TRẬN GIẶC TÔM (1986-1990)

Nguyễn Phước Bửu Huy

Tác giả viết bài này để hồi tưởng lại chặng đường đầu thời kỳ mở cửa, đổi mới kinh tế của ngành thủy sản tỉnh An Giang trong giai đoạn 1986-1990. Việc tham gia thị trường xuất cảng, cạnh tranh thu mua tôm cũng là lúc cao điểm của “Trận giặc tôm”. Hệ quả của trận giặc tôm này đã giúp khai sinh ra ngành cá Tra Việt Nam.

Bày binh bố trận

       Năm 1983, Sở Thủy sản An Giang được thành lập. Ngoài nhiệm vụ quản lý ngành thủy sản nói chung, ông Hà Minh Khá, giám đốc Sở Thủy sản vạch rõ mục tiêu chiến lược là cần phải tăng cường khai thác nguồn lợi thủy sản xuất cảng.

       An Giang là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, nằm hoàn toàn trong vùng nước ngọt, chỉ có nguồn tôm càng xanh và một số cá nước ngọt là sản phẩm cung cấp nội địa. Tôm càng được đánh bắt từ thiên nhiên, theo mùa nước nổi hàng năm, sản lượng không nhiều, ngày càng sụt giảm. Tôm biển là thế mạnh của các tỉnh vùng biển, nên việc tìm cách tham gia khai thác tôm biển là một nhu cầu quan trọng để tạo thêm nguồn hàng xuất cảng cho tỉnh An Giang. Điều này được nhà nước khuyến khích.

       Ông Hà Minh Khá xuất thân từ quân đội, từng có thời gian hoạt động ở Kiên Giang nên am hiểu rất rõ về tiềm năng, địa bàn khai thác, và các mối quan hệ tại tỉnh này. Ông đã mạnh dạn đưa ra những phương cách để quyết tâm thực hiện mục tiêu nói trên. Tôi nghĩ trong thời gian đó, nếu không phải là ông ấy thì không vị lãnh đạo nào ở An Giang dám làm chuyện “táo bạo” này. Đó là lập đội tàu đánh cá đi khai thác nguồn hải sản tại vùng biển Kiên Giang, trong lúc cơ chế quản lý nhà nước còn rất nặng tính cục bộ, bảo thủ, địa phương.

        Hôm đó, trên chiếc La Dalat cũ của Sở, Ngô Phước Hậu và tôi được cử qua Kiên Giang để làm một chuyến khảo sát các mẫu tàu đánh tôm trong ba ngày. Tỉnh Kiên Giang nằm sát với An Giang, từ ngã ba lộ tẻ, chạy xe khoảng hơn một tiếng rưỡi là đến Thị xã Rạch Giá.


Tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Nguồn: Google Maps

       Làm việc với Xí nghiệp quốc doanh Đánh cá Kiên Giang, chúng tôi được vị Giám đốc nhiệt tình đón tiếp, ông ta từng là bạn chiến đấu với ông Hà Minh Khá. Lê Phương Nam, cán bộ của xí nghiệp, dẫn chúng tôi đến những bãi đóng tàu cá ở phường An Hòa, Thị trấn Rạch Sỏi, thăm cảng cá Rạch Giá. Quan sát những tàu đánh cá vỏ gỗ trong số đó có nhiều tàu đánh cá khá lớn tịch thu của Thái Lan và phần chính là xem các kiểu tàu lưới cào tôm truyền thống của ngư dân. Hàng ngày, chúng tôi đến các bãi tàu, hỏi thăm, ghi chép, đo đạc, vẽ phác thảo kiểu tàu. Nhiều người thấy lạ, nhòm ngó, tưởng tụi tôi đang tìm đường đi vượt biên.

       Sau khi chọn được kiểu tàu thích hợp khai thác tôm, Phân viện Thiết kế Tàu thuyền, Bộ Thủy sản, đã giúp cho việc vẽ, kết hợp kiểu tàu đánh tôm truyền thống của ngư dân và kiểu tàu bằng chất hỗn hợp (composite) hiện đại của Nhật. Hồ sơ dự án được cấp trên nhanh chóng phê duyệt, cấp kinh phí đóng mới 9 tàu đánh cá biển.

