Liệu Việt Nam có thể không dùng vũ khí của Nga nữa hay không?

Lê Hồng Hiệp  | DCVOnline

Việt Nam ngày càng thấy khó tiếp tục với chính sách mua quân cụ và vũ khí của Nga. Hà Nội thấy có cơ sở hợp lý để mua vũ khí từ các nước khác, nhưng không dễ dàng làm được như vậy.

Ảnh chụp màn hình video cho thấy Hộ tống hạm VPNS Quang Trung (016), một khinh hạm lớp Gepard (Hỏa tiễn dẫn đường) của Hải quân Nhân dân Việt Nam (VPN) đến Visakhapatnam vào ngày 24 tháng 2 năm 2022 để tham gia Cuộc tập trận Hải quân Đa phương MILAN 2022. (Screengrab: Indian Navy/ Twitter)

Cuộc xâm lăng của Nga vào Ukraine được cho là sẽ tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng đối với Đông Nam Á. Trong lĩnh vực an ninh, một trong những ảnh hưởng chính sẽ là doanh số bán vũ khí của Nga cho khu vực có thể sẽ giảm vì những lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga. Việt Nam, nước nhập cảng vũ khí lớn thứ năm của Nga trên toàn cầu và lớn nhất ở Đông Nam Á, sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất, khiến Việt Nam bắt buộc phải đẩy nhanh việc đa dạng hóa vũ khí nhập cảng .

Sự phụ thuộc của Việt Nam vào vũ khí của Nga bắt nguồn từ mối quan hệ lâu đời với Liên Xô cũ. Trong Chiến tranh Việt Nam, mặc dù Việt Nam đã nhận được sự viện trợ vũ khí từ một số nước khác trong khối xã hội chủ nghĩa, nhưng Liên Xô và Trung Hoa vẫn là những nước cung cấp vũ khí và quân cụ chính. Tuy nhiên, xét về những vũ khí chính, Moscow là nơi cung cấp quan trọng nhất của Hà Nội. Theo thống kê chính thức của Việt Nam, từ năm 1955 đến 1975, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 1.357 hệ thống phóng hỏa tiễn, hơn 18.300 hỏa tiễn các loại, 316 máy bay chiến đấu, 52 tàu chiến, 21 tàu vận tải, 687 xe tăng, 601 xe bọc thép và 1.332 xe kéo pháo.

Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam phần lớn tập trung vào hỗ trợ kinh tế, nhưng quân cụ và vũ khí còn sót lại từ thời Chiến tranh Việt Nam đã khiến Việt Nam vẫn phụ thuộc và Nga, Hà Nội vẫn nhập cảng vũ khí từ Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Sự phụ thuộc của Việt Nam vào vũ khí của Nga càng trở nên trầm trọng hơn vì không thể tìm được các nguồn nhập cảng thay thế và đáng tin cậy. Vũ khí từ các nước phương Tây nhìn chung có giá thấp hơn vũ khí của Nga. Ngay cả khi Việt Nam có đủ khả năng mua chúng, một số sẽ không có mua được do những lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất cảng. Ví dụ, Hoa Kỳ đã không dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam cho đến năm 2016. Trong khi đó, Việt Nam không quan tâm đến việc mua vũ khí của Trung Hoa do sự thiếu tin cậy giữa hai nước và những tranh chấp đang diễn ra ở Biển Đông.

Kể từ khi Việt Nam bắt đầu chương trình hiện đại hóa quân đội vào cuối những năm 1990, hầu hết các loại vũ khí chính mà nước này có được đều có nguồn gốc từ Nga, gồm 6 tàu ngầm lớp Kilo, 36 máy bay đa năng Sukhoi Su-30MK2, 4 khinh hạm lớp Cheetah 3.9 và 2 cơ động hạm Bastion, hệ thống hỏa tiễn phòng thủ bờ biển. Dữ liệu từ Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) cho thấy từ năm 1995 đến năm 2021, tổng kim ngạch nhập khẩu vũ khí của Việt Nam đạt 9,07 tỷ USD, trong đó Nga chiếm 7,4 tỷ USD (81,6%).

Việt Nam bắt đầu đối phó với những khó khăn ngày càng tăng trong việc mua sắm vũ khí từ Nga sau vụ sáp nhập Crimea vào năm 2014. Một trường hợp điển hình là Việt Nam mua các khinh hạm lớp Gepard thứ ba và thứ tư từ Nga. Khi đó, Nga đang đóng các khinh hạm này cho Việt Nam nhưng được cho là đã gặp khó khăn trong việc mua động cơ của Ukraine. Do đó, Việt Nam phải tiến hành đàm phán song song với Nga để giữ cho dự án tồn tại và với Ukraine để bảo đảm có  động cơ. Cuối cùng, sau một thời gian trì hoãn, hai tàu khu trục nhỏ này đã được đưa vào hoạt động vào năm 2017, nhưng những thách thức đã khiến Việt Nam từ bỏ kế hoạch mua thêm hai tàu chiến tương tự của Nga.

