Tổng kết 20 năm Văn học miền Bắc (p1)

Huỳnh Ái Tông

bant5Với dân số miền Bắc vào năm 1956 là khoảng 20 triệu người, có khoảng 4 triệu gia đình nông dân. Nếu chỉ có 2% gia đình nông dân bị liệt vào giai cấp cường hào địa chủ, thì số người bị giết ít nhất là 80,000 người. (Hình bên: Bà Nguyễn Thị Năm, người phụ nữ đầu tiên bị đấu tố/bắn trong chiến dịch CCRĐ của đảng Lao Động Việt Nam.)

DCVOnline | Tác giả Huỳnh Ái Tông sinh năm 1941 tại làng Bình Thủy (trên Cù lao Năng Gù), tổng Định Thành, quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Ông định cư tại Mỹ 1991 và nghỉ hưu từ 2009.

Thời gian ở Việt Nam tác giả là một giáo chức dạy học ở trường trung học Kỹ thuật Ban Mê Thuộc và là Hiệu trưởng trường Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, Sài Gòn. Và ông còn là một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Huỳnh Ái Tông là một tác giả chuyên về biên khảo văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông gồm có

– “Văn Học Miền Nam (1954-1975)”, 7 tập;
– “Văn Học Miền Bắc (1954-1975)”, 5 tập;
– “Văn Học Việt Nam Cận và Hiện Đại”, 7 tập;
– Báo Chí Và Nhà Văn Quốc Ngữ Thời Sơ Khai;
– Văn Học Miền Nam 1623-1954;
– Truyện Cuả Tôi;
– Thà Chết Vinh Hơn Sống Nhục

DCVOnline giới thiệu đến bạn đọc tác giả Huỳnh Ái Tông qua Chương 3 (chương sau cùng) của tác phẩm “Văn Học Miền Bắc (1954-1975)” ở tập V của ông.

Nguồn: Huỳnh Ái Tông
Nguồn: Huỳnh Ái Tông

Chương thứ ba: Tổng kết 20 năm Văn học miền Bắc

Nhìn lại 20 năm Văn Học miền Bắc từ 1954 cho đến 1975, người ta thấy có những đặc điểm nổi trội sau đây:

1) Cuộc cách mạng dân chủ của các nhà văn, triết gia, giáo sư , sinh viên năm 1956

Sau khi tiếp thu phân nửa đất nước Việt Nam, trên miền Bắc, Đảng và nhà nước [CSVN] còn đang sửa sai về chánh sách ruộng đất, tổ chức hành chánh từ địa phương cho đến trung ương, chưa quan tâm đúng mức về vấn đề truyền thông đại chúng, cho nên vẫn còn những tờ báo, những nhà in, những cơ sở phát hành của tư nhân và dĩ nhiên có một số văn nghệ sĩ có hoạt động cách mạng nhưng không phải là đảng viên, họ vẫn sáng tác theo cảm hứng và đường lối riêng của họ.

Từ việc phê bình tập thơ Việt Bắc của nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu của Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm … Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa dẫn đến việc xuất bản Giai Phẩm mùa xuân vào tháng Giêng năm 1956, tháng 2 tạp chí này bị tịch thu.

Tình hình bên Trung Quốc vào thời điểm này cũng chẳng ổn định chút nào. Vào tháng 5-1956, trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Ðảng Cộng sản Trung Quốc là Lục Ðịnh Nhất đã phát động chiến dịch “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” (Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng), nhờ thế nên tạp chí Nhân Văn ra đời, nối tiếp Giai Phẩm.

Ngày 20-9-1956, Nhân văn số 1 ra đời, tiếp theo là Giai phẩm tái bản, các tạp chí Trăm Hoa bộ mới, Sáng Tạo, Đất Mới, Tự Do Diễn Đàn do các nhà văn khởi xướng, được các trí thức hàng đầu Việt Nam như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường,… các sinh viên như Bùi Quang Đoài, Hà Thúc Chỉ,… tiếp tay phê bình lãnh đạo, đòi hỏi được tự do sáng tác, đó là cuộc cách mạng ở đất Bắc trên phạm vi văn học, tư tưởng. Thường nhắc đến sự kiện này, người ta gọi là vụ án Nhân văn Giai Phẩm, hay là tư trào Nhân văn – Giai Phẩm.

2) Có tác động do sự kiện trên thế giới và Việt Nam trong năm 1956

FITCHBURG SENTINEL, Fitchburg, Massachusetts, March 4, 1953 - Tin Stalin chết.
FITCHBURG SENTINEL, Fitchburg, Massachusetts, March 4, 1953 – Tin Stalin chết.

Trong khi đó có nhiều biến cố đã xảy ra trên thế giới, nhất là ở các nước Cộng sản Đông Âu. Biến cố đáng kể nhất là sau khi Joseph Stalin (1879-1953) mất ngày 5-3-1953, để cũng cố uy tín cho Đảng Cộng sản Liên Xô, sau khi lên cầm quyền Nikita Sergeyevich Khrushchev (1894-1971) vạch trần những tội ác của Stalin trong đại hội Ðảng lần thứ 20 của Ðảng Cộng sản Liên Xô vào tháng 2 năm 1956, sau gần 40 năm xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản tại nước này.

Cuối tháng 6 năm 1956, tại Ba Lan đã bùng nổ cuộc đình công của công nhân. Lực lượng an ninh đã thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh của công nhân, khiến 53 người thiệt mạng. Bên cạnh một số yêu cầu về kinh tế là sự xuất hiện của những yêu sách mang màu sắc chính trị như, rút các lực lượng quân đội Xô Viết, thậm chí từ bỏ cả việc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Ngay lập tức, cuộc đấu tranh lan rộng ra khắp đất nước Ba Lan, thu hút được sự quan tâm chú ý của dư luận xã hội. Điều đáng nói là, trong nội bộ Đảng Cộng sản Ba Lan xuất hiện một khuynh hướng cải cách, chính lực lượng này đã thành công trong việc đưa trở lại ban lãnh đạo đảng một số nhà lãnh đạo chủ chốt từng bị loại ra khỏi bộ máy vào đầu thập niên 50 của thế kỷ XX do bị buộc tội theo chủ nghĩa Titô (Wladislaw Gomulka, Spychalski, Kliszko).

1964-Press-Photo-Nikita-Khrushehev-Wladyslaw-Gomulka. Nguồn:  Historic Images
1964-Press-Photo-Nikita-Khrushehev-Wladyslaw-Gomulka. Nguồn: Historic Images

Từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 10 năm 1956, tại Đại hội VIII của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Ba Lan, Wladyslaw Gomulka đã được bầu làm Bí thư thứ Nhất Ban chấp hành Trung ương. Đại hội diễn ra trong bầu không khí căng thẳng. Đoàn đại biểu Liên Xô do Khrushchev dẫn đầu đã sang Ba Lan nhằm kiểm soát tình hình, trong khi đó các đơn vị quân đội Liên Xô chuyển quân theo hướng tiến về thủ đô Warszawa.

