Thử thách có thật của Trump 2.0
Peter D. Feaver | DCVOnline
Thế giới sẽ cần những biện pháp mới để đối phó với những chiến thuật cũ
Những bình luận của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump về NATO hồi đầu tháng 2 đã bị giới lãnh đạo trên thế giới chỉ trích nhanh ít thấy. Phát biểu tại một cuộc vận động tranh cử ở Nam Carolina, Trump nói rằng, khi là tổng thống, ông sẽ khuyến khích Nga “làm bất cứ chuyện gì họ muốn” đối với bất kỳ thành viên nào của liên minh Bắc Đại Tây Dương không đóng góp 2% GDP cho ngân sách phòng thủ, mục tiêu mà tất cả thanh viên NATO đã đồng ý vào năm 2014. Charles Michel, chủ tịch Hội đồng Châu Âu, gọi nhận xét của Trump là “liều lĩnh”. Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg chuyện đó “làm suy yếu toàn bộ an ninh của chúng ta”. Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden gọi nó là “phi Mỹ.”
Lời mời gây chiến rõ ràng đã gây sốc, nhưng thái độ ngụ ý coi thường đối với NATO không có gì đáng ngạc nhiên: Trump từ lâu đã cho thấy sự bất mãn của ông với những thành viên NATO khác. Ông cũng có lịch sử thân thiện với giới lãnh đạo độc tài – có lẽ không ai nhiệt tình hơn Tổng thống Nga Vladimir Putin. Sau đó, thay vì đánh dấu một số phẫn nộ mới, cuộc nói chuyện bất chấp của Trump về NATO dường như nhấn mạnh một quan điểm lớn hơn về nhiệm kỳ thứ hai có thể có của ông: sau khi trải qua Trump phiên bản 1.0, mọi người đều có ý tưởng khá rõ về những gì có thể xảy ra ở phiên bản 2.0, nhưng vì điều kiện xung quanh Trump đã thay đổi, Trump 2.0 sẽ là một kinh nghiệm hỗn loạn hơn nhiều.
Trump đã không thay đổi quan điểm nhiều từ khi ông rời nhiệm sở, nhưng môi trường của ông, trong và ngoài nước, đã có nhiều thay đổi—và có lẽ, Trump cũng hiểu biết về cách áp dụng quyền hành pháp. Tình hình của Washington nguy hiểm hơn đáng kể so với những năm ông nắm quyền, với nhiều cuộc chiến tranh diễn ra, sự cạnh tranh giữa những cường quốc gia tăng và một trật tự tự do đang lung lay. Hơn nữa, khi mất quyền lực, nhóm của Trump đã thực hiện công việc chuyển tiếp mà lần đầu tiên họ không làm; họ sẽ được một Đảng Cộng hòa đã thay đổi trao quyền và được co sẵn một danh sách rất chi tiết về bạn và thù — và do đó ở vị thế tốt hơn để bẻ cong bộ máy hành chính chính trị theo ý của họ. Những quốc gia sẽ phát triển mạnh dưới nhiệm kỳ thứ hai của Trump là những đối thủ và kẻ thù của Mỹ như Trung Hoa và Nga; những nước có thể bị thiệt hại nhất là những nước bạn truyền thống của Mỹ như những nước châu Âu, Nhật Bản và những đối tác ở Tây bán cầu.
Tất nhiên không thể dự đoán được những chính sách chính xác của chính quyền Trump trong tương lai, đặc biệt là vì chúng mang đặcđiểm của một tổng thống dễ xúc động, vô kỷ luật và dễ bị phân tâm. Nhưng có lý do chính đáng để nghĩ rằng Trump 2.0 sẽ là Trump 1.0 say thuốc. Sự trở lại của ông sẽ dẫn đến một nước Mỹ đơn phương hơn, xa cách hơn và đôi khi hung hăng hơn, ít cam kết duy trì những cấu trúc địa chính trị và những giá trị tự do đang chịu áp lực ngày càng tăng.
