Những kẻ bị khai trừ (I)

Nguyễn Văn Lục

Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn. – Dương Quỳnh Hoa

Kể từ khi thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay (1) đã có bao nhiêu cuộc thanh trừng nội bộ, hoặc thủ tiêu các đồng chí của chính họ?

Câu trả lời là không kể xiết được. Bàn tay sắt của đảng cộng sản với bạo lực và lừa bịp đã kéo dài từ hơn nửa thế kỷ nay. Lúc mà người ta nhận diện ra được thế nào là chủ nghĩa cộng sản thì đã quá trễ… Sở dĩ có tình trạng khai trừ là vì chế độc độc đảng, độc tài đến nỗi con người nghĩ ngợi cũng cần phải xin phép. Con người luôn luôn ở trong tình trạng có tội, bị khai trừ. Đó là một thứ tù nhân trong tương lai.

Và mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi lần thay đổi chính sách lại có thứ tù nhân mới, có kẻ bị khai trừ mới. Có thứ bị khai trừ trong “thời kỳ” theo đệ tứ hay theo đệ tam, khai trừ “thời kỳ” cải cách ruộng đất, khai trừ “thời kỳ” Nhân Văn Giai Phẩm, khai trừ “thời kỳ” chính sách theo Nga hay theo Tàu, khai trừ “thời kỳ” trong “vụ án chống đảng, chống nhà nước ta đi theo chủ nghĩa xét lại và làm tình báo cho nước ngoài”, khai trừ “thời kỳ” Mặt trận Giải phóng miền Nam, khai trừ “thời kỳ” những người cựu kháng chiến Nam bộ.

Và nay có thêm một thứ khai trừ mới: Phe phái tranh ăn tìm cách loại trừ nhau… Như mới đây, những người dính dáng trong vụ PMU nay bị bắt và bị điều tra. Tướng công an Phạn Xuân Quắc bị điều tra. Hai nhà báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt.

Tham Nhũng liên kết với đảng được dịp trả thù đối với những ai đòi công lý.

Thêm nạn nhân, thêm oán hận, thêm tủi nhục, thêm phân hóa, chia rẽ, thêm lãng phi nhân lực. Đã có biết bao gia đình tan nát lầm than trong cải cách ruộng đẩt. Phùng Quán đã diễn tả bản chất đảng cộng sản đối với dân:

Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả

Chúng tôi, xin lược chọn một vài thời kỳ khai trừ chưa được nói tới nhiều mà thôi.

Đối với người cộng sản, họ chia dân chúng ra ba loại người và có ba cách đối xử. Hoặc dân phải “ngoan”, chữ dùng của Vũ Thư Hiên. Ngoan thì tạm yên thân Bảo biểu tình chống Mỹ, chống Tàu thì chống. Bây giờ bảo không được chống thì không đựợc chống. Nghĩa là bảo gì nghe nấy.

Nhưng nếu trong xã hội chẳng may có nmhiều người ngoan thì bướng trở thành một cái tội. Bướng, bất mãn, không “giáo dục” được, tức ngoan cố thì bị khai trừ. Nhưng nếu chống đối nữa thi trở hành phản động sẽ bị thanh trừng, bị tù tội hoặc thủ tiêu, ám sát..

Khai trừ nhóm đệ tứ, còn gọi là Trốt-kít

Vì thế, ngay từ cuối năm 1937, tại Nam phần, đã xảy ra liên tiếp các cuộc thanh trừng nội bộ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế do cộng sản Pháp như Duclos, Gitton giật giây những người cộng sản đệ tam như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Nguyễn. Gitton đã viết thơ cho Nguyễn Văn Nguyễn, đề ngày 19 tháng 5, 1957 như sau:

“Phải chấm dứt sự hợp tác với bọn Tạ Thu Thâu kể từ nay..Phải gấp rút ly khai.” 

