Nền kinh tế của Trung Hoa trên đường gây trở ngại

Daniel H. Rosen và Logan Wright | DCVOnline

Khi tăng trưởng chậm lại, hành động và lựa chọn của Bắc Kinh đang gây ra phản ứng dữ dội trên thế giới

Tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc tại Bắc Kinh, tháng 3 năm 2024. Florence Lo / Reuters

Nền kinh tế Trung Hoa hầu như không tăng trưởng trong hai năm qua. Những nguyên nhân trước mắt, gồm cả sự sụt giảm trong ngành xây dựng bất động sản và những chính sách “không COVID” lỏng lẻo đã cản trở đầu tư ở khu vực tư nhân, đều đã được biết rõ. Nhưng gốc rễ của sự trì trệ là mang tính hệ thống, và những công ty, giới phân tích ở Trung Hoa cũng như những chính phủ và doanh nghiệp trên khắp thế giới đã chờ đợi với kỳ vọng Bắc Kinh làm rõ kế hoạch đưa nền kinh tế nước này đi theo hướng ổn định hơn. Từ năm 2010 đến năm 2019 – cách đây không lâu – tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Hoa trung bình là 7,7%, nhưng ngày nay những cải cách chính sách căn bản cần thiết để hỗ trợ mức tăng trưởng dù chỉ 3 hoặc 4% đã là mức khó để Bắc Kinh có thể đạt được.

Giới quan sát trong và ngoài nước đặt hy vọng vào sự công bố chính sách lớn nhất trong lịch sử Trung Hoa tại Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (NPC), vì những dấu hiệu cho thấy sự đổi hướng đã quá muộn. Trung Hoa đã đạt thặng dư thương mại hàng năm trong hơn hai mươi năm, nhưng vào năm 2022 và 2023, nhu cầu nội địa của Trung Hoa suy giảm đã đẩy xuất cảng của nước này vượt quá nhập cảng với con số gây sốc là 1,7 ngàn tỷ USD. Một năm trước đó, vào năm 2021, Chủ tịch Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng Trung Hoa đã trở thành một “xã hội khá thịnh vượng” — ám chỉ một khái niệm được xác định cách đây hơn hai ngàn năm trong Kinh Thi. Theo thuật ngữ kinh tế hiện đại, Tập Cận Bình đang giành lấy công lao vì sự vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình của Trung Hoa. Tiến trình chuyển đổi này phải đi kèm với một trục chính sách. Sau hơn hai mươi năm tăng trưởng mạnh nhờ đầu tư, Trung Hoa hiện cần tăng trưởng nhờ tiêu thụ. Đầu tư thêm sẽ có lợi nhuận giảm dần trừ khi Trung Hoa có thể tiêu thụ nhiều hơn trong nước. Tuy nhiên, trong hai năm qua, điều ngược lại đã xảy ra.

Không thể bán hàng cho người mua trong nước, những công ty Trung Hoa đang xuất cảng sản phẩm dư thừa ra nước ngoài.

Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản và những nước tiên tiến và đang phát triển khác lo ngại rằng khuynh hướng này sẽ tiếp tục — Trung Hoa đang chuẩn bị xuất cảng để thoát khỏi tình trạng suy thoái kinh tế. Bắc Kinh đã từ chối ưu tiên nhu cầu trong nước và công khai chê bai những đề nghị kích thích tiêu thụ, đồng thời hứa sẽ duy trì hỗ trợ cho chính những ngành đang thúc đẩy tăng trưởng xuất cảng của Trung Hoa. Những chính sách này sẽ dẫn đến thặng dư thương mại và thâm hụt nước ngoài lớn hơn của Trung Hoa, làm suy yếu sự cạnh tranh ở nước ngoài và đe dọa khiến những công ty phương Tây phá sản và người lao động của họ mất việc làm.

Kết quả của NPC, kết thúc vào ngày 11 tháng 3, sẽ làm tăng thêm thay vì xoa dịu những lo lắng chính đáng của nước ngoài. Đối đầu với tình hình kinh tế đòi hỏi phải cải cách cơ cấu để nâng cao năng suất và đưa nhu cầu trong nước phù hợp hơn với sản xuất, thay vào đó, giới lãnh đạo Trung Hoa đã đưa ra một loạt chính sách nhằm trì hoãn những thay đổi cần thiết và làm sâu sắc thêm sự lệ thuộc của nền kinh tế vào những nguồn cầu nước ngoài. Để bảo vệ nền kinh tế của mình khỏi những thiệt hại do hàng xuất cảng giá rẻ của Trung Hoa gây ra, những chính phủ nước ngoài sẽ ngày càng chuyển sang những công cụ chống bán phá giá, thường gồm cả thuế nhập cảng áp đặt vào hàng hóa Trung Hoa sản xuất dưới giá thành.