Ngoại trừ sự được lòng đảng viên Cộng hoà của Đại sứ Nikki Haley tăng một cách đáng ngạc nhiên, Trump đang trên đà trở thành ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa và ngang với Tổng thống Biden trong những cuộc thăm dò quốc gia. Dù những chuyên gia an ninh quốc gia dành nhiều nỗ lực mỗi ngày để cố gắng đánh giá hậu quả của những cú sốc địa chính có thể xẩy ra khiến xác xuất một Trump 2.0 thấp hơn rất nhiều, nhưng điều quan trọng là phải cố gắng lập kế hoạch cho một Toà Bạch Ốc khác của Trump và hiểu những thách thức mà một chính quyền như vậy sẽ đặt ra đối với những vấn đề quốc tế.
KHÔNG CÓ NGƯỜI HIỂU BIẾT VÀ CÓ TRACH NHIỆM TRONG PHÒNG
Quan điểm chung của Trump về thế giới ngày nay hơi khác so với trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông. Mọi dấu hiệu cho thấy ông vẫn tin rằng mạng lưới liên minh toàn cầu của Washington là một trở ngại chứ không phải là tài sản; và việc phá bỏ những cơ chế thương mại toàn cầu là con đường tốt nhất dẫn tới an ninh và thịnh vượng kinh tế; rằng Hoa Kỳ thu có lợi hơn do quan hệ ngoại giao với những kẻ độc tài hơn là quan hệ gắn bó với những đồng minh dân chủ lâu đời; và rằng chính sách đối ngoại đơn phương, chỉ coi “bánh ít trao đi, bánh quy trao lại” là cách tốt nhất để đối phó với cả kẻ thù và bạn. Ông cũng tiếp tục kết hợp lợi ích của Mỹ với lợi ích của cá nhân, dù là chính trị hay tiền bạc.
Điều đã thay đổi là những thành viên trong chính quyền mới của Trump sẽ ít có thể kiềm chế những hành động bốc đồng tồi tệ nhất của ông. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, nhiều thành viên quan trọng nhất trong nhóm an ninh quốc gia của ông, cũng như những đồng minh của Đảng Cộng hòa ở Quốc hội, có quan điểm Cộng hòa truyền thống hơn. Khi Trump bày tỏ mong muốn đi theo một hướng khác, họ có quyền góp ý và có khả năng giải thích lý do tại sao đó có thể là một ý tưởng tồi và họ thường thuyết phục được ông ấy. Ví dụ, đây là những gì đã diễn ra trong bản đánh giá chiến lược Afghanistan năm 2017. Điều quan trọng không kém là đối với nhiều vấn đề mà Trump đơn giản là không tham gia, những người được bổ nhiệm theo truyền thống của ông có thể thực hiện một chính sách bình thường dưới tầm quan sát của ông, cũng như chính sách của ông phù hợp với Chiến lược quốc phòng năm 2018. Cuối cùng, ở một số khu vực có quy trình triển khai chậm và kết thúc và những mánh lới quảng cáo hành chính thông thường khác đã được áp dụng để ngăn cản sự phát triển mạnh mẽ của chính sách kiên quyết của Trump, không có đủnhững chiến binh MAGA tin tưởng thực sự ở mọi cấp độ của bộ máy chính quyền đã khiến Trump khó thực hiện được những ý tưởng bất chợt của mình. Không rõ lần này sẽ có những lan can như vậy hay không.
Trump đã đề ra những kế hoạch nhằm đe dọa bộ máy chính quyền bằng cách phân loại lại nhân viên không cho có họ những biện pháp bảo vệ công chức và có thể sa thải họ hàng loạt. Những đồng minh của ông đang nói về việc dùng quyền lực của tổng thống để loại bỏ tận gốc những thành viên trong quân đội không thể hiện đủ khuynh hướng MAGA. Trump chắc chắn sẽ không lập lại sai lầm trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình khi bổ nhiệm những viên chức chính phủ cao cấp cao lãnh đạo quân đội, chẳng hạn như những tướng đã nghỉ hưu Jim Mattis và John Kelly, những người kiên quyết đặt lòng trung thành với Hiến pháp lên trên lòng trung thành với cá nhân Trump. Và nhiều người trung thành với MAGA từng phục vụ trong chính quyền đầu tiên giờ đây đã hiểu rõ hơn về bộ máy chính quyền từng khiến họ thất vọng — và sẽ có vị thế tốt hơn để thi hành những thay đổi căn bản hơn nếu họ giành lại được quyền lực.