Chứng cớ là Daniel Guérin, bạn thân của ông Tạ Thu Thâu hồi ở Pháp đã viết như sau:

Tạ Thu Thâu (1906-1945). Nguồn: OntheNet

“Ngoài sự bắt bớ của chính phủ, bọn Stalinist quyết đồ sát Tạ Thu Thâu, vu cáo là Phát Xít. Ấy là, chính ở Paris mà bọn Stalinist mưu đồ sát hại Tạ Thu Thâu và các bạn của Thâu. Các bạn nên hiểu ràng, chính từ trong khám đường sâu thảm, Tạ Thu Thâu, người bạn của chúng ta chỉ còn trông cậy có chúng ta, hy vọng có chúng ta.

(trích dẫn Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký 1925-1964, từ trang 23-25, chưa xuất bản).

Ngoài Tạ thu Thâu, lần lượt đến Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang An, Phan Văn Chánh, Nguyễn Bình hay những người có cộng tác với Việt Minh trong Mặt trận Quốc gia thống nhất như Huỳnh Phú Sổ, Dương Văn Giáo.

Họ đã lần lượt bị sát hại. Vì đối với cộng sản, đệ tứ là kẻ thù trên cả kẻ thù như thực dân Pháp.

Trong dịp Trần Văn Giàu đến Paris hồi tháng 10, 1989, hơn 100 nhân sĩ, trí thức VN ở Pháp đã chất vấn Trần Văn Giàu về vấn đề thủ tiêu ám sát đệ tứ. Theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu cho biết Trần Văn Giàu rất lúng túng. Việc họp này đã được thu băng và còn được lưu giữ. Trần Văn Giàu cũng hứa “rửa” tiếng cho Tạ Thu Thâu, nếu đảng cộng sản VN không “rửa”. Nhưng từ đó đến nay, chưa bao giờ thấy Trần Văn Giàu làm gì để “rửa” cả. (Trích Trần Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm, thân thế và sự nghiệp, trang 358). Ngoài các nhóm đệ tứ bị sát hại ở miền Nam, ngoài Bắc những trí thức miền Bắc như Trương Tửu, Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường cũng bị tiếng oan là đệ tứ. Nhất là trường hợp Trần Đức Thảo, một trí thức thân với đệ tam.

Nhưng ai đã giết Tạ Thu Thâu?

Vào năm 1989, tại Pháp, hơn 100 nhân vật chính trị và văn hóa đòi phục hồi danh dự cho Tạ Thu Thâu bị giết tại ven biển Mỹ Khê, Quảng Ngãi vào tháng 9, 1945. Những người giết Tạ Thu Thâu kết tội ông làm Việt gian cho phát xít Nhật. Cuối năm 1939, chính Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo cho quốc tế cộng sản ghi rõ:

Đối với bọn Trốt Kýt, không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của Phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị.

Ông viết tiếp khi ở bên Tàu: “Bọn Trốt kít là một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát xít Nhật và chủ nghĩa Phát xít Quốc tế” (Trích Thành Tín, Mặt Thật, trang 112-113, Turpin Press 1994).

Theo ông Hoàng Hoa Khôi, thuộc nhóm đệ tứ trong tập hồ sơ: Nhìn lại sáu mươi năm tranh đấu cho Việt Nam, ông viết:

“Sau khi điều tra, chúng tôi biết được ba thủ pham. Họ đều là những người cộng sản. Người thứ nhất là Kiều Đức Thắng, trách nhiệm nghiệp đoàn, người thứ hai là Nguyễn Văn Trấn, đã từng được đi học tập ở Moscow, người thứ ba là Nguyễn Văn Tây, cựu bộ Trưởng chính phủ Trần Văn Giàu”.

(Trích Hoàng Hoa Khôi, Hồ sơ đệ tứ, trang 228 ).

