướng?

Ai có thể trả lời cho câu hỏi của tôi để giải nỗi oan cho Ngô Đình Cẩn? Chỉ có những người từng bị giam cầm trong 9 hầm có thể dứt khoát trả lời minh bạch về vấn đề này.

Phần cộng sản không ngừng biến khu 9 hầm để bôi nhọ Ngô Đình Cẩn khi đón tiếp các đoàn du lịch thăm viếng.

Phần các cán bộ bị giam cầm ở 9 hầm chỉ thấy họ nêu tên ra được hai người như: Hầm số 8 có Nguyễn Minh Vân, một trong ba người còn sống sót là cựu đại tá tình báo cộng sản bị giam 724 ngày hiện đang sống ở Hà Nội. Người khác nữa là Nguyễn Vĩnh Nghiệp.

Sựụ bôi nhọ, tuyên truyền phỉ báng chế độ ông Diệm và riêng cá nhân ông Cẩn là điều hiểu được và cũng là điều không hiểu được.

Bởi vì cộng sản luôn luôn hành xử bịp bợm như thế. Nhưng sự im lặng của dân Huế trong nhiều năm là diều không hiểu được.

Các cán bộ đã bị bắt giam dưới thời ông Ngô Đình Cẩn đã chuyển hướng hoặc chưa chuyển hướng đã nhận xét gì về Ngô Đình Cẩn?

Mặt chính quyền chính thức, cộng sản coi Ngô Đình Cẩn cũng như nền Đệ Nhất Cộng Hòa chất chứa đầy tội ác đối với nhân dân miền Nam. Tuy nhiên, lại có những cán bộ cộng sản từng là nạn nhân của chế độ giam cầm của Mật Vụ Ngô Đình Cẩn lại có một cái nhìn thông thoáng, nếu không nói là đề cao sách lược của Ngô Đình Cẩn.

Nhưng cũng xin thưa trước với bạn độc, khi xử dụng tài liệu trực tiếp từ phía bên kia, chúng tôi hơn ai hết thấy cần có một sự cẩn trọng ngoài thông lệ. Chẳng hạn, những tài liệu dưới dạng tiểu thuyết như cuốn Ông Cố vấn Hồ sơ một Điệp viên của Hữu Loan, Phạm Xuân Ẩn, tên người như cuộc đời của Nguyễn Thị Ngọc Hải, chúng tôi chỉ đọc chơi vài dòng chứ không dám dùng. Những sách này chỉ đánh lừa và thỏa mãn óc tò mò của những người bình dân mà thôi.

Ngay những sách dịch ngoại quốc như cuốn Decent Interval của Frank Snepp dầy 590 trang, trong khi cuốn sách dịch với nhan đề: Cuộc tháo chạy tán loạn tóm lại còn 375. Sự rút ngắn lại ấy không cho phép người đọc dễ dãi xử dụng vì sẽ bị lừa.

Cuốn Hồi Ký của Nguyễn Hiến Lê, được in lại sau này sau 1975, bị cắt cả một hai chương. Người dọc cẩn thận vẫn phải đi tìm lại ấn bản cũ hoặc đã được in lại ở Hải ngoại để độc để đọc. Nói chi những sách viết về sử học thi càng phải đắn đo, so sánh nhiều nguồn vì tính cách phi thực của chúng.

Nói chung, hầu như toàn bộ các sách ấy đều phải xử dụng một cách rất dè dặt.

Vì thế, khi tôi xử dụng một bản photocopy cuốn Bội Phản hay Chân Chính của Dư Văn Chất để dùng trong bài viết về Ngô Đình Cẩn là có lý do chính đáng của nó.

Mặc dầu ông Dư Văn Chất cũng như các cán bộ cộng sản đã bị giam tù của Mật vụ Ngô Đình Cẩn chẳng ưa gì Ngô Đình Cẩn. Họ vẫn xử dụng cách gọi xách mé như thằng Cẩn v.v. Nhưng họ bắt buộc phải nhìn nhận là cách bắt và giam người của Ngô Đình Cẩn trong chính sách chiêu mời là quá khôn ngoan và không kém hiểm độc.