Về lý thuyết, Quốc hội vẫn có thể kiềm chế một tổng thống phá hoại. Nếu Đảng Dân chủ cố gắng giữ được quyền kiểm soát Thượng viện hoặc giành lại quyền kiểm soát Hạ viện, họ sẽ có thể dùng sức mạnh của ngân sách để chi phối những gì nhánh hành pháp có thể hoặc không thể làm. Nhưng những công cụ lập pháp này yếu hơn vẻ ngoài của chúng. Ví dụ, Quốc hội đã thông qua một đạo luật khiến tổng thống khó có thể chính thức rút khỏi NATO. Tuy nhiên, đạo luật đó vẫn còn đáng nghi ngờ về tính hợp hiến. Và một tổng thống chỉ cần phủ nhận những liên minh đó như một vấn đề chính sách — ví dụ, bằng cách giảm số quân đội Mỹ đưa sang hoạt động với NATO hoặc bằng cách lớn tiếng khẳng định rằng ông sẽ không bảo vệ những quốc gia thanh viên nếu Nga tấn công họ — có thể làm suy yếu liên minh một cách hiệu quả ngay cả khi không có sự rút lui chính thức của Hoa Kỳ. Đơn giản là không có cách nào tốt để Quốc hội chống lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cản đường Trump, với quyền lực đáng kể của nhánh hành pháp. Trump cũng sẽ phải đối phó với một Quốc hội ít có khuynh hướng áp đặt những hạn chế như vậy, vì đã thiết lập quyền làm chủ về ý thức hệ tư của Đảng Cộng hòa, nơi mà giới tinh hoa theo đường lối cũ không còn có thể cho rằng chương trình nghị sự của ông là sai lầm và phải bị phản đối.
Nhưng có lẽ lý do lớn nhất khiến Trump 2.0 sẽ khác với Trump 1.0 là những thay đổi trong môi trường địa chính trị ở nước ngoài. Nếu quay lại Phòng Bầu dục, Trump sẽ hành động trong một thế giới hỗn loạn hơn nhiều. Năm 2017, Trump nhậm chức khi thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh sắp kết thúc. Đã có những căng thẳng với Trung Hoa và những cuộc chiến tranh nóng bỏng ở Trung Đông lớn hơn chống lại Taliban và Nhà nước Hồi giáo, được gọi là ISIS, nhưng tình hình ngày nay còn thảm khốc hơn nhiều. Hiện ông đang tranh cử nhiệm kỳ thứ hai trong lúc có những cuộc chiến tranh nóng bỏng lớn ở Đông Âu và Trung Đông, nguy cơ xung đột ngày càng tăng trên eo biển Đài Loan và ở Biển Đông, căng thẳng leo thang với Iran và Bắc Hàn cũng như những cuộc khủng hoảng khác. Một thế giới hỗn loạn đòi có sự tham gia và lãnh đạo quốc tế nhiều hơn mà Washington thường cung cấp kể từ năm 1945 — trái ngược với những gì họ có thể nhận được nếu Trump trở lại ghế tổng thống.
NHIỀU MÚA HÁT HƠN, NHIỀU RỐI LOẠN HƠN
Chính sách đối ngoại của chính quyền Trump thứ hai có thể sẽ là sự kết hợp bất thường giữa tính liên tục và sự thay đổi. Lúc đầu, một số chính sách của ông ấy dường như chỉ khác với Biden ở mức độ. Trump chắc chắn sẽ tăng cường cạnh tranh kinh tế với Trung Hoa, mặc dù tập trung vào việc cắt giảm thâm hụt thương mại song phương và củng cố những chuỗi cung ứng quan trọng. Ông ấy có thể công bố một chương trình nghị sự “hòa bình bằng sức mạnh” giống như Reagan nhằm tăng chi tiêu quốc phòng của Hoa Kỳ, một mục tiêu có thể tách phe diều hâu khỏi phe bồ câu trong Đảng Dân chủ cũng giống như viện trợ cho Ukraine hiện đang chia rẽ những người theo chính sách quốc tế khỏi những người theo chính sách tân cô lập trong Đảng Cộng hòa.