Cũng cần nói thêm ông Nguyễn Văn Trấn sau này đã phản tỉnh và viết cuốn: Viết cho mẹ và Quốc Hội. Trong sách, ông Trấn né tránh về vai trò sát thủ của ông trong việc thủ tiêu những người CS đệ tứ. Ông là cánh tay mặt của Trần Văn Giàu, người bị coi là có trách nhiệm trong các vụ ám sát nhóm đệ tứ. Ông mất năm 1998.

Cũng có nhiều tài liệu khác viết về cái chết của Tạ Thu Thâu như cuốn Việt Nam 1920-1945 của ông Ngô Văn hay tài liệu: Người Việt ở Pháp 1940-1954 của ông Đặng Văn Long.

Khai trừ nội bộ ở ngoài Bắc

Sau cuộc chiến 1954-1975, theo ông Bùi Tín, có đến hàng trăm vụ án chính trị gọi là “chống lại lãnh đạo”, “chống đảng”, “xét lại”, “phản động” vẫn không được thanh minh để giải tỏa nỗi oan ức. Những người trực tiếp trách nhiệm là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Mà Võ Nguyên Giáp sợ. Mà Hồ chí Minh im lặng. Sau đó, ông Bùi Tín trong bản kiến nghị của một công dân, ông đã đưa ra hằng trăm tên tuổi những người bị tù, bị oan ức, bị xỉ nhục. Gia đình họ bị điêu đứng. Có người đã chết oan ức và tủi nhục. Ông Bùi Tín đã đòi công lý cho các người sau đây: các tướng Đặng Kim Giang, Nguyễn Vinh, Lê Liêm; các đại tá Đỗ Đức Kiên, Nguyễn Minh Nghĩa, Nguyễn Hiếu, Phan Hoàng; các giáo sư: Bùi Công Trừng, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh; các nhà báo: Hoàng Thế Dũng, Nguyễn Kiên Giang, Quang Hân, Mai Luân, Mai Hiển, Định Chân, Trần Thư, Khắc Tiếp, Hồng Văn; các văn nghệ sĩ Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Minh Giang, Quang Dũng, Trần Châu, Trần Đĩnh, Hà Minh Tuân, Việt Phương, Anh Chính, Sỹ Ngọc, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Lê Văn, Chu Ngọc, Trần Tích Linh; vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh; các đại tá Ngọc Bằng, Cao Nham, Đỗ Trường, Nguyễn Trần Thiết bị giữ và vụ án ông Ta Đình Đề.

Trong cuốn Án tích cộng sản Việt Nam, tác giả Trần Gia Phụng đã đưa ra một danh sách trong “Thông Điệp xanh” mà nhiều tên tuổi phù hợp với danh sách của ông Bùi Tín:

Bùi Công Trừng, Bùi Ngọc Tấn, Dương Bạch Mai, Đào Phan tức Đào Huy Dếnh, Đặng Cần, Đặng Đình Cầu, Đặng Kim Giang, Đinh Chân, Đỗ Đức Kiên, Đỗ Văn Doãn, Hoàng Minh Chính, Hoàng Thế Dũng, Huy Vân, Lê Liêm Lê Minh Nghĩa, Lê Trọng Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Lưu Động, Mạc Lân, Mai Hiến, Mai Lân, Minh Tranh, Nguyễn Cận, Nguyễn Gia Lộc, Nguyễn Hồng Sỹ, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Minh Cần, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thẩm, Nguyễn Văn Vịnh, Phạm Kỳ Vân, Phạm Quang Đức, Phạm Viết, Phan Thế Vấn, Phùng Văn Mỹ, Quảng Hân, Trần Châu, Trần Đĩnh, Trần Minh Việt, Trần Thư, Tuân Nguyễn, Ung Văn Khiêm, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Huy Cương, Vũ Thư Hiên.

Đó là những nạn nhân ở phía Bắc mà ông Bùi Tín có giao tiếp, quen biết và biết rõ.