Hơn nữa, cuốn sách tôi xử dụng chưa được in và hầu như cấm không được in cũng như không được phổ biến. Thứ hai nó như một điều trần hay như một thỉnh nguyện thư gửi lên cấp lãnh đạo cộng sản để bày tỏ những hoàn cảnh của họ khi bị tù dưới chế độ Mật vụ Ngô Đình Cẩn cũng như những khó khăn mà họ phải đương đầu với Mật vụ của ông Cẩn.

Trong số họ, có người kiên trì, nhất địnhh không chịu chuyển hướng nên bị tù đầy, hành hạ không ít. Trong số ấy, có một số bị giam ở 9 hầm. Còn những kẻ chịu chuyển hướng thì được ông Ngô Đình Cẩn cho phục chức và ngay cả cho nắm ngành an ninh Quốc Gia và nhiều người đã tỏ ra có tài cán và hoạt động có hiệu quả trong những công tác đã được giao phó cho họ.

Trong một bài viết tới, chúng tôi sẽ đề cập đến trường hợp Đại Tá Nguyễn Bé, một cán bộ cộng sản, sau khi bị thương ở chân, đã đổi tên, đổi họ trở về với Quốc Gia, được trọng dụng và trở thành một sĩ quan gương mẫu, tài ba và nhất là liêm chính.

Những người cộng sản hồi chánh như thế cho thấy chính sách biết dùng người của hai nền Cộng Hòa miền Nam như thế nào.

Sau 1975 thì tất cả mọi loại người tù chính trị đều được thả ra. Nhưng phần đông những người đi tù thời Mật vụ ông Ngô Đình Cẫn thì đều bị nghi ngờ và không được chính người cộng sản xử dụng.

Họ bị loại bỏ vì họ bị xếp vào thành phần có vấn đề. Tại một Hội Nghị cán bộ chủ chốt họp ở Thủ Đức, Sáu Thọ phát biểu: “Chín mươi phần trăm cán bọ đảng viên bị bắt, tù đầy dưới chế độ Mỹ-Ngụy, có vấn đề chính trị”

Chính vì thế, Dư Văn Chất viết: “Bằng tác phẩm này, tôi muốn nói với Đảng, với người thân với bạn bè, với người yêu và kẻ ghét. Nói thay cho người đã chết và cả người còn sống.” (Dư Văn Chất, Bội Phạn hay Chân Chính. Phần III: Cán bộ Chuyển Hướng, bản photocopy)

Khi viết: nói thay cho người đã chết, Dư Văn Chất muốn nói đến trường hợp cán bộ Thiếu tá Đặng An nhận được quyết định về vườn nghỉ hưu, kèm theo bản án khai trừ Đảng với bản luận tội thời gian ở tù Mật Vụ. Thật kinh khủng cái phiên tòa nội bộ. Trước khi chết, mặt trắng bệch, hai mắt trợn trùng, miệng thều thào hỏi: “Sao, đã chuyển hồ sơ khiếu nại với Đảng chưa?” (Dư Văn Chất, ibid.)

Cái chết oan sai vào năm 1990 của Đặng An để lại dư âm hai câu thơ không biết của ai đó như sau:

Nát thân, nát cả tâm hồn
Lẫn trong cái chết vẫn còn cái đau!