Trước diễn biến của đời sống chính trị Ba Lan, Khrushchev không hề có ý định để cho mọi việc thoát ra khỏi tầm kiểm soát của Liên Xô. Với sự hộ tống của Molotov, Mikoian và Kaganovic, Khrushchev đã đến Warszawa ngày 19 tháng 10 năm 1956, quyết định sử dụng các biện pháp mạnh. Tuy nhiên, khi đến Ba Lan, người đứng đầu Liên Xô tạm thời phải chấp nhận việc đã rồi, công nhận Wladyslaw Gomulka làm Bí thư thứ Nhất của Đảng Cộng sản Ba Lan. Còn về phía lực lượng cải cách Ba Lan, những mục tiêu cơ bản mà họ đề ra cũng không đạt được, sự tự do tranh luận về tư tưởng trên các tờ báo cũng chấm dứt một thời gian ngắn sau đó. Sự thành công ít ỏi của Ba Lan có thể kể đến chính là sự độc lập lớn hơn về kinh tế. Có ý kiến cho rằng, không có bên nào giành được thắng lợi qua những gì diễn ra ở Ba Lan vào tháng Mười năm 1956. Việc Wladislaw Gomulka duy trì sự kiểm soát tình hình bằng mọi giá đã giúp cho ông và những người đồng chí của ông thành công trong việc ngăn chặn một cuộc can thiệp quân sự của Liên Xô, điều đã xảy ra ở Hungary một thời gian ngắn sau đó.

Tại Hungary, cuộc nổi dậy bắt đầu là cuộc biểu tình của sinh viên thu hút hàng nghìn người tham gia khi nó kéo qua trung tâm Budapest tới toà nhà Nghị viện. Một phái đoàn sinh viên vào trong đài phát thanh trong nỗ lực nhằm phát đi những yêu cầu của mình và đã bị cầm giữ. Khi đám đông bên ngoài yêu cầu phóng thích phái đoàn, họ bị lực lượng Cảnh sát an ninh nhà nước bắn từ trong toà nhà. Tin tức truyền đi nhanh chóng dẫn đến tình trạng bất tuân và bạo lực bùng phát trên khắp thủ đô.

Cuộc nổi dậy nhanh chóng lan ra khắp Hungary, và chính phủ sụp đổ. Hàng nghìn người tự tổ chức thành các nhóm dân quân, chiến đấu với Cảnh sát an ninh nhà nước và binh lính Liên Xô. Những người cộng sản ủng hộ Liên Xô và các thành viên Cảnh sát an ninh nhà nước thường bị hành quyết hay bỏ tù, trong khi những cựu tù nhân được thả ra và được trang bị vũ khí. Những hội đồng lâm thời giành lấy quyền kiểm soát từ Đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa

Hungary cầm quyền và yêu cầu thay đổi chính trị. Chính phủ mới chính thức giải tán Cảnh sát an ninh nhà nước, tuyên bố ý định rút lui khỏi Khối hiệp ước Warsaw, và cam kết tái lập bầu cử tự do. Tới cuối tháng 10, giao tranh hầu như chấm dứt và cảm giác an bình đã bắt đầu ló dạng.

Lãnh đạo Hungary Imre Nagy - trong thời gian cải cách từ 24 tháng mười - 1 Tháng 11, 1956 người dân Hungary đã trở thành ngày càng quyết liệt. Nguồn:  thevieweast.wordpress.com
Lãnh đạo Hungary Imre Nagy – trong thời gian cải cách từ 24 tháng mười – 1 Tháng 11, 1956 người dân Hungary đã trở thành ngày càng quyết liệt. Nguồn: thevieweast.wordpress.com

Sau khi thông báo ý muốn đàm phán việc rút quân đội Liên Xô, Bộ chính trị Liên Xô thay đổi ý định và chuyển sang trấn áp cuộc nổi dậy. Ngày 4 tháng 11, một lực lượng Liên Xô lớn xâm chiếm Budapest và các vùng đất Hungary khác. Những người Hungary tiếp tục chiến đấu chống lại quân đội Liên Xô và các quốc gia khối Warszawa cho tới ngày 10 tháng 11. Hơn 2.500 người Hungary và 700 binh lính Liên Xô thiệt mạng trong cuộc xung đột, 200,000 người Hungary bỏ chạy trở thành người tị nạn. Những cuộc bắt giữ và tố giác ở quy mô lớn diễn ra trong nhiều tháng sau đó. Tới tháng  năm 1957, chính phủ mới do Liên Xô lập ra đã dập tắt cuộc nổi dậy, cuộc nổi dậy Hungary kết thúc. Cựu Thủ tướng Imre Nagy bị bắt giữ và đem về Liên bang Xô Viết. Ngày 17 tháng 6 năm 1958, ông cùng những người nổi dậy bị Tóa án Tối cao Hungary tuyên án tử hình.

Tại Ai Cập khủng hoảng kênh đào Suez đã nổ ra vào tháng 7 năm 1956 khi Nasser bị Mỹ và Anh từ chối trợ giúp kinh tế, ông đã trả đũa bằng việc quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez. Nasser đã chiếm giữ công ty do Anh và Pháp sở hữu để chứng tỏ sự độc lập đối với các cường quốc thực dân châu Âu, trả thù việc Mỹ-Anh từ chối viện trợ kinh tế và tịch thu lợi nhuận mà công ty này kiếm được ở Ai Cập. Hành động này đã gây ra một cuộc khủng hoảng kéo dài bốn tháng trong đó Anh và Pháp dần dần tập trung lực lượng quân sự trong khu vực và cảnh báo Nasser họ đã sẵn sàng sử dụng vũ lực để thu hồi quyền sở hữu đối với công ty kênh đào trừ phi ông ta bớt độc đoán. Các quan chức Anh, Pháp ngầm hy vọng rằng, dù có hay không hành động quân sự từ phía họ, thì cuối cùng áp lực cũng sẽ buộc Nasser phải từ bỏ quyền lực.

Chiến tranh đã nổ ra ngày 29-10-1956 khi Israel tấn công trực diện với các lực lượng của Ai Cập ở Sinai. Chỉ trong vài ngày lực lượng Israel đã tiến gần đến Kênh đào Suez.

Anh và Pháp đã cho lính dù đổ bộ xuống Kênh đào Suez ngày 5-11-1956

Báo Evening Stadard, Nov. 5, 1956
Báo Evening Standard, Nov. 9, 1956

Việc đổ bộ của quân Anh và Pháp đã đẩy cuộc khủng hoảng vào giai đoạn nguy hiểm nhất. Liên Xô, trong âm mưu nhằm hướng dư luận khỏi sự đàn áp dã man của nước này đối với phong trào cách mạng ở Hungary, đe dọa sẽ can thiệp vào chiến sự và thậm chí có thể trả đũa bằng việc tấn công Luân Đôn và Paris bằng vũ khí nguyên tử. Nguồn tin tình báo cho biết quân Liên Xô tập trung ở Si- ri chuẩn bị can thiệp vào Ai Cập đã cảnh báo các quan chức Mỹ, những người nhận thấy rằng tình hình bạo động ở Hungary khiến cho các nhà lãnh đạo Liên Xô dễ có hành động bất ngờ.

Trước nguy cơ xung đột toàn cầu bất ngờ, Tổng Thống Mỹ Eisenhower nhanh chóng hành động để cứu vãn xung đột đó. Ông đã gây áp lực chính trị và tài chính lên các bên tham chiến, buộc họ phải chấp nhận thỏa thuận ngừng bắn của Liên Hợp Quốc ngày 6-11-1956, có hiệu lực ngay ngày hôm sau, và ủng hộ nỗ lực của các quan chức Liên Hợp Quốc khẩn trương triển khai Lực Lượng Khẩn cấp tới Ai Cập. Căng thẳng giảm bớt dần. Các lực lượng của Anh và Pháp rời khỏi Ai Cập vào tháng 12 và sau các cuộc đàm phán phức tạp, các lực lượng Israel rút khỏi Sinai tháng 3 năm 1957.