Tàu đánh cá Nhật Bản làm bằng chất hỗn hợp. Nguồn: https://fuelcellsworks.com/

        Năm 1983, Xí nghiệp quốc doanh Đánh cá An Giang ra đời. Đóng xong chiếc nào là cho hạ thủy ngay. Sau vài ngày chạy thử, trang bị lưới cụ là qua Kiên Giang khai thác tôm. Đội tàu đánh cá tuy nhỏ, nhưng được vị giám đốc Sở trang bị khá nhiều vũ khí, kể cả AK, và súng phòng không 12.7 mm, để chống hải tặc. Thủy thủ phần lớn cũng được tuyển mộ từ những ngư dân có kinh nghiệm đánh cá ở Kiên Giang. Đây được xem là bước “đột phá” của Sở, bày binh bố trận, để tạo thêm hàng hải sản xuất cảng trong lúc “trận giặc tôm” bắt đầu diễn ra.

        Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện “chính sách mở cửa”, Đổi mới kinh tế. Chuyển từ kinh tế kế hoạch, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Nhiều công ty, phần lớn là quốc doanh, được nhà nước khuyến khích tìm kiếm nguồn hàng xuất cảng lấy ngoại tệ. Trong đó, tôm biển là một mặt hàng hải sản có giá trị xuất cảng cao. Vì vậy, các tỉnh có biển quản lý rất nghiêm ngặt nguồn hải sản quí báu này. Không cho phép tư nhân được mua bán tôm ra ngoài tỉnh. Nếu bị phát giác, quản lý thị trường địa phương sẽ phạt và tịch thu. An Giang tuy không có biển nhưng vẫn có một đội tàu đánh cá biển. Đó là một chuyện khá hy hữu.

        Công ty Thủy sản An Giang (từ đây gọi là ‘công ty’) được giao nhiệm vụ tiếp nhận sản phẩm từ xí nghiệp đánh cá và “đường đường, chính chính” đặt một số trạm thu mua tôm “trôi nổi” tại Phú Hòa (huyện Thoại Sơn), giáp ranh Rạch Giá, trạm cầu Cây me (huyện Tri Tôn), giáp ranh Hà Tiên, dưới danh nghĩa khai thác để bán cho Tổng công ty Thủy sản Việt Nam (Seaprodex Vietnam). Đơn vị này có một số nhà máy chế biến đông lạnh tại TP HCM và được phép xuất cảng trực tiếp.

       Tiếp theo dự án lập đội tàu đánh cá, năm 1985, nhà máy đông lạnh đầu tiên của tỉnh An Giang được khởi công xây dựng. Mục đích để chế biến ra thành phẩm tôm xuất cảng thu ngoại tệ (USD), thay vì đem bán nguyên liệu bằng tiền đồng (VND) với giá trị thấp. Nhà máy có diện tích gần 4 ha, tọa lạc trên khu đất nghĩa trang bị giải tỏa tại khúc cua Trái Ấu, thuộc Phường Bình Đức, Thị xã Long Xuyên, nằm trên trục đường quốc lộ 91 đi Châu Đốc (Hiện nay là trụ sở của Công ty Agifish). Kiểu dáng của nhà máy lấy theo mô hình nhà máy đông lạnh số 6, là nhà máy hiện đại nhất của Seaprodex vừa mới được khánh thành tại Thủ Thiêm, nằm kế bên sông Sài Gòn.


Công ty Agifish bên quốc lộ 91.
Trụ sở Công ty Agifish hiện nay tại Long Xuyên, Anh Giang. Nguồn: https://mapio.net/

       Khi đến thăm viếng, ấn tượng đầu tiên của tôi là nhà máy này khá “hoành tráng”. Hệ thống kho lạnh nhập cảng từ công ty Lobana-Úc, có sức chứa 10,000 tấn, lớn nhất thời bấy giờ. Toàn bộ thềm nhà máy xây cao hơn mặt đất một mét, ngang tầm xe vận tải lạnh để thuận tiện việc giao nhận hàng, đóng container bằng xe nâng. Dây chuyền chế biến theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trang bị máy làm nước đá vảy, tủ cấp đông block, băng chuyền IQF hiện đại.      

Băng chuyền đông lạnh nhanh IQF (Individual Quick Freezing). Nguồn: https://www.sieuthibangtai.com/

       Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (viết tắt Imexco) đã được giao thầu trọn gói từ thiết kế đến xây dựng nhà máy đông lạnh An Giang. Sau buổi làm việc, tối hôm đó, đoàn An Giang được ông Charles Đức (còn gọi Charles Bauduin), phó Tổng giám đốc Imexco, là một doanh nhân người Pháp gốc Việt, cùng với vợ là nghệ sĩ Bạch Tuyết mời đoàn dùng một tiệc cơm thân mật trên sân thượng của tòa nhà Imexco, tọa lạc tại số 8 đường Nguyễn Huệ, quận 1. Đây là tòa nhà 12 tầng, thiết kế hiện đại và cao nhất của TP HCM lúc bấy giờ.