Ghi chú thêm về Đặng An theo Dư Văn Chất

“Đặng An tên thật là Trương Văn Quí, sanh năm 1926, ngư dân nghèo đất Phú Yên thuộc Nam Trung Bộ, cùng lứa tuổi với tôi (Dư Văn Chất) và Chân. Chúng tôi là những người đã trưởng thành trong 9 năm kháng chiến tới đỉnh cao Điện Biên Phủ. Năm 1958, Đặng An được phong quân hàm Trung úy Hải Quân. Đầu năm 1960, Chân và tôi lần đầu tiên gặp gặp Đặng An ở Mật vụ đường Lê Văn Duyệt, Sài gòn. Chúng tôi được biết Đặng An là thuyền trưởng kiêm Bí thư chi bộ một thuyền cá gồm 5 đảng viên cộng sản thuộc Cục Quân báo vượt biển xâm nhập miền Nam. Trung úy Hà Phượng, tên người thuyền phó bội phản, lên bờ đầu thú, dẫn địch bắt gọn cả thuyền, người và điện đài. Đặng An phải nhận những gì thuyền phó và anh em thuyền nhân đã khai báo với địch. Đặng An vừa mới được đưa đến trại Lê văn Duyệt ít ngày đã bị chúng nhốt ngay vào xà lim muỗi biệt phòng hai. (Xà lim giam những người không chịu khai báo và “chuyển hướng”). Sau chúng giải Đặng An ra Huế và nhốt ở Mang Cá nhỏ cùng chung xa lim với tôi. Mang Cá nhỏ là một trại giam biệt lập của Mật vụ nhốt khoảng 30 chục tù nhân Việt Cộng, là trại Trung chuyển đưa đi thủ tiêu: một lối lên chín hầm bỏ chết từ từ, từng giờ, từng ngày và từng người và lối khác mang đi chụp bao bố đem trôi sông hoặc thả biển. Mùa đông 1963, địch lột trần trụi Đặng An nhốt ở xà lim muối ở lao Ty Công An, Thừa Thiên. Cái lạnh xứ Huế buốt tận tủy Xương mà còn đem ướp muối, thử hỏi sức người chịu sao nổi? Suốt ngày đêm ghé mồm vào lỗ thông hơi, Đặng An vừa run lập cập vừa la: Đả đảo đàn áp tù nhân”. (…) Sau Giám thị Phạm Mại đành lòng mở cửa hầm, trả lại áo quần thả anh về với chúng tôi.. Tháng năm 1964, anh và tôi được ra khỏi tù.. Anh được lệnh trở ra căn cứ công tác tại tại Phòng Quân Báo Miền. Anh đổi bí danh là Năm Ân, công tác liên tục từ đó tới 1975. Ngày 30 tháng tư, cùng với đoàn Giải Phóng Quân tiến vào Sài Gòn. Thiếu tá Đặng Ân tới tìm tôi tại nhà riêng. Cũng vào dịp này, Thiếu tá Lê Chân bước ra trình diện Cách mạng và đi cải tạo.”

(Dư Văn Chất, ibid., Chương III)

Chính vì vì bị đối xử oan ức và bất công nên mới có trường hợp ông Dư Văn Chất, tập hợp đám cựu tù nhân thời ông Cẩn viết lại những trải nghiệm của họ trong nhà tù của Ngô Đình Cẩn. Và họ chủ trương, theo đúng tinh thần Nghị Quyết của Đại Hội 4 là: “Phải nói thẳng, nói thật, nói hết với Đảng”.

Vì thế, theo tôi, những diều họ viết ra tương đối là trung thực và đáng được lưu tâm tìm hiểu.

Nhưng cũng nhờ đó mà chúng ta biết được làm thế nào ông Ngô Đình Cẩn đã thành công trong Chính sách Chiêu mời những người kháng chiến cũ về hợp tác với chính phủ Quốc Gia. Và cũng nhờ những người cựu kháng chiến này mà tất cả cơ sở, đường giây liên lạc cũng như các tổ chức đường giây của họ bị lộ và dần dần bị bắt tất cả.

Điều đó cho thấy sự khôn ngoan của ông Cẩn. Nhưng nếu trong số họ, ai ngoan cố không chịu về hợp tác thì ông có những biện pháp trừng trị mạnh tay, trong đó có cả cái chết cầm chắc trong tay.

Dư Văn Chất viết về cái hoàn cảnh dở sống, dở chết nếu không chuyển hướng như sau:

“Ông sẽ cho chúng mày chết hết. Không chết cũng thân tàn ma dại. Không chết bây giờ thì về với Đảng chúng mày cũng chết — chết khổ chết dở, chết day chết dứt… xem ai thắng ai! Lời nguyền của Mật vụ còn nguyên đó. Tôi muốn nói nhỏ với oan hồn: Chết là được giải thoát, Đặng An!”

(Dư Văn Chất, ibid.)

Có nghĩa theo thì có con đường sống mà không theo thì chết. Phải chăng đó là cái ác của ông Cẩn.

Cón phần đông dân chúng không hiểu hoạt động cũng như đường lối hoạt động bí mật của nhóm Mật vụ ông Cẩn nên đã nghi ngờ và những sự xử sự độc ác với cộng sản không chuyển hướng có thể bị cho là tiêu diệt những người Quốc Gia?