Xung đột thương mại ngày càng tồi tệ là kết quả tất yếu của những chính sách hiện tại của Trung Hoa và nó sẽ không chỉ giới hạn ở mối quan hệ của Trung Hoa với những nền kinh tế tiên tiến. Tranh chấp thương mại đã nảy sinh giữa Bắc Kinh và một số thành viên khác của diễn đàn đa phương được gọi là BRICS, dành cho Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Hoa và Nam Phi. Đầu tháng này, Brazil đã khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với thép nhập cảng từ Trung Hoa. Ấn Độ đã đưa ra nhiều lệnh chống bán phá giá hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới trong nỗ lực hạn chế nhập cảng từ Trung Hoa. Ủy ban thương mại Nam Phi gần đây đã hoàn thành đánh giá hàng nhập cảng của Trung Hoa và xác nhận rằng việc bán phá giá đang diễn ra. Trong khi những nền kinh tế phát triển và đang phát triển đều phản đối khối lượng xuất cảng cao của Trung Hoa, thì Bắc Kinh dường như phớt lờ vấn đề này. Và khi tình trạng dư thừa năng lực của Trung Hoa khiến những chính phủ nước ngoài phải có những biện pháp đối phó ngày càng khắc nghiệt hơn, thì cuộc đối đầu dẫn đến là điều mà cả nền kinh tế Trung Hoa lẫn hệ thống thương mại toàn cầu đều không thể chấp nhận được.

KHÔNG CÓ THAY ĐỔI Ở CHÂN TRỜI

Đây không phải là trường hợp đầu tiên nhiều nước trên thế giới phản đối những hoạt động thương mại của một quốc gia. Những nền kinh tế tiên tiến cũng gặp vấn đề với việc Nhật Bản từ chối giải quyết tình trạng mất quân bình cán cân thương mại trong những năm 1970 và 1980. Hoa Kỳ đã can thiệp bằng cách tổ chức những cuộc đàm phán trực tiếp với Nhật Bản vào năm 1984–85 để buộc Tokyo phải giải quyết vấn đề gốc rễ của vấn đề: những chính sách cơ cấu gây bất lợi cho sản phẩm nước ngoài và định giá thấp đồng tiền Nhật Bản. Kết quả là Nhật Bản đã đồng ý “tự nguyện” hạn chế xuất cảng. Hiệp định Plaza năm 1985 và Hiệp định Louvre năm 1987, đều được Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh và Hoa Kỳ ký kết (với Canada sau đó tham gia hiệp định), đã soạn thảo những thỏa thuận tiếp theo để giảm sự mất cân bằng thương mại bằng cách cho phép điều chỉnh tỷ giá hối đoái để tăng sức mạnh của đồng yen so với đồng đô la. Những nỗ lực phối hợp nhằm thay đổi thực tiễn kinh tế của Nhật Bản này đã gây tranh cãi vào thời điểm đó, làm dấy lên những lời phàn nàn rằng Washington và những đối tác của họ quá mạnh tay. Nhưng cuối cùng, những biện pháp này không cản trở sự phát triển kinh tế của Nhật Bản. Trên thực tế, bằng cách giải quyết những lo ngại chính đáng về sự mất cân bằng thương mại, họ đã đặt nền tảng niềm tin vào toàn cầu hóa, điều sẽ mang lại lợi ích cho nhiều quốc gia – không ai bằng Trung Hoa – trong những năm tiếp theo.

Ngày nay, câu hỏi đặt ra là liệu Bắc Kinh có đồng ý sửa đổi chính sách như Nhật Bản đã làm hay không, ngăn chặn chiến dịch của những nước G-7 nhằm áp đặt những hạn chế mạnh mẽ hơn đối với khối lượng xuất cảng ngày càng tăng của Trung Hoa. Nhưng những chính sách thương mại sẽ chỉ là phương tiện tạm thời. Thặng dư cán cân thương mại của Trung Hoa sẽ tiếp tục cho đến khi nhu cầu trong nước tăng trưởng đáng kể hoặc tốc độ tăng trưởng đầu tư chậm lại đáng kể. Để giảm bớt vấn đề trong ngắn hạn, Bắc Kinh sẽ cần một biện pháp kích thích tài chính mạnh. Và để khắc phục vấn đề này về lâu dài, Trung Hoa phải chuyển nguồn lực từ nhà nước sang những gia đình dân chúng – trực tiếp bằng cách trả bằng tiền mặt hoặc cổ phần trong những doanh nghiệp nhà nước, hoặc gián tiếp bằng những thay đổi trong chính sách thuế hoặc trợ cấp nhà ở, hưu trí, chăm sóc y tế và những dịch vụ khác.