Theo tài liệu của J.B. Nguyễn Văn Định sưu tập, đăng trên trang Mạng Nữ Vương Công Lý về cuộc nổi dậy của đồng bào Quỳnh Lưu Nghệ An như sau:

“Tại Việt Nam lãnh đạo Cộng Sản đã bắt đầu cuộc cải tạo nông nghiệp tại miền Bắc khi thực dân Pháp vẫn còn xâm chiếm nước ta. Hồ Chí Minh đã ký 2 sắc luật Giảm Tô tức giảm số thóc gạo mà

nông dân phải trả cho người chủ đất số 78/SL ngày 14-7-1949, và Sắc Luật 42/SL ngày 1-7-1951 về chính sách nông nghiệp của chính quyền kháng chiến, nằm trong toàn bộ chính sách thuế khóa, gồm cả thuế công thương nghiệp, sát sinh, lâm thổ sản, xuất nhập cảng… Chính sách thuế nông nghiệp đã khởi đầu cho các chiến dịch phân mảnh định hạng các loại ruộng, bình sản lượng, bình diện tích mỗi mảnh đất để làm căn bản tính thuế, sau đó tiến hành chiến dịch chống phản động, đấu tranh giảm tô kéo dài đến năm 1954, và chỉ tạm ngưng khi chiến trường Ðiện Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và sau đó đưa đến Hiệp Ðịnh Geneve ký vào tháng 7 năm 1954.”

Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, 1957. Nguồn: OntheNet
Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, 1956. Nguồn: OntheNet

Kế đến, lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam lại tạm ngưng chiến dịch cải cách ruộng đất tới cuối năm 1956, vì (1) Cộng sản Việt Nam bận lo đón tiếp hơn 50,000 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc, (2) Phải đối phó với phong trào di cư và cuộc biểu tình đòi di cư của người dân vùng Ba Làng (Thanh Hóa), (3) Phải che dấu phần nào thủ đoạn tàn bạo để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên quốc tế của Ủy ban Kiểm soát Ðình Chiến và ổn định tình hình nội bộ.

Giai đoạn thứ hai của cải cách ruộng đất bắt đầu từ cuối năm 1955, lãnh đạo Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát động phong trào quần chúng qua nhiều đợt đấu tranh cải cách ruộng đất.

Trong giai đoạn này, hình thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu tranh giảm tô, nhưng khác ở mức độ tàn bào cao hơn gấp bội và số nạn nhân cũng gia tăng do sự càn đi, quét lại và kích tỷ lệ. Ở một số nơi, như các vùng vừa tiếp thu và đồng bằng bên bờ sông Nhị Hà chẳng hạn, Cộng sản Việt Nam tiến hành song song 2 chiến dịch đấu tranh giảm tô và cải cách ruộng đất một lượt. Ðiều cần nhấn mạnh là Cộng Sản Việt Nam đã bắt chước y hệt chính sách cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, nên đã cho các cán bộ học tập kinh nghiệm nguyên văn cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu ở Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch Ðông.

Ở Trung Quốc, ngoài ruộng đồng bao la bát ngát, một địa chủ điển hình còn có lâu đài, dinh cơ và quân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp, cũng như để đàn áp và bóc lột nông dân. Trong khi ở miền Bắc VN, cái mà Cộng Sản Việt Nam gọi là địa chủ đại gian đại ác thường chỉ có mấy mẫu ruộng, nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn (thường giúp đỡ người nghèo) và có thể trở thành đối tượng chống đối đảng và nhà nước.

Trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam đã trao cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất cho Trường Chinh lãnh đạo và Hồ Viết Thắng, Ủy viên Trung ương đảng phụ trách điều hành. Dưới Trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất cho mỗi tỉnh và dưới cấp đoàn có các đội cải cách ruộng đất cho từng xã. Các đoàn và đội đều nhận lệnh trực tiếp từ trung ương mà không cần qua Ủy ban hành chánh địa phương. Thành phần trong các đoàn, đội đều được tuyển lựa là thành phần cốt cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã chiến đấu trong quân đội.

Càng về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là những người trẻ tuổi, cuồng tín, được bồi dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp, căm thù thật sự. Vì thế, trong năm 1956, riêng đợt cải cách ruộng đất Ðiện Biên Phủ đã đưa số nạn nhân bị tàn sát lên đến 10.000 người.

Ðội cải cách ruộng đất đã trở thành công cụ giết người ghê rợn của chế độ. Sự tàn sát lên cao vì chính sách kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của Cộng Sản Việt Nam. Thí dụ: cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ hay không, có hay không có, đội cải cách ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%), nếu hơn thì càng tốt. Trong 5 gia đình này phải quy cho được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai cấp, công tác kém cỏi. Nghe một đoạn thơ tuyên truyền của thi nô Tố Hữu, ta sẽ thấy sự dã man ra sao:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.”

Mục tiêu cuộc cải cách ruộng đất còn là cơ hội để đảng Cộng Sản Việt Nam mở cuộc thanh trừng quy mô những đảng viên trong nội bộ hoặc trong hàng ngũ kháng chiến cần bị đào thải vì không thuộc thành phần vô sản, những người có thể trở thành nguy hiểm cho đảng vì đã trau dồi những kinh nghiệm đấu tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy tín, nắm vững tình hình đảng, quy tụ được thế lực mạnh, và có thể phản đảng.

Chính Cộng Sản Việt Nam đã thú nhận khi có chính sách sửa sai, trong cuộc thanh trừng này có đến 23.000 đảng viên trung kiên bị chết oan, còn hàng ngàn đảng viên không trung kiên bị chết một cách đích đáng thì chưa thấy tài liệu nào của đảng công bố cả. Rất nhiều cán bộ cao cấp có công với kháng chiến cũng bị kết tội cường hào ác bá, hoặc tham gia trong các tổ chức phản động như VN Quốc Dân Ðảng chẳng hạn. Theo hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền Bắc, trước kia đã từng tham gia nhiều vụ cải cách ruộng đất, cho biết một cuộc đấu tố chụp mũ như sau:

“…Cuộc đấu tố điển hình nhất mà tôi được dự là lần đấu tố ông Nguyễn Văn Ðô, Bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nộị… Nạn nhân Nguyễn Văn Ðô là Bí thư huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng lại bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân Ðảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông lợi dụng chức vụ của Ðảng để hoạt dộng cho Quốc Dân Ðảng. Người đứng kể tội là một nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Ðô một cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương và cô con cái của ông lên đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả 177 lần. Ðến khi ông Ðô được phép lên phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi trả lời: “Ông không phải là Quốc Dân Ðảng, ông chỉ làm việc cho Bác, cho

kháng chiến mà thôi”. Ông trả lời cô con gái là: “Thưa bà, bà còn quên đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà nữa” Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu “Ðả đảo tên Ðô ngoan cố” để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g trưa mới xong.”

Rất nhiều người thuộc thành phần trung nông (trung nông cấp thấp: vài sào (acre) đất, trung nông cấp cao: 1-3 sào và một con trâu), tiểu thương cũng bị kích lên thành địa chủ (địa chủ thường: 3-5 sào hay có khi hơn một chút, không giàu, cho mướn ruộng lấy địa tô, không có tội với nhân dân; địa chủ cường hào ác bá: 3-5 sào, có tội với nhân dân; địa chủ phản động: đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt, v.v…)

Với dân số miền Bắc vào năm 1956 là khoảng 20 triệu người, có khoảng 4 triệu gia đình nông dân. Nếu chỉ có 2% gia đình nông dân bị liệt vào giai cấp cường hào địa chủ, thì số người bị giết ít nhất là 80,000 người. Chưa kể số người chết tăng lên qua chính sách kích tỷ lệ theo đúng chỉ tiêu do đảng CSVN đề ra. Sự oán hận của người dân ngày càng dâng cao ở khắp nơi.