Tòa nhà Imexco, thành phố Hồ Chí Minh Quận 1 Phường Bến Nghé. https://mapio.net/

       Sau chuyến thăm vài tháng, tin bất ngờ làm nhiều người ngỡ ngàng, nhà máy đông lạnh số 6 của Seaprodex bị hỏa hoạn. Nhà máy trị giá hàng chục triệu USD đã bị thiêu rụi hoàn toàn, chỉ vì lý do bất cẩn của một thợ hàn. Mấy năm sau, vào ngày 14 tháng 10 năm 1989, cả tòa nhà Imexco cũng bị bốc cháy như một ngọn đuốc khổng lồ giữa trung tâm Sài Gòn, đã làm bàng hoàng cả nước mà không rõ lý do tại sao.       

Tòa nhà Imexco cháy,  TP HCM,14/10/1989. Nguồn: Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam

      Nhờ sự tập trung ưu tiên vốn đầu tư của tỉnh, công trình xây dựng nhà máy đông lạnh An Giang sớm được hoàn thành. Toàn bộ máy nén hiệu Mycom, tủ cấp đông hiệu Nishin, nhập từ Nhật bản. Xí nghiệp đông lạnh An Giang ra đời và đi vào hoạt động vào đầu năm 1986, chuyên chế biến tôm.

       Việc bảo đảm nguồn tôm nguyên liệu cung cấp hàng ngày cho nhà máy chế biến là một vấn đề quan trọng. Ngoài lượng tôm thu mua trong tỉnh, xí nghiệp còn thuê một số tay mối lái tôm có nhiều kinh nghiệm như Trần Kim Long, anh em nhà Hạnh “mập”, đi mời gọi các bạn hàng các nơi đem tôm về bán cho nhà máy.

       Sau một thời gian, nhận thấy việc mua qua trung gian thương lái có nhiều bấp bênh, không ổn định, công ty đã ký hợp đồng với các tỉnh bạn, lập thêm nhiều trạm thu mua khắp khu vực ĐBSCL.

              Bản đồ 13 tỉnh miền Tây ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nguồn: Bản đồ Việt Nam                   

Trong giai đoạn này, nhà nước cho phép các huyện thị được thành lập công ty để quản lý, kinh doanh, khai thác nguồn tôm. Chủ trương này đã cho ra đời hàng trăm công ty quốc doanh cấp huyện, kinh doanh tôm, tạo nguồn thu ngân sách cho địa phương. Nhưng đồng thời cũng đã góp phần gây nên tình trạng tranh mua, tranh bán giữa các địa phương, dẫn đến “trận giặc tôm” một thời khốc liệt đã diễn ra.

       Các trạm thu mua của công ty trải rộng từ Kiên Giang, Sóc Trăng, đến Minh Hải (Bạc Liêu, Cà Mau), là những tỉnh giáp vùng biển. Trong đó, Cà Mau là địa bàn quan trọng. Thời gian đầu, lượng tôm khá nhiều, việc thu mua tương đối thuận lợi. Có khi vô “con nước”(1), tôm vuông(2) ở Cà Mau xổ(3) ra như đống núi.

       Tôi còn nhớ vào một đêm Hè năm 1987, trời mưa tầm tả, chị Nguyễn Thị Hồng Minh, hồi đó còn làm phó giám đốc Xí nghiệp đông lạnh Cà Mau, chạy xe lên Long Xuyên gõ cửa nhà tập thể, tìm tôi. Chị đề nghị nhà máy giúp chế biến gia công vì tôm vô quá nhiều, nhà máy của chị làm không xuể, nếu để thời gian kéo dài, tôm sẽ bị xuống cấp, kém chất lượng, giảm giá.

Trong nhà máy chế biến tôm. Nguồn: https://smartfactoryvietnam.com/

       Lúc đó, nhà máy đông lạnh An Giang còn thừa công suất nên giám đốc Nguyễn Trường Giang đã đồng ý nhận gia công ngay. Vậy là qua hôm sau, ba chiếc xe tải lớn chở hơn 30 tấn tôm các loại đổ vào nhà máy. Thiếu công nhân, nhà máy phải thuê thêm hàng trăm người dân bên ngoài, mướn cả thầy cô giáo, học sinh nghỉ hè, vào lột tôm gia công.