Nhưng tất nhiên, những chính sách như vậy sẽ xuất hiện theo định hướng Trump. Việc xây dựng quân đội có thể sẽ đi kèm với việc chính trị hóa quân đội nhiều hơn, vì Trump sẽ tìm cách loại bỏ tận gốc những lãnh đạo cao cấp mà ông tin rằng đã không thể hiện lòng trung thành thỏa đáng với ông trong quá khứ. Cạnh tranh kinh tế với Trung Hoa có thể sẽ đi đôi với nỗ lực đổi mới cho một thỏa thuận thương mại “lịch sử” mà Trump đã muốn có nhưng không đạt được trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến năm 2020. Và khi đối phó với nhiều đối thủ, Trump một lần nữa sẽ rơi vào chiến lược cạnh tranh múa hát—lời lẽ nóng nảy và căng thẳng gia tăng, nhưng không có chính sách mạch lạc hoặc mục đích chiến lược rõ ràng.
Quan trọng hơn, Trump có thể sẽ theo đuổi những phiên bản chính sách sắc nét hơn của chính quyền đầu tiên của ông. Như cuộc vận động tranh cử của ông đã nói rõ, ông dường như chắc chắn sẽ tăng cường tấn công những liên minh của Mỹ, đặc biệt là NATO: cựu Cố vấn An ninh Quốc gia John Bolton đã cảnh cáo rằng Trump sẽ rút khỏi liên minh nếu ông đắc cử nhiệm kỳ thứ hai vào năm 2020. Bất kể Trump có đi xa đến thế hay không, ông ấy có thể dễ dàng tự mình đưa ra nhiều điều kiện hơn nếu muốn Mỹ tham gia vào NATO và mối quan hệ đối tác của Mỹ với những đồng minh hiệp ước ở Đông Á, yêu cầu những quốc gia thành viên khác đóng góp những khoản tài chính cắt cổ hoặc đơn giản là làm suy yếu những mối quan hệ những nhóm đa phương trong đó bằng cách gây căng thẳng về những vấn đề như chính sách khí hậu và thương mại. Trump đã đề nghị một mức thuế chung, sẽ phá hủy cơ chế thương mại quốc tế hiện tại bằng cách đơn phương đánh thuế tất cả hàng nhập cảng vào Hoa Kỳ.
Một số chính sách của Trump sẽ khác với Biden chỉ ở mức độ.
Trong khi đó, những quốc gia châu Âu ở tiền tuyến của NATO và những chính phủ châu Á như Đài Loan và Nam Hàn sẽ phải cạnh tranh với một Hoa Kỳ ít giao dịch hơn và ít cam kết hơn. Trump đã cân nhắc về việc chấm dứt chiến tranh ở Ukraine trong 24 giờ, và nỗ lực trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông nhằmbắt an ninh Ukraine làm con tin để theo đuổi mối thù truyền kiếp chống lại Biden có thể cho thấy ông sẵn sàng áp đặt một thỏa thuận hòa bình bất lợi cho Kyiv. Trump cũng sẽ ít cam kết hơn với an ninh của Đài Loan. Nếu Bắc Kinh tấn công hòn đảo này, ông từng nhận xét, “chúng ta chẳng thể làm gì được.” (“there isn’t a fucking thing we can do about it.”)
Nói rộng ra, chính quyền Trump dường như sẽ lùi bước xa hơn khỏi Trung Đông. Vì Trump không quan tâm đến việc Mỹ bảo đảm an ninh cho thế giới, nên chính quyền của ông có lẽ sẽ ít sẵn sàng thực hiện những biện pháp đó, giống như chính quyền Biden đã cùng với Anh quốc bảo vệ những đường vận chuyển quan trọng khỏi những cuộc tấn công của Houthi.
Thật khó để tưởng tượng rằng chính quyền Trump sẽ cam kết như chính quyền Biden trong việc đạt được một nền hòa bình ổn định nhằm giải quyết những lợi ích của cả Israel và Palestine. Mong muốn đạt được một thỏa thuận lớn với Ả Rập Saudi có thể thúc đẩy Trump giải quyết vấn đề Palestine—điều không được bàn đến trong Hiệp định Abraham nhưng không thể bỏ qua sau vụ tấn công ngày 7 tháng 10 và cuộc chiến ở Gaza. Có rất ít kịch bản hợp lý cho một kết quả thuận lợi ở Trung Đông và không có kịch bản nào mà không đòi hỏi cam kết đáng kể của Mỹ. Vì vậy, thật khó để thấy làm thế nào Trump có thể cân bằng sự ủng hộ của ông dành cho Israel với mong muốn xoá bỏ những cam kết của Mỹ ở Trung Đông.