Nhiều vụ phục kích giết cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa bần cố nông và thân nhân của người bị đấu tố đã xảy ra thường xuyên. Ngay lúc đó, nhiều biến cố chính trị đã xảy ra tại các nước CS, như Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan, Hung Gia Lợi, Liên Xô yêu cầu Hồ Chí Minh thực hiện việc xét lại Hồ Chí Minh chuẩn bị kế hoạch ngừng chiến dịch đấu tố vào tháng 3 năm 1956, nhưng chính thức ra lịnh đình chỉ mọi vụ hành quyết địa chủ vào tháng 10 năm
1956.

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa: Hồ Chí Minh khóc vì những sai lầm của Cải Cách Ruộng Đất. Nguồn: OntheNet
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa: Hồ Chí Minh khóc vì những sai lầm của Cải Cách Ruộng Đất. Nguồn: OntheNet

Trong Hội nghị thứ 10 Trung ương đảng, Võ Nguyên Giáp đã thay mặt đảng đọc một bản thú nhận sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh khóc lóc và đổ cho cấp dưới thi hành chính sách quá đà, cách chức Thứ trưởng phụ trách cải cách ruộng đất của Hồ Viết Thắng để xoa dịu lòng dân. Ðảng CSVN cũng thả 12.000 đảng viên còn sống sót trong tù vì bị kết tội địa chủ, trong số này nhiều người bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành. Tuy nhiên oán thù của người dân không vì thế mà nguôi ngoai. Nhiều vụ nổi dậy, bạo động lớn nhỏ đã xảy ra sau đó, như Quỳnh Lưu (Nghệ An), Hải Phòng, Lạng Sơn… Trong thời gian này cũng có những vụ bạo động khác như những vụ thanh niên và công nhân Nam Bộ tập kết đập phá bót cảnh sát ở bờ hồ Hà Nội (cạnh ga tàu điện, đầu phố Cầu Gỗ).

Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đảng Cộng Sản Việt Nam về những đợt cải cách ruộng đất đẫm máu, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đảng viên Cộng Sản trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đảng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của đảng bị sụp đổ, cán bộ hoang mang, lo sợ tột độ. Ở nông thôn, các đảng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau.

Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đảng tố điêu nay bị sợ rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuệá Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức, dùng báo chí lên tiếng chống đảng, thì cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu đã làm đảng Cộng Sản Việt Nam rất lo sợ. Toàn thể nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở một đại hội để tố cáo những chính sách cai trị tàn ác của chế độ. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả cán bộ Việt Cộng thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân.

Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau:

“- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm.
– Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêụ
– Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của
Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công.
– Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.”

Cán bộ Việt Cộng rất căm tức những lời kết án của dân chúng, lúc đầu họ nhất định không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi: Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm soát Ðình Chiến, Hồ Chí Minh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía Cộng Sản Việt Nam đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm soát Ðình Chiến.

Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của Cộng Sản Việt Nam để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Geneva.

Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9-11-1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số một chờ đợịá Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thựá Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chận xe lại 6 thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ

trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần.

Sau đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10,000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảỵ Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, Cộng sản Việt Nam đã điều động 2 đại đội chủ lực và một đại đội công an võ trang huyện Diên Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.

Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữạ Ðêm hôm dó, Cộng sản đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở một trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội.

Tờ mờ sáng này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của Cộng sản, trở thành một vòng bao vây thứ tự. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghê An là quê quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. Cộng sản cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời: Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là một nhà tu hành. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có một số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ một cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên Cộng sản.

(Còn tiếp)

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Huỳnh Ái Tông, “Văn Học Miền Bắc (1954-1975)”, Tập V, trang 709-732. DCVOnline minh hoạ.

1 Comment on “Tổng kết 20 năm Văn học miền Bắc (p1)

  1. NHÌN LẠI CHIỀU SÂU CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TẠI MIỀN BẮC 1956

    Cho tới nay 70 năm đã qua rồi nhưng không phải ai cũng nhìn thấy ra hết được chiều sâu cuộc Cải cách ruộng đất tại Miền Bắc năm 1956, nhất là thế hệ đương đại những con người đang còn lại hôm nay, đặc biệt giới trẻ không hề biết gì về các sự kiện lịch sử và chiến tranh tàn khốc và đau xót kinh hoàng vào những năm tháng đó.

    Phải nói ngay sự kiện Cải cách ruộng đất năm 1956 đó là một tội ác tày trời không tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam và cả trên thế giới. Nó cho thấy ra được sự tàn ác không bờ bến của con người với con người, của xã hội loài người với xã hội loài người. Đây là một sự kiện, một hiện tượng cực kỳ dã man, tàn ác, cực kỳ phi nhân văn, phi nhân phẩm, phi văn hóa, phi nhân loại ngay vào chính lúc đó. Nhưng sự kiện kiểu đó không phải chỉ xảy ra tại miền Bắc Việt Nam khi ấy, nó còn xảy ra trước đó ở Hồ Nam, Trung Quốc, quê hương của Mao Trạch Đông, ở nhiều nơi tại Liên Xô cũ khi ấy, cùng nhiều nơi khác ở các nước cộng sản Đông Âu lúc ấy. Nghĩa là một hiện tượng lịch sử phổ biến, đại trà, mà tại Việt Nam chẳng qua cũng chỉ là một trong chuỗi hệ thống đó, và xảy ra muộn hơn nhất của chuỗi hệ thống đó.

    Nét nổi bật nhất của hiện tượng đó là sự quy chụp không cần xem xét, sự hạ nhục, sự đày đọa và sự tàn sát con người hết sức dã man, tàn ác mà không cần có tòa án đàng hoàng hay đúng nghĩa xét xử. Nó chỉ dựa vào sự tuyên truyền bịa đặt, gian dối, sự ép buộc, cưỡng chế của đám cán bộ thi hành tại địa phương mà không ai có thể phản kháng hay thoát ra được nếu bị bọn họ quy chụp. Tất nhiên đây là kiểu thời cơ lợi dụng để phục thù cá nhân trong tính cách nào đó, sự say máu do tuyên truyền chính trị gian giảo, sự mù quáng do tính thất học và vô giáo dục, sự nổi lên của nhiều phần tử ác ôn trong thôn xóm, sự tâng công để kiếm lợi lộc địa vị riêng của những phần tử cán bộ nhất định, hay chỉ đơn thuần là việc phải làm không chống lại được do từ lệnh trên ban xuống.

    Kết quả là sự thù hận trong nhân gian trở thành ngun ngút, sự oan khiên thấu trời thấu đất, sự đau khổ ngút ngàn mà hầu hết nông thôn phải chịu, không còn nhân tình, không còn đạo đức, không còn nhân văn trong xã hội, trong con người mà chỉ hoàn toàn ngược lại. Tức nó đã đưa xã hội xuống tận cùng đáy sâu của sự hoang dã, kéo con người xuống tận cùng đáy sâu của sự phi luân, sự phi nhân cách, thậm chí tàn ác dã man còn hơn súc vât. Đó chính là hành vi gọi là tố khổ, có nghĩa là sự huy động, sự cưỡng chế, sự tác động của cán bộ thi hành lên người dân nghèo khổ, những thành phần tận cùng đáy sâu của xã hội để dựng chuyện, phịa đặt những điều vu oan, những điều tầm vơ nhất có thể tưởng tượng ra được để nhằm tố oan, làm nhục, sỉ nhục ngang trái, không nguyên do, không đúng sự thật đối với một số những đối tượng người giàu có chút đỉnh, gọi là hạng địa chủ phú nông hay thật ra chỉ là những nông dân khá giả hay có máu mặt chút đỉnh trong làng quê, nhằm để đày đọa họ nhằm có lý do chôn sống họ, giết họ theo các cách dã man, tác ác nhất, mục đích chỉ là để thỏa mãn bản năng hận thù nào đó hay chỉ để nhằm thực hiện chính sách từ trên chủ trương sao cho trọn vẹn, cho thành công nhất.