      Thời vàng son ấy chóng qua; từ năm 1988 về sau, nguồn tôm cạn dần, việc cạnh tranh, nâng giá mua giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng quyết liệt, thậm chí nhằm tiêu diệt lẫn nhau. Nhất là giữa Công ty Đông lạnh Hùng Vương (gọi tắt HV), TP HCM, và Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp Long An (còn gọi Unimex Long An).

       Mặc dù “trận giặc tôm” chỉ diễn ra trong khoản thời gian ngắn, khốc liệt nhất là từ năm 1988 đến1990, nhưng nó đã làm nhiều công ty lâm vào cảnh thua lỗ, hoặc phá sản, để rồi kẻ phải tự sát, người bị tù đày.

“Trận giặc tôm”    

       Trước tình hình khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1986-1990, nhà nước đã ban hành chính sách đổi mới. Khuyến khích xuất cảng, nhưng đồng thời quản lý chặt nguồn ngoại tệ quý giá kiếm được. Chủ trương “chia quyền sử dụng ngoại tệ” với các doanh nghiệp xuất cảng được đề ra theo tỷ lệ: 6/4, hoặc 7/3. Nghĩa là, doanh nghiệp chỉ được phép sử dụng 60-70% ngoại tệ thu được để nhập hàng cho hoạt động của doanh nghiệp, còn lại 30-40% ngoại tệ phải bán cho nhà nước theo tỷ giá do ngân hàng quy định.

      Những địa phương có nguồn hải sản xuất cảng cũng tăng cường quản lý nghiêm ngặt mặt hàng “chiến lược” này. Ngoài ra, do tỷ lệ lạm phát phi mã vào thời điểm đó nên tỷ giá ngoại tệ cũng thường xuyên biến động lớn, kéo theo giá mua tôm tăng không ngừng. Điều này đã gây ra nhiều rủi ro và hậu quả thảm hại cho các doanh nghiệp đã lỡ nhập hàng với phương thức trả chậm, là hình thức mượn nợ (ngoại tệ) của khách hàng nước ngoài. Sau đó, bằng mọi giá họ phải tìm cách mua hàng xuất để trả nợ, tránh bị trượt giá, thua lỗ. Điều này đã khơi mào cho “trận giặc tôm”. Cái tên này được nhiều người trong ngành thủy sản vào thời điểm đó đặt cho vì sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, giành giật nhau từng kí lô tôm, từng lô hàng. Thêm sự cát cứ của từng địa phương, đã diễn ra khốc liệt như là một trận giặc.

       Tập đoàn Sun Wah – Hong Kong, các khách hàng Nhật, Úc của Seaprodex, và của Xí nghiệp Đông lạnh 1- Imexco TP HCM, là những đơn vị mua hải sản lớn. Hàng tháng, họ thường đưa ra bảng giá tôm (USD) gửi cho các doanh nghiệp. Trên bảng giá chi tiết, ghi rõ từng cỡ, những loại tôm kể cả thẻ (white), sú (black tiger), rằn (cat tiger), chì đất (pink), nghệ (yellow). Kèm theo quy cách các cỡ từ lớn: 5/7; 7/9 con một pound (lb), đến nhỏ nhất: 300/500 con/lb, cũng như tôm loại B (tôm phẩm chất xấu, giảm giá 10%), và vụn, (broken). Theo tiêu chuẩn quốc tế, cỡ tôm thành phẩm được tính bằng số con trong một pound (453g), nhưng cỡ tôm nguyên liệu lại được tính bằng số con trong một kí lô. Điều này dễ gây nhầm lẫn khi mua tôm.

        Khi nhận được bảng giá, các doanh nghiệp phải phân tích, tính toán chi phí sản xuất, tỷ lệ chế biến, tỷ giá ngoại tệ. Từ đó mỗi công ty đưa ra khung giá thích hợp cho việc thu mua. Là một đơn vị sản xuất, giám đốc xí nghiệp yêu cầu không được để nhà máy thiếu nguyên liệu, công nhân nghỉ việc là một sự đau sót.

       Những năm 1988-1989, là thời kỳ cạnh tranh gay gắt. Nhiều doanh nhiệp mở trạm thu mua khắp nơi. Mỗi lần xuống trạm, công ty phải chở theo cả một xe tải tiền mặt, mang theo dụng cụ, nước đá cây, để trả tiền cho lái buôn và giữ cho sản phẩm tươi tốt.