Trong số những người trên, nhà văn Vũ Thư Hiên cho biết bố ông là Vũ Đình Huỳnh bị bắt vì tội thành phần “xét lại”. Ông bị bắt ngày 18/10/1967 vì “chống đảng”. Theo bà Phạm Thị Tề, chồng bà bị còng tay bằng còng số 8, nhưng còng sắt không vừa, họ đã trói giật cánh khủy ông, một ông già đã về hưu. Hình ảnh đó cho đến chết tôi cũng không thể quên, vì nó tàn bạo và man rợ gấp bội phần so với thời thực dân” (trên Diễn đàn số 44).

Ít lâu sau đến lượt Vũ Thư Hiên theo bố vào tù. Bố đi tù thì theo lý lịch, theo luật tru di tam tộc, không tội trở thành có tội, con phải tù theo là phải rồi. Cũng nhờ đó mà sau này Vũ Thư Hiên viết cuốn Đêm giữa ban ngày.

Một cuốn sách làm nên tên tuổi anh.

Mặt trận giải phóng miền Nam

Dương Quỳnh Hoa tự Bảy Hồng. Nguồn: OntheNet

Phần đông những người của MTGPMN đều là trí thức, chuyên viên. Có tất cả khoảng 30 người vào khu. Chỉ có ba cặp vợ chồng, còn tất cả đi một mình. Có thêm 6 thanh niên chưa quá 30 tuổi. Vào khu rồi bà Dương Quỳnh Hoa mới thành hôn với kỹ sư Huỳnh Văn Nghị. Ngay sau 1975, chừng một tháng, Hà nội đã xóa sổ MTGPMN. Từ đó phần đông những người đã theo Mặt trận bất mãn, chống đối và ly khai. Họ là những người như Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Trọng Văn, (ba người này không vào khu, vẫn ở thành phố) Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa. Trước đây, họ bị coi là bù nhìn, sau họ cảm thấy bị phỉnh gạt trắng trợn. Phần lớn âm thầm, nuốt nhục rút lui, hoặc trốn ra ngoại quốc như bộ trưởng Trương Như Tảng.

Dù sao, bỏ quên là một hình thức khai trừ nhẹ nhàng nhất mà họ may phúc được hưởng.

Hoặc xin ra khỏi đảng như vợ chồng bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.

Bà Dương Quỳnh Hoa mất ngày 25/02/2006, tại Sài gòn. Sinh thời, bà theo học ngành thuốc tại Sài gòn và nhất là tại Pháp, gia nhập đảng cộng sản Pháp vào những năm 1948-1954. Với tư tưởng xã hội và cấp tiến như thế, bà tham gia MTDTGPMN. Sau này bà đã thú nhận, đó là một ảo tưởng chính trị trong đời.

Ông Huỳnh Văn Nghị, chồng bà đã phản đối quyết định thống nhất ngay lập tức Mặt trận giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng dân chủ và hòa bình. Họ bị loại trừ. Bà xin ra khỏi đảng, nhưng thời đó, thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với điều kiện bà phải giữ im lặng. Nhưng sư im lặng đó không kéo dài được lâu khi bà phải chứng kiến quá nhiều điều “phản cách mạng” từ khi đảng cộng sản Việt Nam ‘thực thi’ cái lý tưởng mà bà đã hy sinh cả đời sống cho nó. Khi được tờ báo Far Eastern Economic Review (FEER) phỏng vấn vào ngày 17/10/1996: Quel est l’évènement le plus marquant pendant les 50 années passées? Bà trả lời: L’effondement du mur de Berlin qui mit un terme à la “grande illusion” (Tạm dịch. Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua? DQH: Sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng” lớn.

Nhất là khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt Nam (The Failure of Communism in Vietnam, Nguyen Phuc Buu Chanh, Online: http://snipurl.com/29phe [www_freerepublic_com], May 19, 2008) bà Dương Quỳnh Hoa đã trả lời rằng:

“Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn.”

(“I have been a Communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communism, and it is a failure-mismanagement, corruption, privilege, repression. My ideals are gone.”)