Chính cái tổ chức của đám Mật vụ Ngô Đình Cẩn mang tính cách một hoạt động bí mật trong việc truy tìm thủ phạm, thủ tục bắt giam, ngoài khung pháp lý bình thường đã trở thành nỗi oan cho chính các nhân viên mật vụ.

Và trớ trêu thay, chỉ những người trong cuộc, những cựu cán bộ cộng sản đã chuyển hướng hay không chuyển hướng lại là những người hiểu rõ nhất về tổ chức Mật vụ Ngô Đình Cẩn.

Cho nên, giải nỗi oan cho đám nhân viên mật vụ Dương Văn Hiếu và cho cá nhân Ngô Đinh Cẩn không ai rõ hơn các người từng bị bắt và bị giam dưới thời Ngô Đình Cẩn.

Cũng vì thế, khi viết về tình trạng những người cán bộ cộng sản bị bắt dưới thời Ngô Đình Cẩn, ông Dư Văn Chất đã mong muốn đưa tập tài liệu Bội Phản hay Chân Chính ra ngoại quốc và mong chuyển tập tài liệu của ông đến tay Dương Văn Hiếu để ông Hiếu cho ý kiến.

Thật là không biết nói sao đây, giải nỗi oan cho Ngô Đình Cẩn, đề cao trí thông minh và kế sách chiêu mời hiểm độc cũng như sự thành công hữu hiệu của chính sách ấy lại do chính những kẻ thù của ông Cẩn viết ra.

Trong một đoạn khác, Dư Văn Chất giải thích sau “cách mạng 1 tháng 11-1963, bằng cách nào các cán bộ cộng sản được thả ra hàng loạt tù nhân của Mật vụ.”

Một lần nữa cho thấy tinh thần làm việc hoàn toàn vô trách nhiệm của đám lãnh đạo quân phiệt như đám Dương Văn Minh- Nguyễn Khánh đã thả hổ về rừng.

Miền Nam thua cuộc vì những đám lãnh đạo nây.

Sự tiết lộ của Dư Văn Chất thật sự là quan quan trọng. Sau đây là lời giải thích của Dư Văn Chất cắt nghĩa tại sao họ đã được thả ra một cách dễ dàng như vậy.

Trong đó cũng có sự trao đổi giữa Dư Văn Chất, cựu tù mật vụ được thả ra và Chân, một cán bộ đã chuyển hướng và làm Thiếu tá, phụ tá cho Dương Văn Hiếu. Đây là cuộc trao đổi khá trung thức giữa người đã chuyển hướng và người chưa chuyển hướng mà cuối cùng số phận kẻ không chuyển hướng không hơn gì số phận kẻ đã chuyển hướng sau 1975.

Xin mời bạn đọc theo dõi cuộc trò chuyện giữa những người đã từng là đồng chí.

“Thế phe đảo chánh thuộc cánh nào mà lại thả các anh?

Không dễ gì đâu.

— Chuyện hơi dài, tóm tắt là thế này: lập tức sau ngày Diệm đổ, bọn mình đấu tranh gắt “củ kiệu” với chính quyền mới. Anh thấy đó, thoát khỏi nanh vuốt của Mật vụ là khỏe re. Chỉ một chút xíu dân chủ với nhân quyền thôi là bọn chúng kẹt ngay, kiếm hoài không đâu có hồ sơ hay bút tích nói về việc này. Viên Trung úy phe đảo chánh tiếp quản Ty Công An Huế phủi tay: Cho giải luôn tất cả đám “tù lậu” về trả Tổng Nha Công An Sài Gòn. Tới đâu bọn mình cũng la làng: Đây là anh em trí thức dân chủ bị chính quyền độc tài khủng bố, vu cáo, bắt bất hợp pháp, không làm hồ sơ, không có án tòa vv..mà đúng căn bọn độc tài là thế thật- thằng chó nào cũng như thằng nấy thôi.