       Cà Mau là tỉnh được xem là “rún tôm” ở ĐBSCL. Theo hợp đồng với Công ty Thủy sản Thị xã Cà Mau, công ty được đặt trạm đầu tiên tại xã Tắc Vân, trong một căn nhà tôn nhỏ, ọp ẹp. Một trạm khác đặt ngay tại nhà của Ngô Văn Nga, một người chuyên môi giới tôm tại Cà Mau. Ngoài tiền cho thuê trạm, ông ta còn biết nhiều mối lái tôm, đi kêu gọi họ đem đến bán cho trạm là ông ấy được thêm hoa hồng môi giới. (Sau này, Ngô Văn Nga làm ăn khấm khá, đã xây dựng nhà máy riêng, lập doanh nghiệp và trở thành chủ nhân của Công ty Cổ phần Kinh doanh Chế biến Thủy sản và Xuất Nhập Khẩu (XNK) Quốc Việt, là một trong những công ty nổi tiếng về tôm ở Cà Mau hiện nay).

       Mỗi trạm có 4-5 nhân viên gồm kế toán, thủ quỹ, KCS(4), công nhân muối ướp, bốc xếp, túc trực 24/24. Khi thương lái đem hàng đến, lô tôm được đổ ra trên tấm bạt ni lông, họ không cho phép lựa vì sợ làm dập tôm. KSC chỉ xúc ngẫu nhiên vài kí lô, kiểm tra, phân loại thật nhanh, rồi quyết định giá mua xô. Việc đánh giá tôm để mua xô(5) là rất quan trọng, nó quyết định lô hàng có lời hay lỗ, nên KCS là những người được chọn từ những công nhân phân cỡ có tay nghể giỏi của nhà máy. Nhóm Hạnh “mập”, Bé “nhọn”, có kinh nghiệm, được công ty giao khoán thu mua. Sau khi đưa lô hàng vào chế biến, kết quả thành phẩm thực tế sẽ được đem đối chiếu với bản giá xuất để chấp nhận lời ăn, lỗ chịu.       

       Ban đầu, chỉ vài trạm ở thị xã Cà Mau là công ty có thể dễ dàng mua 30-40 tấn mỗi ngày, đủ công suất cho nhà máy chế biến. Nhưng từ năm 1988 trở về sau, nhiều doanh nghiệp từ TP HCM và các tỉnh lân cận cũng đến đặt trạm, tranh mua nên số lượng thu được mỗi ngày ít dần, nhất là khi qua con nước. Công ty phải mở thêm các trạm khác ở những huyện vùng xa, nơi có nhiều vuông nuôi tôm của người dân như Đầm Dơi, Gành Hào, Phú Tân, Cái Nước, Năm Căn, Sông Đốc…

      Phương tiện đi lại, vận chuyển từ những nơi này phần lớn là vỏ lãi(6), hay ca nô. Sáu giờ chiều là trạm các nơi phải vận chuyển tôm về đến Thị xã Cà Mau để tập trung lên xe đưa về Long Xuyên. Mỗi tháng, người dân xổ vuông tôm hai lần, vào con nước rằm Âm lịch (giữa tháng) và con nước 30 Âm lịch (cuối tháng). Đây là thời điểm vuông tôm được thu hoạch rộ, đồng loạt, khắp mọi nơi.

Dân đang lái Vỏ lãi có gắn máy. Nguồn: Kiên Giang Composite (KHC)
Cống sổ vuông tôm là công cụ đánh bắt cua tôm của bà con nuôi trồng thủy sản ở Năm Căn – Cà Mau. Nguồn: https://vuongtom.vn/lien-he/  

Tại Bạc Liêu, chị Huỳnh Ngọc Tua, giám đốc Công ty Thủy sản Vĩnh Lợi, cho công ty đặt trạm tại khu vực huyện Vĩnh Lợi, nơi có nhiều vuông tôm. Tại tỉnh Sóc Trăng, cũng đặt hai trạm ở huyện Thạnh Trị và thị trấn Vĩnh Châu. Tôi thường xuyên đi lại các trạm để kiểm tra, hướng dẫn thu mua. Vào một đêm, trời mưa lâm râm, trên chiếc xe Mazda 1200 màu trắng, tài xế Phan Văn Phải chở tôi đi từ Bạc Liêu về trạm Vĩnh Châu. Đoạn đường khoảng 30 Km. Trời tối mù mịt, trên con đường đất nhỏ hẹp, chạy dọc theo bờ biển. Không thấy một bóng người, mùi nước mặn, pha lẫn mùi bùn từ bãi bồi bốc lên. Đến ngã ba đường, chạy một đoạn, Phải thấy đã đi vào đường cụt, biết bị nhầm nên quay xe lại. Đi chưa được năm phút, xe thắng gấp, tôi giật mình hỏi: “Có chuyện gì vậy?