Nếu Trung Hoa đã tính đến những bước đi như vậy thì ý định của họ sẽ được thể hiện rõ ràng trong thông điệp chính sách được NPC đưa ra. Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy như vậy. Trên thực tế, những mục tiêu kinh tế của Bắc Kinh không chỉ cho thấy họ vẫn cam kết với mô hình phát triển dựa vào xuất cảng và đầu tư cũ mà còn có thể lạp kế hoạch mở rộng năng lực sản xuất của Trung Hoa để tăng thêm xuất cảng.

Những ngành mà Trung Hoa muốn bảo vệ chính là những ngành có nguy cơ làm suy yếu những đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài.

Hãy lưu ý rằng chính sách tài khóa mới của Bắc Kinh không gồm có hỗ trợ trực tiếp cho tiêu thụ hoặc thu nhập của gia đình công dân. Mục tiêu thâm hụt ngân sách chính thức của Trung Hoa là 3% GDP vào năm 2024 phần lớn phù hợp với mục tiêu năm 2023. Mục tiêu này có tính đến sự kết hợp hiện tại giữa chi tiêu chính phủ và phát hành trái phiếu, có nghĩa là Bắc Kinh sẽ không thực hiện những loại chính sách tài khóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước. Quan trọng nhất, Trung Hoa tiếp tục chuyển những nguồn tín dụng và tài chính vào đầu tư địa phương thay vì chuyển tiền trực tiếp đến những gia đình dân chúng để tăng chi tiêu. Trước đây, ông Tập đã chế giễu những khoản tiền tiêu như vậy là “chủ nghĩa phúc lợi”, nhưng Trung Hoa không thể mở rộng tiêu thụ của gia đình người dân một cách bền vững như một phần của nền kinh tế nếu chỉ dùng những biện pháp từ phía cung. Cuối cùng, những nguồn tài chính phải chuyển từ nhà nước sang khu vực gia đình dân và hiện tại không có dấu hiệu nào cho thấy việc chuyển giao đó đang diễn ra.

Chính sách kỹ nghệ này đặc biệt không được phần còn lại của thế giới hoan nghênh. Báo cáo công việc chính thức của chính phủ Trung Hoa đến năm 2024 xác định ngành kỹ nghệ xe điện, pin và pin mặt trời nằm trong số “những lực lượng sản xuất mới” sẽ thúc đẩy tăng trưởng năng suất chung của đất nước. Toàn bộ phần của báo cáo mô tả cách chính phủ “sẽ tích cực thúc đẩy những ngành kỹ nghệ mới nổi và những ngành định hướng tương lai” nhằm mục đích “củng cố và nâng cao vị thế dẫn đầu [của Trung Hoa]” ở một số ngành trong số đó. Nhưng những ngành mà Trung Hoa muốn bảo vệ chính là những ngành đang đe dọa làm suy yếu những đối thủ cạnh tranh ở những nền kinh tế phát triển và đang phát triển.

Mục tiêu doanh thu tài chính của Trung Hoa cũng hàm ý rằng nước này đang hướng tới tăng trưởng mạnh mẽ hơn nhờ xuất cảng. Những con số này gồm có nhiều loại thuế thu được cũng như những khoản giảm thuế xuất cảng. Mặc dù Bộ Tài chính dự đoán tổng doanh thu tài chính sẽ chỉ tăng 3,3% trong năm nay nhưng chi tiêu cho việc hoàn thuế xuất cảng sẽ tăng 9,9%. Trong khi đó, Bộ này dự kiến số thuế Trung Hoa thu từ hàng nhập cảng sẽ chỉ tăng 4,1%. Những dự báo này không nhất thiết cho thấy ý định rõ ràng nhằm thúc đẩy xuất cảng, nhưng ít nhất chúng cho thấy Bắc Kinh không dự đoán bất kỳ sự giảm thặng dư thương mại nào vào năm 2024.

Không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Hoa xét đến yêu cầu của những chính phủ phương Tây.

Chi tiêu quốc phòng cũng dự tính sẽ tăng nhanh hơn nhiều so với tổng chi tiêu hoặc doanh thu của chính phủ. Trung Hoa chỉ có kế hoạch tăng tổng chi tiêu ở mức 4,0% nhưng đã vạch ra kế hoạch mở rộng ngân sách quốc phòng ở mức 7,2%. Tín hiệu gửi cho thế giới là Bắc Kinh sẵn sàng đặt ưu tiên quân sự cao hơn là đầu tư vào phát triển gia đình bền vững hoặc vốn nhân lực.