    Nhưng chính sách ấy thật sự là gì ? Đó hoàn toàn không phải do yêu cầu hay sáng kiến riêng nào cả của chính người Việt Nam khi ấy. Nó nguyên là chính sách đã được phát động do Mao Trạch Đông tại quê hương Hồ Nam, Trung Hoa của mình truyền sang, kể cả chỉ thị do Stalin ban hành mà chắc chắn trong tàng trữ mật của Việt Nam ngày nay vẫn còn lưu giữ. Như vậy rõ ràng đây là sự thi hành mệnh lệnh từ ngước ngoài, hay nếu đơn giản cũng chỉ là sự bắt chước mù quáng để tân công, để leo lên địa vị trong khối cộng sản quốc tế khi ấy của một số người đương quyền cộng sản tại Việt Nam lúc đó mà không gì khác. Bởi vì những cơ sở làm nền cho các sự kiện đó từ ngàn xưa đều hoàn toàn không có hay không phổ biến tại Việt Nam. Vì Việt Nam chỉ là một nước nông nghiệp nghèo, lạc hậu, đất đai canh tác không có nhiều, nhất là tại miền Bắc và tại miền Trung, nên toàn xã hội phải chen chúc nhau trong hoàn cảnh hạn hẹp đất đai như thế, không có sự kiện địa chủ tàn ác như kiểu bên Trung Quốc. Mà thật ra nếu có sự chênh lệch sở hữu đất đai là do lịch sử khách quan chung, của từng vùng, hay của từng gia đình, cá nhân để lại, nó không hề là truyền thống hay luật lệ thường trực hay tự nhiên nào cả. Vả chăng Việt Nam từ ngàn xưa đã có những câu ca dao tục ngữ như tối lửa tắt đèn có nhau, lá lành đùm lá rách, bàu ơi thương bí lấy cùng, một giọt mú đào hơn ao nước lã, một con ngựa đau cả tầu không ăn cỏ, giàu có mạng, nghèo có số v.v… Tức là từ thời kỳ quân chủ phong kiến qua thời kỳ Pháp thuộc, đời sống nông dân vẫn hòa bình, nương tựa lẫn nhau, kẻ có của người có công chan hòa như thế. Còn có cả những ý thức dân chủ phôi thai như các chế độ hương ước, phép vua thua lệ làng, các thuần phong mỹ tục ngàn đời vẫn có. Vậy nên nếu có địa chủ, phú nông, bần nông, vô sản thì đó cũng chỉ là số ít, không phổ biến, tỉ lệ cũng chẳng là bao trong xã hội, như trường hợp Chí Phèo trong tác phẩm Nam Cao hoàn toàn cho thấy rõ. Nhưng đó không phải lỗi do riêng cá nhân hay chủ quan nào của họ, lỗi là lỗi chung của hoàn cảnh là xã hội nghèo khó, không thể bắt buộc ai cũng hoàn toàn như nhau theo cách đếm đầu chia xôi là điều hoàn toàn phi lý và không thể đời nào hoặc bao giờ có được.

    Vậy mà sự kiện Cải cách ruộng đất chẳng qua chỉ là sự bắt chước mù quáng, ngu ngốc theo người, sự nô lệ nhận lãnh chỉ thị thi hành của người, đó mới là ý nghĩa của điều đáng nói nhất. Đến nỗi nơi nào không có địa chủ theo nghĩa thật sự, cũng tìm cho ra người nào đó để quy đại cho thành phần là địa chủ, không có tội ác cũng cố moi ra, tưởng tượng tội ác để có duyên cớ tố khổ, sỉ vả họ. Đó là tìm cho đủ tỉ lệ thành phần của địa phương là 5% địa chủ, không có cũng phải dựng chuyện, phịa ra cho có tỉ lệ đó trong xóm thôn. Nguyên tắc của chính sách cải cách ruộng đất là như thế. Nó hoàn toàn là vở kịch giả tạo, một chính sách dựng chuyện để hầu thực hiện cho được dã tâm bản năng căm thù giai cấp, để vô sản hóa đất đai người dân trong nông thôn, điều đó là để nhằm phù hợp, để thích ứng theo chủ trương vô sản hóa toàn xã hội, chủ trương đấu tranh giai cấp mà học thuyết Mác đã sáng nghĩ ra và làm thành một thứ chủ nghĩa hành động theo kiểu phi nhân và hoàn toàn không tưởng. Kết quả trong thực tế là trong chiến dịch Cải cách ruộng đất đó, trên toàn Miền Bắc đã có khoảng 170.000 người bị mắng mỏ, sỉ nhục, đầy đọa qua tố khổ rồi cuối cùng tàn sát bằng phát súng hoặc bằng chôn sống, kể cả chôn chừa đầu lên rồi cho xe trâu kéo ngang để thỏa mối hận thù giai cấp. Dĩ nhiên đám con nít nhi đồng thì biết gì, chỉ tò mò chạy theo coi cho đã mắt mặc dù hoàn toàn rùng rợn. Chỉ có thiểu số nông dân it học, du thủ du thực nào đó lợi dụng thời cơ để trả thù riêng tư không đáng, còn số khác chỉ phải nghe theo lệnh, làm theo lệnh, nhất là lệnh của các đội trưởng phụ trách công việc phóng tay phát động quần chúng đấu tranh đó mà không hề có ý thức, hiểu biết gì về học thuyết hoặc chính sách. Tất nhiên những người là nạn nhân thì không có cách gì để tự vệ, để kêu ca oan khúc, chỉ có một mực chịu trận một cách thụ động, đau xót, nhục nhã, oan khiên, ngay cả nhiều người có công trong hàng ngũ kháng chiến nhưng khi bị lôi ra đấu tố cũng đành chịu, nhiều đảng viên thuộc các cấp ủy địa phương khi bị quy thành phần trong quá khứ đều nhất loạt phải bị đối xử như thế, bất chấp ai, bất kỳ ai, chuyện này ở Việt Nam người ta làm hoàn toàn y hệt ở Trung Quốc trước đó là vậy. Điển hình như bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm, người từng góp cho Việt Minh nhiều ngàn lượng vàng, nuôi giấu cán bộ Việt Minh hay cộng sản cao cấp nhất vào thời kỳ trước đó nhiều thời gian dài, tức góp công của và cả cháu con nhiều người cho kháng chiến chống Pháp, thế nhưng trong chiến dịch vẫn bị mang ra tố khổ, đấu tố như là người đàn bà ác độc nhất đối với nông dân, cuối cùng rồi bị chôn sống. Cả những người con của bà, có người lên cấp tá trong quân đội cũng phải bị lôi về để chịu chung cảnh ngộ như thế. Đó là chưa hệ hiện tượng con tố cha, vợ tố chồng, trong gia đình tố lẫn nhau, không còn chút đạo lý, thể thống gia cang gì nữa. Đến độ con gái phao phu cho cha ruột mình nhiều chuyện vô luân, kể bao sự đọa đày, tàn ác của cha đối với con theo kiểu dựng chuyện vì làm theo chỉ thị của cán bộ cầm đầu, đến độ cha phải kêu con gái bằng bà, con gái chưởi cha bằng thằng, người làm cũ xưng là ông, người chủ cũ bị gọi là tên nọ tên kia hoàn toàn phi luân, phi đạo nghĩa. Mọi sự tán tận của con người và của xã hội đến tận cùng là như thế, bất chấp truyền thống, bất chấp đạo lý làm người, chỉ còn như bản năng thú tính giữa con người, cái đó được gọi là yêu cầu cách mạng, chính sách cách mạng, ý nghĩa cách mạng, mục đích cách mạng trong mục tiêu chiến dịch Cải Cách ruộng đất.