Sẽ không dễ dàng để Việt Nam có thể mua quân cụ mới từ các nước khác. Tiến trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam đã chậm lại kể từ năm 2016 và ngân sách của quốc gia này dành cho hàng hóa quân sự mới hạng đắt tiền có vẻ eo hẹp, khiến vũ khí từ các nước phương Tây trở nên kém hợp lý hơn đối với Việt Nam.

Cũng theo số liệu của SIPRI, Nga chiếm tới 90% số vũ khí nhập cảng của Việt Nam trong giai đoạn 1995-2014 nhưng chỉ chiếm 68,4% trong giai đoạn 2015-2021. Trong thời gian sau đó, Việt Nam dường như đang cố gắng đa dạng hóa các hoạt động mua sắm vũ khí của họ khỏi Nga. Một số công ty cung cấp vũ khí gia tăng cho Việt Nam từ năm 2015 đến năm 2021 gồm Israel (13,7%), Belarus (5,7%), Nam Hàn (3,3%), Hoa Kỳ (3%) và Hòa Lan (2,4%).

Các biện pháp trừng phạt mới của phương Tây đối với Nga sau cuộc xâm lăng Ukraine sẽ khiến Việt Nam càng khó tiếp tục nhập cảng vũ khí của Nga. Thứ nhất, sẽ có những trở ngại về kỹ thuật và tài chính vì Nga sẽ không có quyền tiếp cận với một số bộ phận và đồ phụ tùng nhập cảng cần thiết để sản xuất vũ khí, trong khi các ngân hàng lớn của Nga đã bị loại khỏi mạng lưới thanh toán toàn cầu SWIFT, khiến hai bên khó giải quyết các khoản mua bán. Thứ hai, tiếp tục mua vũ khí của Nga sẽ dẫn đến rủi ro về uy tín, khiến Việt Nam có thể phải chịu các lệnh trừng phạt, chẳng hạn như Đạo luật trừng phạt đối thủ Mỹ năm 2017 (CAATSA) của Washington. Do đó, trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ tăng gấp đôi nỗ lực nhằm đa dạng hóa hoạt động nhập khẩu vũ khí.

Như vậy, Việt Nam sẽ không dễ dàng mua quân cụ mới từ các nước khác. Quá trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam đã chậm lại kể từ năm 2016 và ngân sách của quốc gia này dành cho các mặt hàng quân sự mới và đắt tiền  có vẻ eo hẹp, khiến vũ khí từ các nước phương Tây trở nên kém hợp lý hơn đối với Việt Nam. Khả năng tương thích giữa các hệ thống vũ khí của Liên Xô/Nga và những hệ thống mới hơn không phải của Nga cũng sẽ là một thách thức. Quan trọng hơn, vì nhiều người trong giới chức quân đội cao cấp của Việt Nam đã được đào tạo ở Liên Xô và Nga, đã quen làm ăn với các đối tác Nga nên họ có thể gặp khó khăn khi giao dịch với giới cung cấp mới có văn hóa kinh doanh khác, kể cả việc kinh doanh minh bạch hơn những thông lệ mà giới chức chính phủ Việt Nam có thể không cảm thấy thoải mái.

Tuy nhiên, việc dựa vào một nguồn vũ khí duy nhất sẽ khiến Việt Nam gặp rủi ro nghiêm trọng. Ngoài các vấn đề nêu trên, quan hệ ngày càng chặt chẽ của Moskva với Bắc Kinh là một nguồn rủi ro khác mà Hà Nội cần để ý, do tranh chấp Biển Đông ngày càng gia tăng. Việc đưa ra các kế hoạch nhằm loại bỏ vũ khí của Nga sẽ chỉ ngày càng trở nên quan trọng đối với Việt Nam. Vấn đề tương thích có nghĩa là điều này cần được thực hiện theo từng giai đoạn, phù hợp với việc từ từ không dùng hệ thống vũ khí cũ của Nga nữa với việc mua sắm vũ khí của những hệ thống mới từ những nước cung cấp khác. Trong tiến trình này, ngoài việc nâng cao năng lực sản xuất vũ khí trong nước, việc tăng cường hơn nữa quan hệ chiến lược với các nước có thể cung cấp vũ khí thay thế cũng sẽ giúp Hà Nội kiểm soát tốt hơn những nỗ lực đa dạng hóa nguồn vũ khí của mình.■

Tác giả | Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp là chuyên viên Nghiên cứu viên hàng đầu của Chương trình Nghiên cứu Chính trị và Chiến lược Khu vực và Điều hợp viên của Chương trình Nghiên cứu Việt Nam tại ISEAS — Viện Yusof Ishak. Ông cũng là biên tập viên của tạp chí Đông Nam Á Đương đại hàng đầu của viện.

© 2022 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: Will Vietnam Be Able to Wean Itself Off Russian Arms?  |LE HONG HIEP | The Fulcrumt | April 4, 2022