Trước khi Trung Hoa công bố bất kỳ chính sách nào trong số này, giới chức chính phủ châu Âu đã có nhiều hoạt động phản bội để thúc giục Bắc Kinh xét đến mối đe dọa mà hàng xuất cảng của họ gây ra cho những ngành kỹ nghệ và việc làm ở châu Âu – cũng như nguy cơ làm hỏng môi trường chính trị châu Âu từ lâu vốn đã thuận lợi cho thương mại với Trung Hoa. Trong chuyến thăm Bắc Kinh vào đầu tháng 2, giới hữu trách của Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã đưa ra một thông điệp tương tự. Nhưng kế hoạch của NPC không cho thấy dấu hiệu nào cho thấy Trung Hoa sẽ xét đến những yêu cầu này từ những chính phủ phương Tây.

Cảm giácNhận xét chung là NPC không giúp được gì. Thông thường, khi kết thúc đại hội, Thủ tướng Trung Hoa sẽ tổ chức họp báo. Năm nay việc này đã bị hủy bỏ—không chỉ cho năm 2024 mà còn cho cả những năm sau nữa. Cuộc họp báo luôn là một công việc được dàn dựng, với những câu hỏi được đưa ra trước và những câu trả lời được chuẩn bị sẵn. Nhưng hủy bỏ sự kiện này, giới lãnh đạo Trung Hoa đang cho thấy rằng họ hiện coi việc hội tụ những thông lệ của những nền kinh tế phát triển là không quan trọng, hoặc ít nhất là không quan trọng bằng bất kỳ hoạt động chính trị hậu trường nào đằng sau việc hủy bỏ sự kiện này.

THÁCH ĐỐ

Bắc Kinh không chỉ tỏ ra không muốn giải quyết sự mất cân bằng kinh tế trong nước mà còn có thể thiếu năng lực để làm điều đó. Điều này đặc biệt đáng lo ngại. Trong nhiều chục năm, những chuyên gia kinh tế đã kêu gọi Trung Hoa chuyển sang tiêu thụ nội địa bằng cách giải quyết những hạn chế trong chi tiêu cá nhân, trong đó gồm cả thu nhập gia đình không đủ. Để vừa tái cân bằng nền kinh tế trong nước vừa giảm thặng dư thương mại của đất nước, Bắc Kinh phải khuyến khích tiêu thụ bên cạnh việc giảm tốc độ đầu tư vào tài sản và cơ sở hạ tầng.

Nhưng Trung Hoa hiện đang ở vị trí kém để thực hiện một sự thay đổi như vậy. Nhà nước chỉ thu được khoảng 14% GDP từ tiền thuế (con số này tăng 4-6 điểm phần trăm nếu tính cả những khoản thu khác, chẳng hạn như đóng góp bảo hiểm xã hội), thấp hơn nhiều so với mức trung bình của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế là 34%. Quan trọng hơn, phần lớn nguồn thu đó đến từ thuế trị giá gia tăng đối với sản xuất và những loại thuế khác đối với doanh nghiệp, chứ không phải từ thuế đánh vào lợi tức cá nhân và tiêu thụ nội địa. Do đó, theo hệ thống thuế hiện tại, việc chuyển đổi sang nền kinh tế dựa vào tiêu thụ sẽ dẫn đến sự sụt giảm đáng kể nguồn thu từ thuế, làm suy giảm khả năng thực thi chính sách của Bắc Kinh.

Nhu cầu cải cách thuế là điều đã rõ; Chính Tập cũng đã thừa nhận vấn đề này trong chương trình nghị sự chính sách đã công bố vào năm 2013. Việc không có cải cách thuế khoá như thế là bằng chứng thêm cho thấy Bắc Kinh đang cố chấp giữ mô hình tăng trưởng lỗi thời của mình. Hàng năm, như mọi nước, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đều tham khảo ý kiến của những giới chức chính phủ Trung Hoa về chính sách kinh tế, đưa ra đề nghị và sau đó thông báo quan điểm của Bắc Kinh về những thay đổi đã đề nghị. Trong những năm trước, giới chức chính phủ Trung Hoa đã thống nhất IMF về sự cần thiết phải cải cách tài chính. Nhưng năm nay, Bắc Kinh nói với IMF rằng một hệ thống thuế phù hợp “về căn bản đã được thiết lập” và những mục tiêu của Bắc Kinh sẽ tập trung vào phát triển phẩm chất cao “thay vì trực tiếp tăng doanh thu tài chính”. Trung Hoa không chỉ bác bỏ những đổi mới cụ thể nhằm tạo điều kiện cho mối quan hệ thương mại bền vững hơn với thế giới mà còn bác bỏ nhu cầu thực hiện bất kỳ đổi mới nào.