 Phải chỉ tay về phía trước đầu xe nói, Anh nhìn kìa! Thấy gì chưa?”; dưới ánh đèn pha, một con mương nhỏ rộng khoảng ba mét, chỉ có hai thanh gỗ mỏng manh bắc qua, bề ngang thanh gỗ vừa đúng làn bánh xe. Phải xanh mặt không biết tại sao lúc đó xe lại lướt qua con mương này một cách ngọt xớt, có lẽ chạy theo quán tính, nhưng bây giờ quay trở về thật là nguy hiểm.

       Vừa bước xuống, tôi rùng mình nhìn đầu xe chạm sát bờ mương. Tôi cẩn thận làm dấu hiệu chỉ đường cho Phải điều khiển tay lái thật chính xác để xe “bò” từ từ qua hai thanh gỗ hẹp. Hết đôi bánh trước rồi tới cặp bánh sau. Tôi hồi hộp, nín thở. Cuối cùng, chiếc xe cũng lọt được qua con mương an toàn. Thật là hú hồn. Gần bốn giờ sáng, chân bê bết bùn đất, tôi mới về đến Thị trấn Vĩnh Châu. Nếu xe phóng nhanh bị lao xuống mương có thể đã gây tại nạn thảm khốc cho tôi và tài xế, hoặc khi quay trở về bị sụp xuống mương, thì tôi chỉ còn cách ngủ lại giữa đường, chờ sáng hôm sau nhờ người đến tiếp cứu, kéo xe lên. Đó là một kỷ niệm khó quên lúc tôi tham gia trận địa thu mua tôm tại miền Tây.

       Tại Kiên Giang, các trạm đặt gần cảng Rạch Giá và phường An Hòa, nơi có nhiều tàu cá cập bến mỗi ngày đa số để mua tôm biển. Lúc cao điểm, công ty có đến 20 trạm. Mỗi trạm cố gắng mua được vài trăm kí lô tôm thôi cũng được xem là tốt. Việc quản lý hoạt động các trạm này là nhiệm vụ rất phức tạp, vì rất dễ nảy sinh tiêu cực. Phải hoán chuyển thường xuyên. Thêm vào đó, các anh em nhân viên, công nhân sau giờ làm việc, hay bày ra ăn nhậu, do sẵn mồi tôm cua, có khi xảy ra xích mích, đánh lộn.

       Ngoài việc khoán thành phẩm, giảm rủi ro cho xí nghiệp, giá mua còn phải được cập nhật thường xuyên. Việc theo dõi giá của các công ty khác là rất cần thiết, nhưng họ giữ bí mật. Tôi cho nhân viên mình đem vài kí lô tôm giả vờ đến bán, xem họ mua được giá bao nhiêu để kịp thời điều chỉnh mới mong có được hàng. Chỉ cần chênh lệch nhau vài trăm đồng một kí lô là thương lái không chịu bán. Khi họ chở hàng vào trạm, kiểm tra xong, phải cố gắng thương lượng để mua cho được, không được để họ chở đi bán chổ khác. Có khi mua được lô hàng ngày hôm trước, qua hôm sau, gía tăng, chỉ cần sang tay lại cho các trạm khác là có thể kiếm lời, không cần đem về nhà máy chế biến cho mất công.

       Được sự giới thiệu của Nguyễn Chính, bạn cùng lớp TS K1, đang làm việc tại Nhà máy Đông lạnh Thủy sản Năm Căn (thuộc Seaprodex Minh Hải). Tôi xuống nhà máy này để vừa mua tôm tận gốc, vừa nhờ họ giúp gia công theo cách đi sát cuối cỡ. Sau đó, thuê tàu lạnh tạm chứa thành phẩm chở ra bến Thị xã Cà Mau, rồi lên xe lạnh chở về An Giang. Với cách làm này, tuy vất vả nhưng cũng giúp công ty mua được một số hàng. Trong khi nhà máy của họ lại không mua được vì họ đã quen bắt từ cỡ đầu đến cỡ trung bình.