Tuy nhiên, nhiệm kỳ thứ hai của Trump cũng có thể sẽ liên quan đến sự thiếu nhất quán hơn nữa về chính sách ở Trung Đông, vì ông cũng có thể sẵn sàng kết hợp việc rút lui khỏi khu vực với một số hành động quân sự kịch tính sắp diễn ra. Với lệnh của Trump ám sát Qasem Soleimani, người đứng đầu Lực lượng Vệ binh Cách mạng Iran, vào năm 2020 — một hành độngmạo hiểm mà nhiều người trong chính quyền lo ngại sẽ tạo ra một vòng xoáy leo thang với Tehran — ông ấy có thể tỏ ra sẵn sàng hơn Biden trong việc tiến hành những cuộc tấn công chết người chống lại Iran và những quân ủy nhiệm của nước này nếu họ nhắm mục tiêu vào nhân viên Hoa Kỳ, hoặc quay trở lại điều mà chính quyền Trump gọi là chính sách “áp lực tối đa” nhằm mang lại một thỏa thuận hạt nhân tốt hơn thỏa thuận mà ông kế thừa vào năm 2017.
Chính quyền mới của Trump cũng gần như chắc chắn sẽ hạ thấp hơn nữa nền dân chủ và nhân quyền như những mục tiêu chính sách. Và giống như Trump không ngừng nói về người di cư và việc xây dựng bức tường ở biên giới Mexico trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông ấy có thể sẽ áp dụng cách giải quyết cực đoan hơn trong nhiệm kỳ thứ hai—cụ thể là quân sự hóa biên giới hơn và những chính sách hạn chế hơn đối với người tị nạn, kết hợp với chính sách tăng cường quản lý người tị nạn với cuộc chiến chống ma túy.
ÔM, BAO VÂY VÀ NHỮNG THỦ ĐOẠN KHÁC
Trong chính quyền Trump đầu tiên, nhiều nhân vật lãnh đạo nước ngoài đã phát triển “bí quyết Trump” để đối phó với vị tổng thống bất thường nhất này. Cách đối phó đầu tiên gồm việc che giấu và phòng ngừa rủi ro, một chiến lược thu hút những nước như Pháp và Đức, những nước sẽ thiệt hại nhiều nhất nếu Trump phá bỏ trật tự quốc tế do Mỹ dẫn đầu. Do đó, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Thủ tướng Đức Angela Merkel đều cố gắng giữ khoảng cách với Washington để giảm thiểu những điểm bất đồng với Trump, nhưng đồng thời lại cố gắng lấp đầy khoảng trống lãnh đạo trong những tổ chức xuyên Đại Tây Dương và khẳng định vai trò lớn hơn của những cơ quan như Liên minh châu Âu. Mặc dù họ đã tránh được một cuộc khủng hoảng xuyên Đại Tây Dương toàn diện, nhưng họ không thể ngăn Trump dùng vô số lời lăng mạ và xung đột ngoại giao đã được giảm nhẹ phần nào nhờ sự trấn an từ những phe phái ủng hộ đồng minh hơn trong chính quyền Trump và những đảng viên Đảng Cộng hòa trong Quốc hội. Hơn nữa, họ chỉ thiếu những công cụ—quân sự, chính trị, kinh tế và ngoại giao—để bù đắp cho việc Trump từ bỏ vai trò lãnh đạo truyền thống của Mỹ.
Biện pháp thứ hai để đối phó với Trump là ôm và hài hước, một chiến lược thu hút những nhân vật lãnh đạo có tính cách rất phù hợp với Trump. Thủ tướng Anh Boris Johnson đưa ra quan điểm nịnh nọt Trump, xoa dịu cái tôi để quan hệ êm xuôi. Tương tự như vậy, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã nỗ lực hết sức để tán tỉnh Trump, thậm chí còn tặng ông một cây gậy golf mạ vàng sau chiến khi ông đắc cử vào tháng 11 năm 2016. Những nỗ lực này đã đem lại kết quả: Nhật Bản hoạt động tốt hơn những đồng minh khác của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương trong nhiệm kỳ tổng thống của Trump, và Trump đã không dành cho Johnson cách đối xử bắt nạt mà ông dành cho người tiền nhiệm Johnson. Tuy nhiên, rất ít nhân vật lãnh đạo nước ngoài khác có sự kết hợp giữa sự chutzpah và sự hỗ trợ trong nước để mạo hiểm thực hiện cách đôi phó như vậy.
