Nước Mỹ chỉ còn cách một nhịp tim trước một cuộc chiến mà nó có thể thua

A. Wess Mitchell | DCVOnline


Chiến tranh toàn cầu không phải là một tình cảnh ngẫu nhiên về mặt lý thuyết cũng không phải là giấc mơ gây sốt của những người chủ chiến và những người theo chủ nghĩa quân phiệt.

USS Nimitz, Lực lượng Tuần duyên Nhật Bản và những tầu chiến của Hải quân Nam Hàn đi theo đội hình trong cuộc tập trận hải quân chung ngoài khơi bờ biển Nam Hàn vào ngày 4 tháng 4. Bộ Quốc Phòng Nam Hàn via Getty Images

Chiến tranh toàn cầu không phải là một tình cảnh ngẫu nhiên về mặt lý thuyết cũng không phải là giấc mơ gây sốt của những người chủ chiến và những người theo chủ nghĩa quân phiệt.

Hoa Kỳ chỉ cách một nhịp tim trước một cuộc chiến tranh thế giới mà nước này có thể thua. Có những xung đột nghiêm trọng cần có sự chú ý của Hoa Kỳ ở hai trong số ba khu vực chiến lược quan trọng nhất thế giới. Nếu Trung Hoa quyết định tấn công Đài Loan, tình hình có thể nhanh chóng leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn cầu trên ba mặt trận, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Hoa Kỳ. Giờ đã muộn và mặc dù có nhiều lựa chọn để cải thiện vị thế của Mỹ nhưng tất cả đều đòi hỏi nỗ lực nghiêm túc và những đánh đổi không thể tránh khỏi. Đã đến lúc phải thực sự khẩn cấp huy động Hoa Kỳ, lực lượng phòng thủ và những đồng minh của mình cho những gì có thể trở thành cuộc khủng hoảng thế giới trong thời đại chúng ta.

Việc mô tả tình trạng khó khăn của Hoa Kỳ bằng những thuật ngữ rõ ràng như vậy có thể khiến nhiều độc giả coi đó là gieo hoang mang. Hoa Kỳ từ lâu đã là quốc gia hùng mạnh nhất trên trái đất. Nước này đã thắng hai cuộc chiến tranh thế giới, đánh bại Liên Xô và vẫn có một quân đội hàng đầu thế giới. Trong một năm rưỡi qua, Hoa Kỳ đã áp đặt những tổn thất khổng lồ cho Nga bằng cách hỗ trợ Ukraine—đến mức tác giả này dường như có thể hình dung được rằng Hoa Kỳ có thể sắp xếp những cuộc cạnh tranh của mình bằng cách gây ra một thất bại ủy quyền đối với Nga trước khi chuyển sự chú ý chính sang việc củng cố sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Nhưng chiến lược đó ngày càng trở nên kém khả thi hơn. Khi Nga huy động cho một cuộc chiến lâu dài ở Ukraine và một mặt trận mới mở ra ở Levant, sự cám dỗ sẽ ngày càng lớn đối với một Trung Hoa có vũ trang nhanh chóng để tiến tới Đài Loan. Bắc Kinh hiện đang nắn gân Washington ở Đông Á khi biết rõ rằng Hoa Kỳ sẽ phải vật lộn để đối phó với cuộc khủng hoảng địa chính trị thứ ba. Nếu chiến tranh xẩy ra, Hoa Kỳ sẽ nhận thấy một số yếu tố rất quan trọng bất ngờ xuất hiện để chống lại nó.

Một trong những yếu tố đó là địa lý. Như hai Chiến lược phòng thủ quốc gia gần đây nhất của Hoa Kỳ đã nêu rõ và Ủy ban tư thế chiến lược của Quốc hội mới nhất đã xác nhận, quân đội Hoa Kỳ ngày nay không tpổ chức để tiến hành những cuộc chiến chống lại hai đối thủ lớn cùng một lúc. Trong trường hợp Trung Hoa tấn công Đài Loan, Hoa Kỳ sẽ gặp khó khăn trong việc đẩy lùi cuộc tấn công trong khi vẫn duy trì dòng hỗ trợ cho Ukraine và Israel.

Ở đây không phải vì Hoa Kỳ đang suy thoái. Đó là vì không giống như Hoa Kỳ, cần phải mạnh ở cả ba nơi này, mỗi đối thủ của Mỹ – Trung Hoa, Nga và Iran – chỉ cần mạnh ở khu vực sân sau để đạt được mục tiêu của họ.

Hoa Kỳ nên căng thẳng cân não để chuẩn bị cho kịch bản này với hy vọng ngăn chặn xung đột nhưng phải bảo đảm được người Mỹ sẵn sàng ứng phó nếu nó xẩy ra. Sự chuẩn bị hiệu quả là con đường nâng cao sức răn đe; những bước tăng cường sẵn sàng cho chiến tranh gửi một tín hiệu rõ ràng đến đối thủ rằng mưu toan xâm lược có nguy cơ gây rủi ro cho chính họ hơn là ổn định và hòa bình.