Về tới khám Cộng Hòa thuộc Tổng Nha Công An, đúng vào lúc Hà Thúc Ký làm Bộ Trưởng Nội vụ thị sát trại giam, thăm hỏi và nhận diện tù nhân. Thấy đúng người cùng đảng phái với y là y lấy ra lập tức, không có oong-đơ gì hết, vì y cũng biết anh làm quân sư cho Dương Văn Hiếu, muốn làm gì trong trại tù, bọn Hiếu, Thái, Khanh đều tham khảo ý kiến cố vấn là anh. (Anh đây là cán bộ Chân, đã chuyển hướng và được phong chức Thiếu tá, làm việc cho Dương Văn Hiếu.)

— Anh nói tham khảo thì tôi chịu — Chân đáp lại ngay. Chớ quân sư với cố vấn thì không đúng. Có cái họ hỏi, cái thì họ không. Dù có hỏi thì cũng đẫ tham khảo, chứ họ đã quyết là quyết định độc lập, không ảnh hưởng họ đâu. Mỗi khi đưa ý kiến ra là tôi đều suy tính sao cho có lợi cho anh em.”

(Dư Văn Chất, ibid.)

Và sau đây là tâm tư của Dư Văn Chất, khi biết rằng chẳng bao lâu nữa, Chân người đồng chí của anh ta từ thời kháng chiến 9 năm, đã chuyển hướng, và sau 1975 đã phải đi học tập cải tạo và đã được Mỹ nhận trong chương trình H.O. sang Mỹ cùng vợ con.

“Qua những giọt lệ ứ động quanh khóe mắt, tôi nhìn thấy nét mạt phởn phơ của Chân mà lòng dạ chán chường, thoáng hiện ra trong trí tưởng tượng chiếc phản lực cơ khổng lồ với hình ảnh gia đình Chân tay xách nách mang tíu tít trèo vội lên thang máy bay. Con đại bàng gầm rú vang trời, thoắt một cái đã nâng bổng mọi người vút lên mấy tầng xanh. Còn trơ lại bọn tôi với cỗ quan tài mộc mạc ép chặt cái hình hài bé nhỏ Đặng An, mặt mày trắng bệch, hai mắt trợn trừng, miệng thều thào hỏi: Sao, đã chuyển hồ sơ khiếu nại với Đảng chưa?”

(Dư Văn Chất, ibid.)

Chỉ đọc mấy dồng chót của Dư Văn Chất đủ cho thấy Chân chọn con đường chuyển hướng là đúng, để lại sự bẽ bàng, tủi nhục cho những người quyết tâm kiên trì, không chuyển hướng như Dư Văn Chất và số phận của Đặng An.

Những người Quốc Gia cũng như một số không nhỏ người Huế tiếp tục chê trách ông Ngô Đình Cẩn là hung thần ở miền Trung, tôi nghĩ không có cách nào thay đổi cái nhìn của họ về chế độ. Nhưng tôi nghĩ trong một cuộc chiến như Việt Nam giữa Quốc Gia và Cộng sản cơ quan Mật vụ của Ngô Đình Cẩn là những công việc không thể không làm một cách chẳng đặng đừng.

Cộng sản Việt Nam cũng như cộng sản trên thế giới dùng bạo lực Cách mạng đã sát hại hàng ngàn, hàng vạn người dân vô tội. Tội ác của họ là không bút mực nào tả hết.

Ông Ngô Đình Cẩn, một người nông dân ít học, một người, mà theo tôi, hiểu cộng sản hơn ai hết, bằng xương thịt trong huyết quản, hơn cả giới trí thức như những người anh em của ông.

Ông thường sống trên một căn nhà sàn trên mặt nước ngoài bãi biển Thuận An. Ông gần gũi người dân hơn bất cứ ai và dựa vào tình báo nhân đân hơn là mấy móc, điện đài kỹ thuật tinh vi, tối tân.

Vậy mà ông đã diệt, xóa trắng được những cơ sở của Việt Cộng khiến họ phải nể sợ ông.