Sự mất cân bằng cán cân thương mại của Trung Hoa không bền vững đối với thế giới.

Trung Hoa cũng phải đối phó với những hạn chế trong việc cập nhật những chính sách kỹ nghệ của mình. Ngay cả khi Bắc Kinh nhượng bộ trước áp lực của nước ngoài và nỗ lực phối hợp nhằm hạn chế đầu tư vào xe điện, pin, pin mặt trời và những ngành kỹ nghệ khác, thì những công ty và cơ sở sản xuất được hưởng lợi từ những khoản trợ cấp trước đó của chính phủ sẽ không biến mất. Hơn nữa, một chiến dịch của chính quyền trung ương khó có thể thay đổi những quyết định cho vay trên thực tế, vì giới chức chính phủ địa phương phải đối mặt với nhiệm vụ duy trì mức độ việc làm và đảm bảo ổn định tài chính.

Trung Hoa sẽ khó có thể nhanh chóng giảm thặng dư thương mại ngày càng tăng và không ai kỳ vọng lãnh đạo nước này sẽ đưa ra giải pháp chỉ sau một đêm. Nhưng điều đáng báo động là Bắc Kinh dường như không có nỗ lực đáng kể nào để điều chỉnh sự mất cân bằng này. Bằng cách cho phép giữ nguyên những chính sách như cũ, Trung Hoa đang tự đặt mình vào thế đối đầu với cả những nền kinh tế phát triển và đang phát triển.

Bắc Kinh nên thừa nhận những lý do chính đáng của nước ngoài trong việc đưa ra những chính sách thương mại bảo hộ, ít nhất là cho đến khi Trung Hoa đạt được đổi mới cơ cấu trong nước. Thay vào đó, giới chức chính phủ Trung Hoa đã mô tả những biện pháp thương mại của Mỹ là “đạt đến mức độ vô lý đến khó hiểu”. Nếu Bắc Kinh không thể thừa nhận những tác hại kinh tế thực sự mà những chính sách này muốn tránh, thì sẽ không có điểm khởi đầu cho một cuộc thảo luận với những nhà lãnh đạo của những nền kinh tế tiên tiến. Những nước G-7 cuối cùng sẽ tự mình xây dựng những giải pháp thay vì hợp tác với Trung Hoa.

Giới chức chính phủ Trung Hoa thường nói rằng Bắc Kinh không cố tình gây ra thặng dư thương mại. Dù cố ý hay không, sự mất cân bằng thương mại của Trung Hoa không bền vững đối với thế giới nếu những chính phủ nước ngoài bắt đầu phản ứng mạnh mẽ hơn. Bắc Kinh là có thể từ chối những biện pháp tương tự như những biện pháp mà Hoa Kỳ và những đối tác đã áp dụng vào những năm 1980 để giải quyết sự mất cân bằng thương mại của Nhật Bản, chẳng hạn như một thỏa thuận tỷ giá hối đoái giống như Hiệp định Plaza hoặc Hiệp định Louvre. Tăng thuế đối với hàng nhập cảng của Trung Hoa, một chính sách khác mà những chính phủ nước ngoài áp dụng, có thể chỉ mang lại sự trợ giúp tạm thời; Khi chính quyền Trump áp đặt những khoản thuế nhập cảng như vậy, nhiều nhà cung cấp Trung Hoa đã có thể lách những quy định này bằng cách chuyển hàng hóa qua những nước thứ ba (như Việt Nam) trước khi chúng đến điểm đến cuối cùng là Hoa Kỳ. Với ít lựa chọn chính sách hiệu quả và một nhà đàm phán không thiện chí ở Bắc Kinh, những chính phủ phương Tây nói riêng sẽ xem xét những hạn chế ngày càng hà khắc đối với thương mại của Trung Hoa. Cú sốc đó có thể là điều cần thiết để Trung Hoa thực hiện đổi mới cơ cấu một cách nghiêm túc, vì lợi ích nền kinh tế của nước này và với hy vọng tránh được sự chia rẽ không thể khắc phục được trong thương mại toàn cầu.

© 2024 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net

________________________

Nguồn: China’s Economic Collision Course | Daniel H. Rosen and Logan Wright | Foreign Affairs | March 27, 2024. Lưu ý của biên tập viên: Bài tiểu luận này đã được cập nhật để làm rõ khối lượng doanh thu từ thuế, được biểu thị bằng phần trăm GDP, mà Trung Hoa đã thu.