Chủ nghĩa cộng sản là tai họa. Những cán bộ đảng cộng sản không hề hiểu biết về sự cần thiết của việc phát triển một cách hợp lý. Họ bị mê hoặc bởi những khẩu hiệu của Mác Xít đã không còn giá trị nữa, nếu không muốn nói rằng chúng không bao giờ có giá trị. Họ là những kẻ (tàn ác) quá độ. (“Communism has been catastrophic. Party officials have never understood the need for rational development. They’ve been hypnotized by Marxist slogans that have lost validity—if they ever were valid. They are outrageous.”)

Người ta tự hỏi rằng nếu bà Dương Quỳnh Hoa không phải là một khuôn mặt nổi tiếng, một trí thức hàng đầu của MTGPMN thì bà có được bình yên, không bị tù tội sau khi tuyên bố những lời như trên với một ký giả Hoa Kỳ? Nhưng điều này có thể giải thích phần nào vì khi nhà cầm quyền cộng sản nộp đơn kiện chính phủ và một số công ty hoá chất Hoa Kỳ tại toà án New York về những thiệt hại về nhân mạng và nhất là ảnh hưởng tai hại phụ nữ Việt Nam ở những vùng ô nhiễm thường bị xẩy thai hay sinh ra trẻ dị dạng. Một trong ba người đứng tên trong đơn kiện này lại là bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.
Những dữ kiện về bà Dương Quỳnh Hoa trong đơn kiện do phía cộng sản đưa ra trước toà án New York đọc được như sau:

Người đi kiện DUONG QUYNH HOA
Điều thứ 135. Năm 1964, plaintiff Duong Quynh Hoa là một người Việt Nam và là một y sĩ cư ngụ tại thành phố Saigon thuộc miền Nam Việt Nam
Điều 136. Trong thời gian này, bà thường đi lại tỉnh Biên Hoà và vùng Sông Bé là những nơi bị nhiễm thuốc độc do những bị cáo trên đây sản xuất.
Điều 137. từ 1968-1976, Dr. Hoa là Bộ Trưởng Y tế cuả CPLT MNVN và sinh sống tại tỉnh Tây Ninh.
Điều 138. Trong thời gian ở Tây Ninh, bà được chỉ thị nhiều lần phải bao đầu bằng bao Plastic vì quân đội Hoa Kỳ sẽ rải hoá chất độc. Trong thời gian này, bà đã trông thấy một thùng đựng chất độc da cam sản xuất bởi những bị cáo được thả xuống từ máy bay quân đội Hoa Kỳ.
Điều 139. Tháng 5, 1970, Dr. Hoa sinh hạ một bé trai tên là Hùynh Trung Son. Plaintiff Huynh Trung Son sinh ra bị dị tật và bị tàn phế.
Điều 140. Plaintiff Huynh Trung Sơn chết khi được 8 tháng tuổi.
Điều 141. Sau chiến tranh, Dr. Hoa bắt đầu có triệu chứng ngứa ngáy và bị lở ngoài da.
Điều 142. Năm 1971, Dr. Hoa có thai và bị sẩy thai vào tháng 7, 1971 sau 8 tuần lễ có thai.
Điều 143. Dr. Hoa có thai lần nữa nhưng lai sầy thai sau sau tuần vào tháng 1 năm 1972.
Điều 144. Sau khi mất đứa con đầu lòng và sầy thai hai lần, Dr. Hoa quyết định sẽ không có con nữa.
Điều 145. năm 1985, sau khi bị ngất xỉu và chóng mặt nhiều lần, Dr. Hoa bị khám phá là bị bệnh tiểu đường.
Điều 146. Năm 1998, Dr. Hoa bị bệnh ung thư vú và phải giải phẫu cắt bỏ ngực.
Điều 147. Năm 1999, Dr. Hoa thử máu và khám phá ra nồng độ chất độc da cam dioxin trong máu bà cao hơn độ bình thường rất nhiều.
Điều 148. Cả hai cái chết của hai người đi kiện, plaintiff Duong Quynh Hoa con trai của ba là Huynh Trung Son là do chất độc da cam do những bị cáo nêu ra ở trên sản xuất.