Trường hợp xấu nhất là một cuộc chiến tranh leo thang tại ít nhất ba chiến trường xa xôi, mà trách nhiệm chiến đấu thuộc một quân đội Hoa Kỳ mỏng manh cùng với những đồng minh được trang bị kém, hầu hết không thể tự bảo vệ mình trước những cường quốc kỹ nghệ lớn bằng quyết tâm, tài nguyên và sự tàn nhẫn để chống lại những cường quốc kỹ nghệ lớn. duy trì một cuộc xung đột lâu dài. Tiến hành cuộc chiến này sẽ đòi hỏi mức độ đoàn kết dân tộc, huy động tài nguyên và sẵn sàng hy sinh mà người Mỹ và những đồng minh của họ chưa từng thấy trong nhiều thế hệ.

Hoa Kỳ đã từng tham gia ở những cuộc chiến tranh đa mặt trận trước đây. Nhưng trong những cuộc xung đột trước đây, nó luôn có khả năng vượt trội hơn đối thủ. Điều đó không còn xẩy ra nữa: Hải quân Trung Hoa đã lớn hơn của Hoa Kỳ về số tầu và nó đang tăng lên tương đương với toàn bộ Hải quân Pháp (khoảng 130 tầu, theo tham mưu trưởng hải quân Pháp) mỗi bốn năm. Để so sánh, Hải quân Hoa Kỳ có kế hoạch tăng thêm 75 tầu trong mười năm tới.

Một bất lợi liên hệ là tiền bạc. Trong những cuộc xung đột trước đây, Washington có thể dễ dàng chi tiêu nhiều hơn đối thủ. Trong Thế chiến thứ hai, tỷ lệ nợ quốc gia trên GDP của Mỹ gần như tăng gấp đôi, từ 61% GDP lên 113%. Ngược lại, ngày nay Hoa Kỳ sẽ bước vào một cuộc xung đột với khoản nợ đã vượt quá 100% GDP.

Giả sử nợ tăng tương tự như Thế chiến thứ hai, không phải là không có lý khi kỳ vọng rằng khoản nợ có thể tăng lên 200% GDP hoặc cao hơn. Như Văn phòng Ngân sách Quốc hộinhững nguồn khác đã lưu ý, gánh nặng nợ ở tầm mức đó sẽ gây ra những hậu quả thảm khốc cho nền kinh tế và hệ thống tài chính Hoa Kỳ.

Một cuộc xung đột toàn cầu sẽ mang đến những mối nguy hiểm khác. Hai đối thủ của Mỹ – Nga và Iran – là những nước sản xuất dầu lớn. Một báo cáo gần đây cho thấy việc đóng cửa eo biển Hormuz kéo dài trong lúc xung đột ở Trung Đông lan rộng hơn có thể đẩy giá dầu vượt quá 100 USD/thùng, làm áp lực lạm của phát tăng đáng kể. Trung Hoa là chủ nợ lớn của Mỹ và việc Bắc Kinh bán tháo liên tục có thể làm tăng lãi suất trái phiếu Mỹ và gây thêm căng thẳng cho nền kinh tế. Thật hợp lý khi cho rằng người Mỹ sẽ phải đối phó với tình trạng thiếu hụt mọi thứ, từ đồ điện tử đến vật liệu xây nhà.

Tất cả những điều đó mờ nhạt khi so với cái giá phải trả về con người mà Hoa Kỳ có thể phải gánh chịu trong một cuộc xung đột toàn cầu. Một số lớn quân nhân Hoa Kỳ có thể sẽ chết. Một số đối thủ của Hoa Kỳ có năng lực hạt nhân và thông thường có thể vươn tới lãnh thổ Hoa Kỳ; những nước khác có khả năng truyền cảm hứng hoặc chỉ đạo những cuộc tấn công khủng bố kiểu Hamas trên đất Hoa Kỳ, việc này có thể dễ dàng thực hiện hơn do tình trạng lỏng lẻo ở biên giới phía nam Hoa Kỳ.

Ưu tiên trước mắt của Hoa Kỳ phải là cần bảo đảm rằng Ukraine, Israel và Đài Loan có vũ khí mà họ cần để tự vệ. Đây là những quốc gia có nhiều rủi ro nhất hiện nay. Hy vọng tốt nhất để tránh một cuộc xung đột chung là những quốc gia ở tiền tuyến này sẽ rất may mắn và gai góc đến mức sự xâm lược sẽ bị ngăn chặn hoặc dập tắt trước khi nó có thể lan rộng.