    Mà cụ thể và để đời nhất là những bài thơ của Tố Hữu, của Xuân Diệu mãi mãi ngàn đời sau vẫn cứ còn đó như là chứng tích của một thời cho các khía cạnh phi nhân nhất của xã hội con người. Tố Hữu được cho là nhà thơ con chim đầu đàn được đề cao tột cùng và chuyên tâng bốc lãnh tụ của cách mạng cộng sản Việt Nam mà ai cũng biết có những lời thơ tiêu biểu như sau :

    “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
    Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
    Cho Ðảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.”

    Đọc lại những vần thơ điên dại này, ngày nay người ta thấy nhân cách và tâm huyết của Tố Hữu ra sao rồi : Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Stalin bất diệt. Kiểu con người cuồng tín, vong bản đến thế là cùng, thế thì còn nói gì là yêu nước yêu dân yêu đaoj lý được nữa, chẳng qua cũng chỉ là những danh từ suông, những phô diễn suông nhằm leo lên địa vị cá nhân mà bất chấp tất cả mọi cái chân chính vậy thôi. Bởi thế hầu hết cán bộ Miền Bắc khi đó về sau đều thể hiện quan điểm ích kỷ rõ rệt “hi sinh đời bố củng cố đời con”, có nghĩa ai cũng phải thích nghi với thực tế xã hội như thế để cốt sao cho con cái mình được ngoi lên hầu có đời sống và địa vị. Nhưng tâm lý chung của con người là lo cho thế hệ mai sau, bất kỳ cá nhân nào cũng thế, chẳng có gì đáng nói. Đằng này cái nghịch lý là hi sinh đời bố, cũng có nghĩa hi sinh cả xã hội nếu cần thiết chỉ để nhằm cho con mình mà thôi. Nên chẳng có gì đáng nói vẫn luôn có sự kèn kựa địa vị quyền lợi của mọi giai tầng cầm quyền trong chế độ cộng sản một cách ngấm ngầm là điều hoàn toàn khách quan không cần phủ nhận. Đó cũng là lý do tại sao trong mọi xã hội hậu cộng sản đều thấy toàn nổi lên những hạng tư bản đỏ. Điều đó cho thấy ngày nay học thuyết Mác là hoàn toàn tầm vơ vì nó đi ngược lại với mọi tâm lý ý thức khách quan của thế giới loài người. Sự thất bại hiển nhiên của nó là như thế nhưng nó đã gây nên biết bao đau thương, tàn phá, khổ sầu cho lịch sử nhân loại trong quá khứ mà chắc những thế hệ hôm nay không thể nào biết hết được.

    Kết quả thảm sầu đó của Cải cách ruộng đất 1956 tại Miền Bắc đã bắt đầu gây mầm bạo động, phản loạn liền ngay sau đó tại nông thôn, tuy mới chỉ lác đác vài nơi, nhưng thật sự vô cùng nguy hiểm khiến ông Hồ thấy rõ và phải ra khóc trong cuộc họp nội bộ đảng để nhằm đưa tướng Võ Nguyên Giáp lúc đó ra xin lỗi công khai trước cuộc nói chuyện với dân chúng. Dĩ nhiên ông Giáp với phong cách cố hữu tiểu tư sản, luôn áo quần vết và mũ phớt bảnh tỏn dù miền Bắc lúc đó nghèo xơ hay cả trong chiến tranh cũng vậy, ra xin lỗi chỉ giống như màn kịch cho phải phép, đó là chất hài kịch khó có ai tin nỗi, vì bản thân ông Giáp trong tâm tâm vẫn thấy kiểu cải cách ruộng đất như vậy là đúng, bởi nó không hề đi ra ngoài nguyên lý đấu tranh giai cấp do Mác chủ trương mà ông vẫn hiểu. Điều đó cũng không lạ gì với tài liệu “Đề cương văn hóa Việt Nam” mà chính ông Trường Chinh đã viết năm 1943, nó như sách lược đầu tiên để hướng dẫn và đưa đường chỉ lối cho toàn bộ cách mạng cộng sản Việt Nam để Trường Chinh sau đó được lên chức Tổng bí thư Đảng về sau là vậy. Nhưng còn điều đáng nói nữa là Trường Chinh từng ký tên trên tờ Truyền Đơn của Việt Minh hô hào bỏ chữ Quốc ngữ để quay về với Hán Văn cũ trước kia trong cả nước, tờ Truyền đơn này hiện còn lưu trữ tại Thư viện Anh Quốc London như một bài viết trước đây trên ĐCV của một tác giả nào đó đã mô tả. Như vậy cho thấy chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam là chủ nghĩa quốc tế mà không hề là mục đích quốc gia dân tộc như có người vẫn nghĩ, nhất là những người cộng sản.

    Như vậy kết luận lại, mọi điều phi nhân đã xảy ra trong thực tế lịch sử cụ thể có phải chỉ do chính những người cộng sản trên toàn thế giới nói chung và người cộng sản Việt Nam làm ra hay không ? Hoàn toàn không phải như vậy. Vì nguyên nhân trực tiếp tận cùng vẫn là bản thân học thuyết chủ nghĩa Mác. Vì người mình có nói không có lửa làm gì có khói. Không có học thuyết Mác làm gì có phong trào cộng sản quốc tế do Lênin khởi xướng ra. Có người bảo học thuyết Mác không sai, chỉ do Lênin sai, Lênin không sai, chỉ do Stalin làm sai, Mao không sai, chỉ do Khmer đỏ làm sai v.v…
    thật là kiểu tâm lý bao che ngu dốt, ngoan cố, lấp liếm mà hoàn toàn không còn ngay thật. Bởi nếu lý thuyết đúng thì làm sao người ta làm sai, chỉ vì mọi nguyên lý khoa học đều không ai có thể làm sai nếu nó thật sự là khoa học. Vậy làm sai có nghĩa là làm điều không đúng, không đúng từ căn cơ bản chất của nó mà không phải không đúng chỉ nơi việc làm. Đó là ý nghĩa đơn giản và là sự thật hiển nhiên nơi mọi sự là sao có thể có ai chống chế hay phủ nhận cho được.