       Cở tôm ngày càng nhỏ dần vì dân tận dụng xổ tôm liên tục. Về sau, tôm cỡ nhỏ từ 100/200 đến 300/500, thương lái đã tổ chức phân cỡ, bóc vỏ tôm tại chổ, gọi là tôm “nõn”. Các trạm tranh nhau mua loại tôm “nõn” này vì đem về nhà máy không cần phải mất công chế biến, chỉ kiểm tra lại cỡ, loại, rữa sạch là cân lên khuông đông lạnh nhanh thành phẩm. Điều này giúp vừa tăng năng suất chế biến, vừa có hiệu quả cao. Ngoài ra, tôm “nõn” khi ngâm nước đá với tỷ lệ muối [STPP(7)] 10-15%, còn làm cho tôm ngậm nước, tăng thêm trọng lượng, lên kích cở. Nhưng việc lạm dụng ngâm thuốc tăng trọng, bơm chích tạp chất như ướp urê, hàn the; rất dễ xảy ra, sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm. Có lần, công ty cũng đã mua lầm những lô hàng này, khi đem về tới nhà máy, tôm bị nhão, bốc mùi ương, phải hủy bỏ, và chịu lỗ.

       Có lần gặp Nguyễn Thông Minh, phó giám đốc HV, phụ trách thu mua, ở cùng khách sạn Cà Mau với tôi. Hỏi thăm tình hình xuất cảng thì được biết khách hàng của họ cũng là công ty Sun Wah, cùng một bảng giá bán như nhau. Nhưng khi tính toán chi li, hết cách, tôi vẫn thắc mắc không hiểu tại sao các trạm họ vẫn mua cao hơn 15-20%. Sau này mới biết do áp lực lạm phát, bởi HV đã nhập hàng trả chậm, sợ trượt giá, nên họ phải chấp nhận mua giá cao để có được hàng xuất cảng.

       Kế bên trạm HV là trạm của Unimex Long An, cũng tình trạng nâng giá mua cao như vậy. Có lúc, tôi nghe nói trạm này còn nhận được lệnh của vị Tổng giám đốc Unimex Long An: “Phải bằng mọi giá, không để Hùng Vương mua được tôm!” Phía HV “chơi” lại, bằng cách mua gom tất cả nước đá trong khu vực, không để họ có đủ nước đá muối ướp, làm tôm bị mau xuống cấp, hư hỏng.   

       Tình hình trạng tranh mua căng thẳng, có chiều hướng xấu trên được báo về công ty để tìm cách giải quyết. Việc cạnh tranh như chơi ván bài lật ngữa, sát phạt nhau. Từ gía mua nguyên liệu, chi phí sản xuất, đến giá xuất cảng, các doanh nghiệp đều biết rõ nhau. Vậy mà họ cứ cạnh tranh, nâng giá, triệt hạ lẫn nhau. Đến nỗi vị giám đốc Unimex Long An đã phải tự sát, bắn vào đầu ngay tại phòng làm việc (1991). Vụ án này đã gây chấn động trong giới Thủy sản. Một thời gian sau, năm 1995, đông lạnh HV cũng bị phá sản. Dương Ngọc Minh, giám đốc, bị vướng vào vòng lao lý vì tội: “cố ý làm trái pháp luật qui định của nhà nước, gây ra thiệt hại kinh tế hết sức nghiêm trọng” Như ông ấy từng kể.  

       Từ năm 1990, nhằm chấn chỉnh lại tình trạng cạnh tranh tiêu cực của “trận giặc tôm”, nhà nước đã giải thể tất cả các công ty quốc doanh cấp huyện, thị. Chỉ duy trì các công ty cấp tỉnh, tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, và cho phép công ty tư nhân ra đời. Các công ty hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Đồng thời, bãi bỏ kiểu “chia quyền sử dụng ngoại tệ” lắm ràng buộc và nhiêu khê. Doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng ngoại tệ của mình.