Điều đó sẽ không thể thực hiện được trừ khi Hoa Kỳ ổn định được cơ sở kỹ nghệ-quốc phòng. Kể từ khi bắt đầu Chiến tranh Nga-Ukraine, tổng sản lượng quốc phòng của Hoa Kỳ chỉ tăng 10%—ngay cả khi cuộc chiến chứng tỏ mức tiêu thụ đạn dược cao đáng kinh ngạc trong một cuộc xung đột lớn giữa những cường quốc kỹ nghệ so với những hoạt động chống nổi dậy hạn chế của thời kỳ gần đây.

Tình hình nghiêm trọng đến mức Washington có thể cần phải viện dẫn Đạo luật Sản xuất Quốc phòng và bắt đầu chuyển đổi một số ngành kỹ nghệ dân sự sang mục đích quân sự. Ngay cả khi đó, chính phủ Hoa Kỳ có thể phải đi những bước khắc nghiệt—gồm cả việc định lại ưu tiên những nguyên liệu dành cho nền kinh tế tiêu dùng, mở rộng cơ sở sản xuất và sửa đổi những quy định về môi trường khiến việc sản xuất vật liệu chiến tranh trở nên phức tạp—để cơ sở kỹ nghệ Hoa Kỳ chuẩn bị sẵn sàng cho việc huy động cho chiến tranh.

Rõ ràng là Washington sẽ phải tăng chi tiêu quốc phòng. Việc chính quyền Biden không tăng chi tiêu quốc phòng, đưa những khoản chi tiêu trong nước vào ngân sách quốc phòng và nhất quyết khớp từng đô la chi cho quân đội với một đô la cho chính sách về biến đổi khí hậu hoặc chi tiêu xã hội là một cách giải quyết sai lầm. Để chuẩn bị cho chiến tranh mà không làm khoản nợ bùng nổ, Washington sẽ phải cắt giảm chi tiêu cho những chương trình xã hội được sự ủng hộ rộng rãi của người dân.

Không ai trong Quốc hội Hoa Kỳ muốn nói với giới cử tri lớn tuổi rằng phúc lợi của họ đang bị cắt giảm. Nhưng giải pháp thay thế là một ngày nào đó sẽ nói cho những cử tri đó biết lý do tại sao con cháu của họ lại bị đưa đến những nơi nguy hiểm mà không có đủ vũ khí khi chiến tranh bùng nổ.

Những đồng minh của Mỹ cũng sẽ phải đóng góp đáng kể theo những cách mới. Chiến tranh Ukraina đã thúc đẩy những thành viên NATO ở châu Âu, đặc biệt là Đức, phải nghiêm túc hơn về vấn đề an ninh. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, chưa đến một phần ba trong số đó thực hiện cam kết chi ít nhất 2% GDP cho quốc phòng. Những thành viên lớn của Tây Âu vẫn chưa thực hiện lời hứa mà họ đã đưa ra hơn một năm trước tại hội nghị thượng đỉnh của khối Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương ở Madrid về việc triển khai những đơn vị cấp lữ đoàn ở sườn phía đông của NATO.

Khắp phương Tây, chính phủ và người dân sẽ phải đánh giá lại những ưu tiên khiến đất nước của họ gặp bất lợi trong cuộc chiến tranh sắp tới. Thật vô nghĩa khi người Mỹ buộc mình phải tuân theo những chính sách khí hậu vội vàng và rất tốn kém, làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế vào thời điểm Trung Hoa đang xây dựng những nhà máy điện đốt than với tốc độ hai nhà máy mỗi tuần. Người châu Âu sẽ phải suy nghĩ lại về ác cảm của họ đối với năng lượng hạt nhân; Những người cấp tiến ở Mỹ sẽ phải suy nghĩ lại về những hạn chế tự áp đặt nhằm hạn chế khả năng tăng cường sản xuất năng lượng của Hoa Kỳ.

Không có gì trong những điểm đã nêu là việc dễ dàng. Nhưng Hoa Kỳ và đồng minh đang bước vào thời kỳ phải có những quyết định khó khăn. Những gì đang xẩy ra ở Ukraine và Israel dường như không thể tưởng tượng được thậm chí chỉ cách đây vài năm, và nhiều việc khác có thể sẽ xẩy ra trong những ngày tới. Người Mỹ và đồng minh của họ cần bắt đầu sắp xếp công việc của mình ngay từ bây giờ để họ không thấy mình chưa chuẩn bị cho một cuộc xung đột toàn cầu nếu nó xẩy ra.

Tác giả | A. Wess Mitchell, một chủ nhân của Marathon Initiative và là cựu phụ tá ngoại trưởng phụ trách Châu Âu và Á-Âu.

© 2023 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn:America Is a Heartbeat Away From a War It Could Lose | A. Wess Mitchell | Foreign Policy | NOVEMBER 16, 2023