Tôi không có điều kiện để có thống kê đầy đủ là Ngô Đình Cẩn đã giết hại bao nhiêu cán bộ cộng sản. Và nhất là càng không biết ông đã giết oan những người dân Huế vô tội là bao nhiêu? Nhưng con số cán bộ cộng sản bị bắt thì có thể biết được. Cũng theo Dư Văn Chất, cán bộ nằm vùng bị bắt là khoảng 5000. Dư Văn Chất viết:

“Một cách cụ thể, khoảng 5000 cán bộ, đảng viên từ cơ sở đến trung cao cấp bị bắt từ 1958-1960, kể cả linh hồn của tổ chức tình báo chiến lược, ông Trần Quốc Hương. Phải công nhận bọn Mật vụ Ngô Đình Cẩn giỏi thật. Tại sao mình không dám nói là địch giỏi nếu thực sự nó giỏi, mà cứ phải vòng quanh chơi chữ để hạ thấp nó xuống và tìm cách che đậy, tự tôn mình lên.

Địch giỏi ở chỗ nào? Trước hết ở chỗ tác động vào quần chúng làm cho quần chúng buộc phải tố cáo việt cộng thực hay chỉ nghi việt cộng.

Sau là chủ trương gọi là chuyển hướng những người kháng chiến cũ dựa vào tình thế khách quan: những sai lầm trong cải cách ruộng đất, phản bội kháng chiến, tính cách lỗi thời của chủ nghĩa cộng sản để thuyết phục cán bộ, đảng viên.”

(Dư Văn Chất, ibid., Chương Mở đầu. So sánh.)

Nhưng so với chiến dịch Phượng Hoàng sau này của Mỹ thì số nạn nhân của Ngô Đình Cẩn hẳn là không nghĩa lý gì.

Còn nếu so với số nạn nhân do cộng sản giết hại thì hẳn đó là một con số vô nghĩa như trong Cải Cách ruộng đất, v.v..

Cuộc chiến nào mà không đẫm máu mà không tàn bạo, mà không đầy những âm mưu, những thủ đọan, những vụ tàn sát? Tôi từng xem những kháng chiến quân Pháp mang ra xử bắn hàng loạt những người bị tình nghi hoạt động cho Đức mà không qua một tòa án nào. Thời Việt Minh mới nổi lên, những gia đình có chút của cải bị Việt Minh mang ra xử bắn, cho vào rọ trôi sông chỉ vì không cung cấp một nải chuối, một con gà cho du kích đang đóng chốt ở trong nhà. Đó là những câu chuyện có thật 100%.

Tôi cũng đọc một tài liệu của Anthony Cave Brown viết về chiến tranh bí mật trong thế chiến thứ hai: La guerre secrète. Trong đó mọi chuyện đều có thể cho thấy Mật vụ Ngô Đình Cẩn chỉ là một cái xấu đi nữa, vẫn là một cái xấu cần thiết trong một cuộc chiến mà mọi phương tiện để tiêu diệt kẻ thù đều có thể. Như lời của Wins ton Churchill được trích dẫn trong sách để kết thúc bài viết này. Dịch sơ lược.

“Ở mức độ cao nhất của các hoạt động tình báo, các sự kiện có thực trong nhiều trường hợp đã xảy ra dưới nhiều bộ dạng khác nhau, do nhiều những sáng kiến cực kỳ kỳ diệu mà người ta có thể chỉ tìm thấy trong các tiểu thuyết phiêu lưu hay trong các kịch bản. Các thủ đoạn lồng trong các thủ đoạn, các âm mưu và phản âm mưu, sự xảo trá, phản trắc, nhân viên tình báo thật và phản tình báo, tình báo nhị trùng, với việc xử dụng vàng bạc, sắt thép, bom đạn, dao găm, các cuộc xử bắn đan xen vào nhau như một hệ thống rất phức tạp đến độ không tin là có thật, trong khi nó là thực sự như vậy. Các vị đầu não cũng như các sĩ quan cao cấp của ngành mật vụ thích thú với những công việc bí mật phức tạp như trong các việc ở dưới lòng đất và theo đuổi các công tác của họ với sự đam mê một cách lạnh tanh và hoàn toàn bí mật.”

(Anthony Cave Brown. La guerre secrète. Le rempart des mensonges. 1975, trang 35)

Hoạt động Mật vụ Ngô Đình Cẩn chắc hẳn chưa đạt đến tình trạng tinh vi và nhà nghề như thế của các nước đồng minh trong Thế chiến thứ hai.