Biện pháp thứ ba liên quan đến việc thi đua và khen thưởng để lấy lòng ông ta. Chiến thuật này đã thu hút những nhân vật lãnh đạo có cùng khuynh hướng độc tài như Trump và hiểu nhu cầu đạt được những thành tựu có vẻ ngoạn mục của ông: Viktor Orban của Hungary, Recep Tayyip Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ, Mohammed bin Salman của Ả Rập Saudi, và thậm chí cả Benjamin Netanyahu của Israel. Thành tựu ngoại giao quan trọng nhất của Trump, Hiệp định Abraham, đã cho thấy những khả năng cũng như những hạn chế của cách giải quyết này. Netanyahu đã thành công trong việc thuyết phục chính quyền Trump làm trung gian cho một thỏa thuận – bình thường hóa quan hệ giữa Israel và một số quốc gia Ả Rập – vốn từ lâu đã được coi là một phần quan trọng của một giải pháp hòa bình toàn diện ở Trung Đông, nhưng cách của Trump không liên quan đến việc Israel đưa ra bất kỳ nhượng bộ hoặc điều kiện cần thiết nào thậm chí thừa nhận vấn đề Palestine. Chiến lược đó dường như phát huy tác dụng tốt hơn bất kỳ ai mong đợi – cho đến khi Hamas phá hỏng nó bằng cuộc tấn công khủng bố ác độc vào Israel vào ngày 7 tháng 10. (Có thể cho rằng, cách giải quyết thi đua và trả thù lao cũng áp dụng cho Nga, mặc dù trong trường hợp đó, rõ ràng Putin là người lãnh đạo được tán tỉnh và Trump là người thực hiện việc tán tỉnh.)
Những chính phủ có lập trường cứng rắn thường có thể hợp tác kinh doanh với Trump.
Cuối cùng, cách tiếp cận thứ tư mà một số trong giới lãnh đạo nước ngoài thực hiện là duy trì thế đối đầu và thách thức Trump dám thi hành những lời đe dọa. Những quốc gia gây rắc rối nhất cho Trump (Iran, Bắc Hàn, Venezuela) đều theo đuổi đường lối này ở một mức độ nào đó. Mặc dù mỗi nước đều nhận được một số hình thức ngoại giao cưỡng bức khốc liệt nhất của Trump—trong trường hợp của Iran, cho đến và kể cả vụ giết hại có chủ đích Soleimani vào tháng 1 năm 2020—tất cả đều kết thúc nhiệm kỳ đầu tiên của Trump trong tư thế thách thức mạnh hơn, không có nhượng bộ có ý nghĩa nào đối với những yêu cầu của ông ta. Có thể cho rằng, đây là cách đối phó mà Trung Hoa cũng dựa vào, đặc biệt là khi Trump bắt đầu đẩy mạnh cuộc chiến thuế nhập cảng.
Một số bài học rút ra từ hồ sơ này. Ôm ấp, hài hước và bắt chước có thể gây bẽ mặt vì hành động thất thường của Trump đòi hỏi phải thường xuyên thay đổi. Hơn nữa, nó có thể không hiệu quả về lâu dài: Nhật Bản phải đối phó với yêu cầu tăng gấp bốn lần số tiền họ trả để bù đắp chi phí tiếp đónquân đội Mỹ, bất chấp sự tán tỉnh nhiệt tình của Abe đối với Trump. Phòng ngừa và che giấu là một chiến lược khả thi chỉ dành cho những quốc gia có lợi ích không bị ảnh hưởng nhiều vì sức mạnh của Mỹ hoặc có thể bù đắp một cách hợp lý cho việc Mỹ rút khỏi những cấu trúc liên minh hiện có. Hiện tại, chỉ có Trung Hoa mới có thể lấp đầy khoảng trống quyền lực do Hoa Kỳ rút lui khỏi vai trò địa chính trị truyền thống là đầu mối cho những liên minh, nhưng nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn quá quan trọng đối với sự thịnh vượng của Trung Hoa để tạo ra một sự che giấu và phòng ngừa thực sự như một chiến lược khả thi.