    Cho nên nói cho cùng, trách người cộng sản là không đúng, hay chỉ đúng có một phần nào đó. Vì họ toàn là nông dân, công nhân, những người ít học, chỉ nghe theo, làm theo, tin theo thế thôi. Tin theo lãnh đạo, tin theo học thuyết Mác. Mà lãnh đạo theo kiểu Trường Chinh, kiểu Mao, kiểu Pôn Pốt thì làm gì có kiến thức, có nhận thức đầy đủ hoặc toàn diện mọi mặt. Đó chẳng qua là mọi hành động theo cách bắt chước, theo cách cảm tính thuần túy, theo kiểu ý đồ và tham vọng quyền hành riêng che giấu mà khó ai có thể đoán ra được. Thế nên khi đã nắm toàn quyền rồi thì hoàn toàn độc đoán, chỉ nghĩ mình là đúng, không còn tin ai, nghe ai gì nữa, tính cách của quan điểm độc tài độc đoán là thế. Vả chăng ngay trong bản chất và mục đích học thuyết chủ nghĩa Mác đã chẳng nói chuyên chính vô sản là gì. Có nghĩa chỉ có hai yếu tố tối thượng phải theo, đó là ý nghĩa vô sản và ý nghĩa chuyên chính. Điều đó hoàn toàn trái ngược với ý nghĩa và nguyên tắc của giáo dục cũng như ý nghĩa và nguyên tắc của nhân văn mà ai cũng rõ. Bởi vì con người không thể thành người đầy đủ nếu không có giáo dục, học vấn, nếu thiếu kém giáo dục và học vấn. Và xã hội mà độc tài thì không còn nhân văn, nhất là độc tài đó lại là độc tài vô sản, tức độc tài của những người kém học, ít học.

    Học thuyết Mác thực chất là học thuyết thuộc phạm vi triết học, thuộc phạm vi khoa học xã hội. Như vậy công nhân, nông dân thì thực sự hoàn toàn có biết gì về triết học, về khoa học xã hội ngay từ đầu để nhận thức đúng sai gì được về học thuyết Mác. Đó chỉ là niềm tin mù quáng, thậm chí chỉ là sự cuồng tín nhất thời một thuở thế thôi. Vì nếu có ai đó trong thành phần công nhân, nông dân đó mà về sau được học lên thành người trí thức, thành người biết khoa học, dĩ nhiên nhận thức và quan điểm của họ cũng sẽ hoàn toàn khác, họ cũng sẽ biết nhận định, phê phán học thuyết Mác mà không thể còn ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm như xưa kia nữa. Đó chỉ là hiệu lực tự nhiên của đào tạo giáo dục, bởi vì đào tạo giáo dục phải đặt nền tảng trên tự do dân chủ thật sự mới có thể bảo đảm được hoàn toàn khách quan đúng đắn, hoàn toàn khoa học và hiệu quả, kết quả. Đàng này Mác lại chủ trương chuyên chính vô sản, thế là gậy ông đập lại lưng ông, cái dốt vẫn cứ hoàn toàn dốt, cái mù quáng vẫn cứ hoàn toàn mù quáng, vì không ai có quyền hay được phép phản biện, không ai có quyền nhận xét khác đi hay nói ngược lại. Đó là sự nguy hiểm tột cùng của học thuyết chủ nghĩa Mác, đó là sự phi nhân và phản xã hội tột cùng của chủ nghĩa học thuyết Mác trong khi nó tự mệnh danh là học thuyết khoa học, học thuyết nhân văn, học thuyết xã hội để lừa dối, cám dỗ, mê hoặc mọi người. Nói cách cụ thể, chính vì thế mà trong mọi xã hội mác chỉ có kiểu nông dân hóa xã hội, công nhân hóa xã hội mà không hề có mục đích trí thức hóa con người và xã hội. Đây là sự phản động cực kỳ nhưng lại bảo là cách mạng. Sự quần chúng hóa mọi mặt xã hội như thế chỉ có lợi cho kẻ nắm quyền toàn trị kiểu mù quáng, lạc hậu mà không có lợi cho ai cả, tức không có lợi cho toàn xã hội. Tính cách và hậu quả cực kỳ phản động của học thuyết Mác, tính cách cực kỳ phi nhân văn và phản xã hội, phản lịch sử đi lên của nó nhưng lại được hiểu là cách mạng, đó là sự ngược ngạo, sự nghịch lý kinh khiếp nhất mà trong lịch sử loài người từ xưa tới nay chưa hề có, ngay dưới thời quân chủ phong kiến hay thực dân cũng thế. Thế hệ ông cha ta mà tiêu biểu là Lê Nhân Trung từng nói nhân tài là rường cột của quốc gia, là nguyên khí của đất nước, thế mà học thuyết chủ nghĩa Mác lại phủ nhận tất cả những điều đó, chỉ đồng loạt theo kiểu giai cấp, chỉ mạo nhận theo kiểu đấu tranh giai cấp, khiến cho trong mọi chế độ xã hội cộng sản mác xít chủ yếu chỉ có sự ngu dân hóa mà không hề hướng tới sự trí thức hóa toàn xã hội. Chỉ có quần chúng mê muội tuân hành vô điều kiện theo lãnh tụ, lãnh đạo mà không còn gì khác. Đấy ý nghĩa của Cải cách ruộng đất nói cho cùng chỉ là như thế. Có nghĩa mục đích biện minh cho phương tiện. Làm gì cũng được miễn sao đạt được kết quả. Kết quả đó phải là vô sản toàn xã hội, phải phi trí thức hóa toàn xã hội, khiến xã hội chỉ thành đàn bầy, chỉ biết tuân thủ một chiều theo cách bản năng hóa mà không còn cách suy nghĩ độc lập tư do của tư duy ý thức, của con người đúng nghĩa con người và chân chính. Chính tội ác của Các Mác và bản thân học thuyết của ông ta là như thế. Mác đã trở thành đại tội ác trong lịch sử quá khứ loài người trên toàn thế giới cũng như thế. Đó là người mà ít ai nhận ra, nhất là hầu hết mọi người cộng sản mác xít. Đến đỗi có số thành phần ngu dốt, bợ đỡ tung hô đó là đỉnh cao trí tuệ loài người, thật là trơ trễn, phi ý thức, phi nhận thức và phi lương tâm đến cùng kỳ tận.