Phải chăng chúng ta quá ngây thơ, khờ khạo, hoặc quá thiên về đạo đức, hoặc bị cộng sản tuyên truyền nên đã coi cơ quan Mật vụ của Ngô Đình Cẩn như những hung thần của chế độ?

Còn nếu không như thế thì nên trả lại công đạo cho Ngô Đình Cẩn và đám Mật vụ. Họ đã chu toàn một nhiệm vụ đày khó khăn trong một cuộc chiến tranh toàn diện mà ngành điệp báo- dù còn non nớt, sơ khởi- là tối cần thiết và không thể thiếu được.

Cộng sản đã thắng miền Nam thời Đệ Nhị Cộng Hòa vì ngành điệp báo tỏ ra yếu kém, để cộng sản xâm nhập vào khắp nơi trong bộ máy chính quyền miền Nam.

Và nên chăng có một bông hồng  bên mộ bia Ngô Đình Cẩn thay vì những lời nguyền rủa?

(Còn tiếp)

© 2017 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: DCVOnline biên tập và minh hoạ.

1 Comment on “Ngô Đình Cẩn. Ông là ai? (p7)

  1. LÝ THUYẾT VÀ THỰC TẾ

    Xã hội như khu rừng
    Cây cối đều mọi loại
    Hoàn toàn riêng biệt nhau
    Cây nào chẳng ham sống

    Nên mục đích chính trị
    Là làm sao hài hòa
    Phải khách quan khoa học
    Không mê tín sa đà

    Vậy nhưng ông Các Mác
    Hô giai cấp đấu tranh
    Xã hội thành guồng máy
    Chống nhau kiểu ta bà

    Đã biến thành guồng máy
    Mọi con ốc đều quay
    Máy con từ máy cái
    Nghĩ rằng đâu có sai

    Nên phát sinh nhiều cái
    Tổ chức và tuyên truyền
    Cưỡng chế và bạo lực
    Làm chiến tranh triền miên

    Nên đâu có chỗ dừng
    Giống đạn trong nòng súng
    Viên này bắn đi rồi
    Lại đẩy lên viên khác

    Ai cũng thành tội ác
    Ai cũng thành nạn nhân
    Bởi thế cài răng lược
    Có còn gì nhân văn

    Như vụ Thích Trí Quang
    Đã hơn nữa thế kỷ
    Bàn thờ Phật xuống đường
    Tám trẻ em bị giết

    Lại có người tự thiêu
    Cũng hô là đạo pháp
    Thật ra tạp pí lù
    Sự thật đâu đổi khác

    Nhiều tượng đài mọc lên
    Con người thành cỏ rác
    Nhằm mục đích tuyên truyền
    Xã hội thành bệ rạc

    Nhưng thời xưa không Mác
    Xã hội có thế đâu
    Cả ngàn năm chân thật
    Ít có ai dối đời

    Bởi rừng cây mọc thẳng
    Đâu cột chùm với nhau
    Mỗi cây đều độc lập
    Tự do đến bạc đầu

    Thế mới biết nhân loại
    Khi rơi vào độc tài
    Con người thành phương tiện
    Chẳng còn ai thương ai

    Bởi vì bản năng sống
    Ai cũng phải cứu mình
    Hơi đâu cứu đồng loại
    Cuộc sống thành linh tinh

    Nên rõ ràng lý thuyết
    Làm chỉ nam thực hành
    Lý thuyết mà sai tuốt
    Thực hành thành tanh bành

    Nhưng cái lao đã ném
    Có bao giờ tự dừng
    Trừ phi nó rớt xuống
    Mọi việc thành dững dưng

    Nên chi nghĩa cách mạng
    Một thời từng lẫy lừng
    Chỉ tiếc là ảo cả
    Làm bao người rưng rưng

    Trừ ra người cuồng tín
    Chỉ luôn nhảy cà tưng
    Chưa khi nào nghĩ lại
    Hóa lại toàn não nùng

    Sai ly mà đi dặm
    Đó lịch sử loài người
    Lý thuyết hóa quan trọng
    Không thể nào nói chơi

    Thực tế đời là vậy
    Nếu không thì lạc loài
    Bao hào quang lấp lánh
    Thật ra lại chỉ tồi

    BÚT NGÀN
    (30/5/17)