Giáo hội Thiên chúa nên bỏ yêu cầu đòi linh mục phải độc thân

The Economist | DCVOnline

Được như thế giáo hội sẽ chọn được những giáo sĩ không lạm dụng trẻ em

Giáo hoàng không có thói quen nghe lời khuyên của báo giới. Dù sao thì Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã chỉ nhận chỉ thị của đấng tạo hóa. Tuy nhiên, GH Phanxicô đã mở ra một tiến trình mà theo đó tất cả 1,4 tỷ người Thiên chúa giáo có thể có ý kiến về tương lai của đức tin. Nếu họ muốn giảm thiểu tai họa lạm dụng tình dục của giới linh mục, họ nên yêu cầu giáo hội chấm dứt quy tắc đòi linh mục phải sống độc thân.

Nếu đây chỉ là một câu hỏi về thần học, The Economist sẽ không quan tâm. Nhưng nó không phải như vậy. Từ giáo xứ này đến giáo xứ khác, trường này đến trường khác, giáo phận này đến giáo phận khác, những linh mục Thiên chúa giáo đã lạm dụng trẻ em. Mỹ, Úc, Pháp, Đức và Ireland, và ở những nước khác, đã xét lại. Số nạn nhân chỉ riêng ở Pháp ước tính lên đến 216.000 người trong 70 năm tính đến năm 2020. Hiện các nước như Ba Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha cũng đang điều tra. Nạn lạm dụng tình dục trong cộng đồng Thiên chúa giáo hiện hữu không chỉ vì nó có những quả táo xấu, mà nó liên quan đến một vườn táo thối rữa (xem phần Quốc tế).

Có thêm những khám phá là điều không thể tránh khỏi. Mức độ lạm dụng đối với người lớn, kể cả cả các nữ tu, đang bắt đầu được báo cáo. Các cuộc điều tra thậm chí mới chỉ bắt đầu ở các nước nghèo về những gì có thể đã xảy ra trong hơn 9.000 cơ sở nội trú của Thiên chúa, kể cả những trại trẻ mồ côi. Ngay cả ở các quốc gia giàu có, nơi hệ thống tư pháp-hình sự có tài nguyên phong phú, những cuộc điều tra vẫn bị cản trở vì tính bí mật theo phản xạ của một tổ chức cổ đại.

Một số thất bại của giáo hội cũng có ở những tổ chức khác. Khi một ít người được trao quyền lực trên những người khác, khi việc kiểm tra quyền lực đó còn yếu và khi nạn nhân thiếu những phương tiện hiệu quả để báo cáo sự lạm dụng, những kẻ lạm dụng sẽ lợi dụng những cơ hội đó; hãy nhìn sự trừng phạt gần đây ở Hollywood. Hơn nữa, nếu một tổ chức thường xuyên che đậy những cáo buộc và thuyên chuyển những kẻ bị nghi ngờ là kẻ lạm dụng đi làm những công việc khác, thay vì báo cáo ngay những cáo buộc lạm dụng của họ cho cảnh sát, thì tình trạng lạm dụng sẽ phát triển mạnh. Giáo hội đang làm việc để sửa chữa những sai sót này. Nhưng như thế vẫn không đủ.

Việc yêu cầu các linh mục phải sống độc thân làm giảm đáng kể con số những người có thể được tuyển dụng. Đối với nhiều người, dù ngoan đạo đến đâu, việc từ bỏ tình dục, sự lãng mạn và cơ hội bắt đầu một gia đình là một sự hy sinh quá lớn. Tuy nhiên, một nhóm mà quy tắc như vậy đặt ra ít gánh nặng hơn, là những kẻ ấu dâm. Xã hội đòi họ phải kìm nén những ham muốn của mình. Nhiều người đã cố gắng sống độc thân, hoặc giả vờ như vậy.

Một số trở thành linh mục chân thành hy vọng rằng đời sống thiêng liêng sẽ giúp họ chống lại sự cám dỗ. Những người khác chắc chắn làm như vậy chính vì vai trò tu sĩ tạo cơ hội để họ lạm dụng. Dù bằng cách nào, giáo hội đã rất kém cỏi trong việc xác định được những kẻ gây nguy hiểm cho đàn chiên của họ. Một số người cho rằng giáo hội  cũng đã kém hiệu quả trong việc chuẩn bị cho các linh mục trước những căng thẳng của cuộc sống không tình dục. Ước tính ở khắp nơi trên thế giới, của nhiều học giả, đã nhận thấy rằng 6-9% các linh mục và thành viên của các dòng độc thân, chẳng hạn như các tu sĩ, có thể là những kẻ lạm dụng. Số liệu thống kê về dân số nói chung rất khó xác định, nhưng Cơ quan Tội phạm Quốc gia của Anh ước tính có 1-3% đàn ông có hành vi lạm dụng trẻ em; một số nhỏ hơn nhiều hành động theo sự ham muốn của họ.

Vatican nói rằng Chúa Giê-su sống độc thân, và những người hầu của ngài trên Trái đất cũng vậy. Mặc dù một phần trong Kinh thánh ca ngợi đời sống độc thân, nhưng không có điều gì trong những sách phúc âm yêu cầu tất cả những giáo sĩ phải chấp nhận nó. Trước thế kỷ 11, Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã không nhấn mạnh vào điều đó. Quy tắc được đưa ra một phần vì lý do tài chính: giáo sĩ không có con có nhiều khả năng để lại tài sản của họ cho giáo hội. Ngày nay, nhiều giáo hội Ki-tô giáo theo nghi thức phương Đông cho phép các giáo sĩ của họ kết hôn trước khi nhận lệnh thánh. Đáng chú ý là những giáo hội này có mức lạm dụng tình dục trẻ em được báo cáo là thấp.

Các giáo phái Tin lành cho thấy rằng nhưng vị tu sĩ đã kết hôn có thể hướng đến gia đình và chăm sóc đàn chiên của họ một cách thành công — thực sự, hôn nhân có thể đưa các linh mục đến gần giáo dân của họ hơn. Điều đó sẽ làm suy yếu quan điểm cho rằng tu sĩ là một nhóm không thể chạm tới, mà nhiều nhà nghiên cứu coi là đã góp phần vào việc lạm dụng.

Giáo hội đang rất thiếu linh mục. Ngay ở trung tâm của nó, giáo hội đang mất đi tín hữu, đặc biệt là vì nhiều người không còn tin tưởng vào một tổ chức có những kẻ lạm dụng được che chở. Nếu giáo hội ngừng yêu cầu các linh mục phải độc thân (hoặc phải là nam giới), giáo hội có thể tuyển dụng từ một nhóm lớn hơn nhiều. Nếu giáo hội cũng giám sát họ tốt hơn và hành động nhanh hơn, sẽ có ít người bị lạm dụng hơn. Thật khó nói liệu điều đó có làm chậm tốc độ các tín hữu rời bỏ nhà thờ hay không. Tuy nhiên, đó là một phúc lành. ■

© 2022 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: The Catholic Church should scrap the requirement for priestly celibacy  | The Economist| July 14, 2022. Bài bình luận này đăng trong phần Lãnh đạo của ấn bản với tựa đề “Hãy để các linh mục kết hôn”