    Thật ra Mác chẳng phải là người ngu, bởi ông ta nhận thức mọi lý thuyết cộng sản có trước ông ta đều không tưởng và ông ta cũng từng xác định như vậy. Có nghĩa quan niệm về thế giới cộng sản là quan điểm không bao giờ có được trong thực tế xã hội loài người, vì nó hoàn toàn đi ngược lại ý nghĩa tự nhiên về phát triển khách quan của lịch sử xã hội loài người, đi ngược lại tâm lý hoàn toàn tự nhiên khách quan của cá nhân và xã hội nơi con người. Bởi ai cũng có bản năng tư hữu, bản năng thăng tiến, bản năng bảo thủ, là cốt nhằm bảo đảm tối đa yêu cầu đời sống của riêng mình thế thôi. Xã hội chẳng qua là sự kết hợp, sự dung hòa, sự tổng hòa tất cả mọi yêu cầu riêng tư đó trong một nền pháp luật hiểu quả và một nền văn hóa có nền tảng nhân văn và khoa học khách quan thực sự. Thế mà sự ngu dốt của Mác lần này lại mê tín vào quan niệm biện chứng luận của Hegel, lấy công thức phủ định của phủ định theo kiểu tưởng tượng, tư biện, máy móc, toán học trừu tượng làm ý nghĩa chỉ nam cho tiến hóa lịch sử nhân loại. Cái phi khoa học, phản khoa học, phi thực tế, phi nhân văn tận cùng của học thuyết Mác là như thế. Nói chung Mác hoàn toàn không hiểu sâu xa về triết học, về khoa học xã hội, về lịch sử, về khoa học kinh tế, nên học thuyết chủ nghĩa của ông ta thực chất chỉ mang tính cách hổ lốn, tính cách đoán mò, tính cách suy diễn ngây thơ mà không hề có chân lý khoa học xác đáng, chính xác hay khách quan chắc thực nào cả. Cho nên cái gọi là chủ nghĩa cộng sản khoa học của ông ta thực chất chỉ là sự mê sảng, sự hoang tưởng, nếu không nói là sự ảo giác hoặc sự lừa bịp. Chính học thuyết Mác chỉ phỉnh gạt được những người ít học, những nông dân, những công nhân, những người không có đầu óc phê phán, những người lười biếng suy nghĩ, những người ích kỷ, những người tham lam, lười biếng lao động, muốn đoạt phần người khác mà khỏi làm gì, cuối cùng đặc biệt nhất là những người có tham vọng cá nhân, muốn đoạt toàn quyền thống trị xã hội, bóc lột và thủ lợi toàn diện xã hội theo lợi ích bản thân của riêng mình bằng cách lợi dụng, khai thác tận cùng quan điểm đấu tranh giai cấp, quan điểm chuyên chính chính trị mà Mác đã tưng đề ra. Như vậy rõ ràng ý nghĩa phần lớn của học thuyết chủ nghĩa Mác chỉ toàn là sự nhân danh mà không gì khác. Nhân danh như sự nương theo, núp bóng, ngụy trang, ngụy tạo dưới các danh từ rỗng tuếch, giả tạo để tồn tại hay phát triển, thăng tiến quyền lợi riêng của mình, bất chấp quyền lợi của mọi người hay của toàn xã hội là điều dễ thấy và phổ biến ở khắp mọi nơi nhất. Mà ai cũng như thế thì còn gì là xã hội, còn gì là con người nhân văn, văn minh và đúng đắn nữa. Hình thức là chủ nghĩa xã hội mà nội dung lại phản xã hội, phi xx hội là thế. Bởi chủ nghĩa xã hội thật ra đúng nghĩa chỉ là quan niệm sống, nhân sinh quan riêng của mỗi người, đó là điều tốt nhằm hương tới ích lợi cho người khác, cho nhân quần xã hội. Cho nên nó hoàn toàn phù hợp và thích ững với quan điểm xã hội dân chủ, với lý thuyết tự do dân chủ phát triển và tiến bộ. Đàng này chủ nghĩa xã hội của Mác quan niệm là chủ nghĩa xã hội cá mè một lứa, kiểu thống nhất rập khuôn một kiểu, như kiểu tổ ong, tổ kiến, như kiểu bầy khỉ vượn cùng cái nhìn, cùng tiếng nói, cùng suy nghĩ, cùng mục đích sinh tồn đơn giản. Cho nên qua đó cũng cho thấy học thuyết chủ nghĩa Mác là học thuyết cực kỳ phản động, phản tiến hóa, phản lịch sử, mọi ý nghĩ, ý tưởng nó đưa ra đều hoàn toàn hình thức và giả tạo, và nạn nhân đầu tiên của nó không ai khác hơn là những người cộng sản, còn toàn xã hội hay loài ngươi nói chung chỉ sẽ đều là những nạn nhân thứ cấp do chính các nạn nhân đầu tiên của nó là những người cộng sản chi phối và quyết định.

    Vậy thì nói chung lại hệ lụy của vụ Cải cách ruộng đất tàn khốc 1956 tại Miền Bắc là do học thuyết chủ nghĩa Mác trực tiếp gây ra mà không ai khác. Những người cộng sản tại hiện trường lúc đó, những người nông dân là nạn nhân hay là tai họa lúc đó xét cho kỳ cùng cũng chỉ là nạn nhân nhìn chung của nó. Bởi vì nếu học thuyết Mác không đưa ra quan niệm giai cấp đấu tranh, không chủ trương độc tài chuyên chính vô sản thì hỏi làm sao có thể có được những hiện tượng tàn ác như thế. Con người nếu càng kém trí thức thì càng nhiều bản năng, đó là quy luật chung ai cũng vậy, không cứ là thành phần giai cấp. Thế nên học thuyết Mác chỉ vin vào giai cấp là điều xuẩn ngốc nhất mà lịch sử loài người từ nhiều ngàn năm nay hoàn toàn chưa có. Mác không hiểu được rằng mọi giai cấp chỉ là cấu trúc khách quan tạm thời của cơ chế xã hội. Giai cấp không hề là phạm trù bao quát bất biến tuyệt đối như Mác lầm lẫn và tưởng tượng. Nên khi hoàn cảnh kinh tế đổi thay, xã hội cũng đổi thay, giai cấp cá nhân cũng đổi thay. Bởi không có pháp luật xã hội nào buộc người nọ người kia phải nhất thiết luôn luôn là giai cấp này hay giai cấp khác. Cho nên ý nghĩa hay yêu cầu giải quyết vấn đề giai cấp, giải quyết sự bất công nào đó, giải quyết sự chênh lệch giàu nghèo như thế nào đó, đó là công việc của khoa học nhận thức, của khoa học xã hội, của phát triển kinh tế, của giáo dục, của mọi hoạt động xây dựng khác nhau trong mọi lãnh vực của thế giới con người, không phải là chân lý đấu tranh giai cấp kiểu mê tín, mông muội mà sự hiểu biết của Mác khi đó đã từng nhận thức và quan niệm. Vậy nói gút lại, không phải việc trăm dâu đều đổ đầu tằm, nhưng sự thực hay thực chất ở đây là thế. Nếu không có học thuyết Mác cũng không có mọi hệ lụy xấu xa từng kéo dài gần suốt cả thế kỷ qua nơi khắp thế giới ngay trên đầu của nhân loại, còn nếu có học thuyết Mác mà nó hoàn toàn đúng thì cũng không thể có mọi cái sai kiểu quỷ khốc thần sầu đến mức tối đa như thế. Chính nó vừa có mà lại vừa sai mới thật sự là nguyên do của tất cả. Bởi vì nguyên tắc độc tài do nó gây ra khiến nó cũng chận đứng hết cả mọi cải cách, cải thiện đi lên trong cả trăm năm mà xã hội cần đó, lịch sử loài người sẳn sàng có. Nó không những chận đứng sự phát triển mọi mặt của xã hội, làm xã hội quay lại quá khứ lạc hậu, mà còn ngăn cản mọi xây dựng khác nhau, mọi sửa đổi khác nhau để làm cho xã hội luôn được tốt hơn. đó chính là tội lỗi hay tội ác tày trời của nó nếu nói được như thế. Nó làm mụ mẩm hết thảy mọi con người, trong đó kể cả những người cộng sản, như vậy đó còn chính là tội ác phản nhân văn, phản lịch sử, phản xã hội của chính học thuyết Mác. Nhưng nó lại ngụy tạo, giả tạo hình thức nhân văn để đánh lừa mọi người, đó là sự giả dối, sự dối trá, sự mê lầm, sự phản động tột cùng mà chính bản thân Các Mác và học thuyết của chính ông ta đã hoàn toàn mắc phải. Điều tệ hại cuối cùng là nó làm mất mọi sức đề kháng của con người, của xã hội con người, nó như một thứ vi rút lạ kỳ mà hầu như chưa từng có thuốc đề phòng chủng ngừa hay thuốc chữa một khi ở nơi nào đó mà nó xuất hiện. Đó chính là bài học chua cay nhất trong lịch sử nhận thức của xã hội loài người cũng như trong thực tế đời sống của xã hội loài người mà từ khởi thủy của nền văn minh nhân loại đến nay hoàn toàn chưa hề có.

    ĐỈNH NGÀN
    (25/8/16)