(Trích từ phán quyết cuả toà UNITED STATES DISTRICT COURTEASTERN DISTRICT OF NEW YORK vụ VN xin kiện vụ chất độc da cam)

Năm 2004, mặc dù chi rất nhiều tiền cho các tổ hợp luật sư danh tiếng cuả Hoa Kỳ toà án ờ New York đã bác đơn xin kiện của chính phủ Việt Nam về vụ chất độc da cam. Từ đó đến nay, tuy phía Việt Nam cho biết sẽ kháng án nhưng vấn đề này không còn được đề cập tới sôi nổi như trước đây. Ghi chép lại dài dòng về những chi tiết của đời sống riêng của bà Dương Quỳnh Hoa để thấy rằng dù không bị cộng sản thanh trừng, bà cũng đã phải trả cái giá quá đắt. Bà là một điển hình cho trí thức miền Nam khi chọn sai lý tưởng để theo đuổi và nhất là khi đó lại là chủ nghiã cộng sản. Ít ra thì khi có phán quyết này của toà án Hoa Kỳ, bà Dương Quỳnh Hoa đã qua đời, khỏi phải thêm một lần thất vọng

Trong Hồi ức Nguyễn Thị Bình, một người còn được trọng dụng, dày đến 700 trang, người đã một thời là đồng chí với nhau ở trong bưng là bà Dương Quỳnh Hoa đã không được bà Bình nhắc đến một lần.

Những người khác như quý ông Trịnh Đình Thảo (1901-1982), vợ là bà Ngô Thị Phú, quê quán Sóc Trăng. Ông Lâm Văn Tết ( 1896-1982) Ông bà Phùng Văn Cung, vợ là Lê Thoại Chi. Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, Nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, vợ là nghệ sĩ Tâm Vấn. Ông bà Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ là nữ sĩ Vân Trang, thân sinh ra gs địa chất Trần Kim Thạch. Em gái bà Vân Trang là nghệ sĩ Mộng Trung, vợ Trần Văn Khê. Giáo sư Nguyễn Văn Chì, vợ là là bà Nguyễn Đình Chi, Chánh án Phạm Ngọc Thu, Võ Ngọc Thành, dược sĩ Hồ Thu, kỹ sư Cao Văn Bổn, kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn văn Ngỡi, bà Bùi thị Nga (vợ của ông kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát.)

Sau 1975, sau “ngày giải phóng”, họ làm gì? Họ ở đâu ? Họ chẳng làm gì cả Họ tiếp tục ngồi chơi xơi nước với danh hão? Họ tiếp tục ăn bánh vẽ dù chẳng còn muốn ăn. Bà Bùi Thị Nga có thay chồng viết cuốn Huỳnh Phát, cuộc đời và sự nghiệp, dày trên 600 trang cùng không một chữ cho bà Dương Quỳnh Hoa.

Hồi đó quý vị được đảng bố trí ở biên giới Việt Nam-Campuchia, khoảng giữa bót Tà Xúa tới Chợ Giữa, Kà tum. Nhưng vì vấn đề an ninh,quân sự, chỗ ở cũng bị thay đổi nhiều lần để tránh phi cơ Mỹ ném bom.

Nhiều vị được dẫn đến “Trung ương” MTGPMN, phải vất vả lắm.Trước hết, phải vượt qua kinh Đìa Vàng, đến Ba Thu trong vùng Mỏ Vẹt. Nhà ở là mấy chục nóc nhà ni lông. Ai cũng ngủ võng cả. Nghe tiếng máy bay là lăn từ võng xuống hầm ngay đó. Nhà ăn tập thể thì nóc lợp lá trung quân, chung quanh có nhiều hầm đào sẵn để tránh bom. Nhà này vừa dùng làm chỗ ăn uống đồng thời là chỗ hội họp chính tri. Hằng ngày, Huỳnh Tấn Phát, linh hồn của Mặt trận, họp để đọc tin tức, nghe bá cáo và học tập. Nhất là nhanh chóng “để các vị ổn định tư tưởng và đời sống riêng tư.”