Mặt khác, những chính phủ như Trung Hoa áp dụng lập trường đàm phán cứng rắn thường có thể hợp tác kinh doanh với Trump vì lợi ích của họ. Điều này là do Trump tỏ ra háo hức với một thỏa thuận đến mức ông đã làm suy yếu đòn bẩy thương lượng của chính mình: thỏa thuận mà Trump đang cố gắng hoàn tất với Trung Hoa vào đầu năm 2020 sẽ mang lại rất ít lợi ích ngoài việc tăng xuất cảng đậu nành trong ngắn hạn. Cuối cùng, những người lãnh đạo công khai thách thức Trump phải chịu đựng rất nhiều căng thẳng nhưng thường không bị ảnh hưởng vì mất lợi ích. Điều này đặc biệt đúng đối với những quốc gia có chung quan điểm coi thường trật tự quốc tế tự do như Trump. Ngay cả nhóm khủng bố ISIS cũng thấy được kết quả tích cực từ việc kiên trì: Trump đột ngột kết thúc cuộc chiến chống ISIS trước khi đạt được chiến thắng quyết định, tương đương với việc bỏ bóng nhận phạt.
TRÁNH TAN TÁC
Đối với những đồng minh của Mỹ, có nhiều lý do khiến việc đối phó với Trump trong nhiệm kỳ thứ hai sẽ khó khăn hơn so với nhiệm kỳ đầu tiên của ông. Có một điều, sẽ khó khăn hơn nhiều để chứng minh rằng Trump là một người đi chệch khỏi khuôn mẫu lãnh đạo truyền thống của Hoa Kỳ. Đồng thời, hầu hết những đồng minh dân chủ tự do sẽ thấy khó chấp nhận việc gói gọn những chính sách tốt bằng những khoản thù lao tồi tệ nhưng cấp bách để thuyết phục Trump đồng tình với họ. Vì có ít đảng viên Cộng hòa truyền thống đảm nhiệm những vị trí chủ chốt hơn nên những chính phủ nước ngoài sẽ có ít người ủng hộ và đối tác trong chính quyền để giúp họ giảm thiểu động cơ chống đồng minh của Trump. Điều đó sẽ khiến nhiều đồng minh tự do phải cố gắng bảo vệ càng nhiều lợi ích của hệ thống quốc tế dựa trên luật lệ cũ càng tốt mà không có quyền lực của Mỹ bảo lãnh cho chúng. Kết quả là, nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Trump có thể làm tiến trình khu vực hóa đi sâu hơn, chẳng hạn như hợp tác lớn hơn giữa Nhật Bản và Australia hoặc giữa Anh quốc và những nước Đông Âu—nhưng không có Mỹ với tư cách là đầu nối ngoại giao và quân sự. Pháp và Đức có thể sẽ cố gắng khôi phục lại một số phiên bản trong tầm nhìn của Macron về một hệ thống an ninh do châu Âu lãnh đạo bất chấp triển vọng không khá hơn trước.
Nghịch lý thay, nếu chẩn đoán của Trump về trật tự quốc tế là đúng thì nghĩa là, nếu tất cả những lợi ích của trật tự do Hoa Kỳ lãnh đạo có thể được bảo toàn mà không cần sự lãnh đạo của Hoa Kỳ nếu những đồng minh ngừng hưởng lợi tự do—thì hậu quả của một chính quyền Trump thứ hai sẽ có thể lo liệu được. Có thể sự kết hợp của những cường quốc tầm trung khác trong việc đẩy mạnh và theo đuổi phòng ngừa rủi ro thận trọng có thể đủ để cùng nhau duy trì trật tự hiện tại, ít nhất là trong một thời gian. Tuy nhiên, sự rút lui của Hoa Kỳ do Trump dẫn đầu có thể nhanh chóng biến thành một cuộc rút lui với sự sụp đổ của trật tự vốn mang lại sự thịnh vượng toàn cầu tương đối mà không có xung đột giữa những cường quốc trong gần 80 năm. Phần lớn sẽ phụ thuộc vào việc những đối thủ truyền thống như Trung Hoa và Nga tìm cách giành được bao nhiêu lợi thế và nhanh như thế nào.