Thay lời kết

        Do hiệu quả chế biến, kinh doanh tôm ngày càng giảm, khó cạnh tranh nguyên liệu với các tỉnh lân cận. Cùng năm 1990, Công ty Thủy sản An Giang đã quyết định rút toàn bộ trạm thu mua để “ta vta tắm ao ta”, thoát khỏi “trận giặc tôm” vẫn chưa đến hồi kết thúc. Nhà máy không còn tập trung vào mặt hàng này như mục tiêu ban đầu nữa, để chuyển dần sang chế biến fillet cá Basa vì nguồn nguyên liệu cá nuôi này có sẵn tại An Giang và đang có triển vọng xuất cảng. Do khó khăn, thua lỗ vì con tôm, công ty này cũng được sáp nhập với năm doanh nghiệp khác của tỉnh để thành lập Công ty Xuất nhập khẩu Nông Thủy sản An Giang (AFIEX Co).

       Qua “trận giặc tôm”, tác giả chỉ còn nhớ lại vài ký ức chua sót của những năm 1986-1990, khi đi giành nhau mua từng con tôm, con tép từ các nơi. “Chớ nên thở bằng lỗ mũi của người khác” mà phải dựa vào nội lực của mình, và rút ra được bài học xương máu, như câu châm ngôn người xưa đã nói. Cũng nhờ đó mà nhà máy đông lạnh An Giang đã tìm được lối thoát, và chuyển hướng kịp thời. Từng bước đi tìm thị trường mới, tạo dựng nên tên tuổi cho sản phẩm fillet cá Basa, cá Tra. Đưa sản phẩm này trở thành một mặt hàng thủy sản xuất cảng quan trọng, đi khắp nơi trên thề giới, góp phần hình thành ngành công nghiệp cá Tra Việt Nam.

An Giang, Mùa hè 2022

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập, trình bày và phụ chú bổ túc

Chú thích

(1) Con nước: tiếng địa phương chỉ thời điểm thủy triều xuống thấp nhất trong tháng. Mỗi tháng có hai thời điểm mực nước biển thấp nhất vào giữa tháng và cuối tháng (Âm lịch). Là lúc người dân mở cống, tháo cạn nước trong ao để bắt tôm theo chu kỳ bán nhật triều.

 (2) tôm vuông: tiếng địa phương để chỉ sản phẩm tôm được nuôi tự nhiên trong ao, hồ. Phân biệt với tôm biển, được khai thác từ biển. Vuông tôm: tiếng địa phương, để chỉ những ao, hồ nuôi tôm thường có hình vuông, hoặc chữ nhật, như những ô vuông trên bàn cờ. Tôm giống thiên nhiên theo dòng nước biển chảy vào ao nuôi, lớn lên tự nhiên, hoàn toàn không cho thêm thức ăn bổ túc.

(3)  xổ: tiếng địa phương, để chỉ công việc tháo cạn nước trong ao nuôi theo thủy triều rút xuống khi thu hoạch tôm. Tôm sẽ trôi theo dòng nước vào chiếc túi lưới đặt ở cửa cống.

 (4) KCS: viết tắt của các chữ Kiểm tra Chất lượng (phẩm chất) Sản phẩm. Trong nhà máy chế biến luôn có bộ phận này để kiểm tra an toàn vệ sinh, phẩm chất của sản phẩm.

 (5) : tiếng địa phương, để chỉ việc mua cả khối lượng lô hàng theo ngẫu nhiên.

 (6) Vỏ lãi hay còn gọi là tắc ráng, tên một loại thuyền máy nhỏ, dài hình thoi, thường làm bằng gỗ hoặc nhựa composite gắn thêm máy, là phương tiện di chuyển chính và phổ biến ở các tỉnh miền Tây, vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là vào mùa nước nổi. Vỏ lãi có vận tốc di chuyển nhanh.

(7) STPP: sodium tripolyphosphate, một loại muối được phép dùng trong thực phẩm (Nguồn: Sodium tripolyphosphate, FDA, 21CFR182.1810, https://www.accessdata.fda.gov/scripts/cdrh/cfdocs/cfCFR/CFRSearch.cfm?fr=182.1810; Regulation (EC) No 1333/2008, European Union, https://eur-lex.europa.eu/eli/reg/2008/1333/2019-10-23; pentasodium tripolyphosphate, Food grade Specification, http://www.fao.org/fileadmin/user_upload/jecfa_additives/docs/Monograph1/Additive-308.pdf)

Tham khảo:

  • “Vụ cháy tòa tháp cao nhất của Sài Gòn xưa” – Danviet.vn 24/6/2013.
  • “Doanh nhân Dương Ngọc Minh. Từ phạm nhân trở thành ông vua cá Tra”- Bất động sàn Express (30/8/2021)
  • “Công ty CP Kinh doanh Chế biến và Xuất nhập khẩu Quốc Việt”- masothue.com