Nhiều vị ra đi tưởng chỉ vài tuần là “Giải phóng xong miền Nam”. Nay nhớ nhà, nhớ cơm, nhớ phở, nhớ điện, nhớ nước, nhớ cầu tiêu, nhớ tiện nghi Sài Gòn Nhiều khi không biết làm gì thì gs Nguyễn Văn Kiết mang triết học của Kant, Hegel ra giảng cho các quý vị nghe đỡ buồn. Vấn đề ăn uống chắc không có trở ngại gì. Chỉ sợ kiến rừng. Đồ ăn dư phải để trong một bát nước, nếu không kiến bò vào bát xơi trước. Nhưng vấn đề tắm rửa cho mấy vị phụ nữ thì thật phiền hà. Người như bác sĩ Dương Quỳnh Hoa mà nay phải ra tắm suối cởi truồng thì coi sao được. Bảo vệ phải làm nhà tắm, đi khuân nước về, rồi phải đun sôi cho vị nữ bác sĩ tắm cho đỡ lạnh. Đối vị nữ lưu như bà, thế là cực khổ lắm rồi.

Công việc chính là ngồi chơi xơi nước. Biết mình bị lợi dụng, biết bị làm cảnh, biết bị lừa.

Nhưng, như nhạc TCS, Tiến thoái lưỡng nan, đi… về… lận đận.

Muốn về cũng không có đường về.

Huỳnh Tấn Phát (1913-1989). Nguồn: OntheNet

Trước 1975, 4 vị thanh niên là Trần Quang Long, Trần Triêu Luật, Lê Hiếu Đằng, và Trần Thiên Tứ sang công tác ở tuyên huấn R. Trần Quang Long và Trần Triệu Luật đã chết sau ba đợt bom tại đây.Quý vị thì nhàn, không có việc gì làm, họp hành đưa ra nghị quyết, tuyên bố rồi biên bản bị vứt vào sọt rác, vì Trung ương đã soạn sẵn. Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch Hội đồng cố vấn chính phủ cũng nhàn. Ngồi chơi xơi nước đến hai lần. Trong khi đó theo Trần Thanh Quốc, thư ký riêng của Huỳnh Tấn Phát – chủ tịch Phát làm chủ tịch chính phủ cách mạng lâm thời cộng Hòa miền Nam VN – với chức vụ đó ông “không có một chút thì giờ để nghỉ ngơi. Chỉ có thể nói những phút giây rảnh rỗi là khi anh lên yên con ngựa sắt để đi họp. Đó là thời gian nghỉ ngơi thanh thản nhất.” Bận thế đấy.

Hầu hết những vị này, sau 30/04/1975 đều cho ngồi chơi xơi nước. Đó là cách đãi lọc kiểu cộng sản. Chỉ riêng những người đã từng chiến đấu dưới hàng ngũ cộng sản như Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình còn được giữ chức vụ ngồi chơi nước như Phó Thủ tướng chính phủ. Ông Phát sau này chỉ lo vụ tiêp tân, đón tiếp khách ngoại quốc hoặc có nhiệm vụ đi ra nước ngoài thay mặt chính phủ.

Đó là số phận dành cho những kẻ chạy cờ. Một cách khai trừ “ êm dịu”

(Còn tiếp)

© 2008-2018 DCVOnline

Bài đã đăng lần đâu trên DCVOnline ngày 21/05/2008.

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


(1) Xem thêm Hồi ký Une goutte d’eau dans le grand océan của Hoàng Văn Hoan về những năm đầu tiên của đảng cộng sản từ 1920-1930 ở bên Thái Lan và bên Tàu.