Giống như nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của Trump, những nước hưởng lợi lớn nhất trong nhiệm kỳ thứ hai có thể sẽ là đối thủ của Mỹ vì họ sẽ có nhiều cơ hội mới để phá vỡ trật tự hiện có. Trung Hoa có thể khai thác việc Trump không quan tâm đến việc bảo vệ Đài Loan và theo đuổi hành động nhanh chóng để chiếm lại tỉnh “nổi loạn”. Lãnh đạo Trung Hoa Tập Cận Bình có thể chỉ ngồi yên và để Trump đốt cháy những liên minh của Mỹ ở châu Á để mang lại lợi ích cho Trung Hoa sau này. Putin có thể làm theo thỏa thuận “hòa bình” do Trump đề nghị đối với Ukraine như một cách để khiến phương Tây biện bạch cho lợi ích của ông trước sự thiệt hại của Ukraine. Ông cũng có thể cản trở với hy vọng rằng Trump sẽ cắt hoàn toàn viện trợ cho Ukraine, để Nga tự do tiến quân vào Kiev một lần nữa. Bất kể họ chọn con đường nào, những đối thủ đều có thể tin tưởng vào Trump như một công cụ hữu ích trong nỗ lực làm suy yếu hệ thống liên minh truyền thống do Hoa Kỳ lãnh đạo, hệ thống từ lâu đã đóng vai trò là hạn chế chính đối với quyền lực của họ.
Một nhóm quốc gia khác, những đồng minh thụt lùi và những đối tác “bánh ít trao đi, bánh quy trao lại”, cũng sẽ chào đón sự tái đắc cử của Trump. Nếu ông Netanyahu, người bị Israel bao vây, vẫn bám lấy quyền lực sau lễ nhậm chức của Trump, thì lời cam kết hỗ trợ vô điều kiện của Trump dành cho Israel có thể đóng vai trò là cứu cánh mà ông Netanyahu cần để tránh phải chịu trách nhiệm về việc quyết định sai lầm thảm khốc đối với an ninh Israel. Những chế độ Ả Rập đã giúp thực hiện Hiệp định Abraham có thể sẽ hoan nghênh sự trở lại của ngoại giao “bánh ít đi, bánh quy lại” , ngay cả khi họ ít có thể theo đuổi những thỏa thuận bình thường hóa hơn nữa trong trường hợp không có kế hoạch hòa bình khả thi cho người Palestine. Những nhân vật lãnh đạo theo chủ nghĩa dân túy ở Argentina, Hungary, và có lẽ cả Ấn Độ cũng sẽ hoan nghênh sự che chở do tân tổng thống Trump mang lại trong nỗ lực chống lại áp lực quốc tế nhằm bảo vệ quyền của người thiểu số.
Tổng hợp lại, những phản ứng khác nhau này đối với việc Trump trở lại Toà Bạch Ốc sẽ dẫn đến một hệ thống quốc tế có nhiều biến động, đánh dấu bằng mức độ bất ổn địa chính trị rất lớn và khoảng trống quyền lực ở trung tâm. Trong bối cảnh Mỹ rút lui hỗn loạn, những đồng minh và đối tác truyền thống của Washington hầu như sẽ không có những biện pháp khả thi để điều chỉnh mối quan hệ của họ. Và những đối thủ truyền thống sẽ chiếm thế thượng phong trong những thỏa thuận với Hoa Kỳ. Một trong những câu hỏi thú vị hơn trong quan hệ quốc tế hiện đại là trật tự quốc tế hiện tại có khả năng phục hồi đến mức nào—nó có thể tiếp tục hoạt động trong bao lâu nếu không có sự tham gia tích cực, mang tính xây dựng của cường quốc mạnh nhất thế giới. Kể từ năm 1945, người ta không thể biết được câu trả lời cho câu hỏi đó. Tuy nhiên, nếu Trump thắng vào tháng 11, thế giới có thể sơm biết được câu trả lời.
© 2024 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
________________________
Nguồn: The Real Challenge of Trump 2.0 | Peter D. Feaver | Foreign Affairs | February 19, 2024.