Huyền thoại về Henry Kissinger

Thomas Meaney | Trần Giao Thủy

Ngoại trưởng của Nixon là một nhân vật kém phi thường hơn nhiều so với những gì những người ủng hộ ông, những người chỉ trích ông — và chính ông — tin tưởng.

Kissinger vào năm 1972. Các tác phẩm gần đây trong chồng tài liệu đồ sộ về ông đã đặt câu hỏi về những giả định căn bản về quan điểm của ông.

Năm 1952, lúc hai mươi tám tuổi, Henry Kissinger đã làm điều mà những sinh viên tốt nghiệp dám làm khi họ muốn bảo vệ tương lai học thuật của mình: ông phát hành một tạp chí. Ông ấy chọn một cái tên ấn tượng — Confluence — và chiêu mộ những người đóng góp lừng lẫy: Hannah Arendt, Raymond Aron, Lillian Smith, Arthur Schlesinger, Jr., Reinhold Niebuhr. Nhà xuất bản James Laughlin, người hậu thuẫn cho tạp chí, đã mô tả Kissinger thời trẻ là “một người hoàn toàn chân thành (kiểu người Đức cực kỳ nghiêm túc), một người đang cố gắng hết sức để làm một công việc lý tưởng.” Giống như những sản phẩm ban đầu khác, trong Hội thảo Quốc tế của Harvard, một chương trình mùa hè có tham dự viên từ khắp nơi trên thế giới, Kissinger đã mạo hiểm tình nguyện làm gián điệp, theo dõi những sinh viên khác, cho FBI — tạp chí Confluence đã mở ra nhưng ngõ ngách cho ông ấy không chỉ đến với giới hoạch định chính sách ở Washington mà còn với một thế hệ các nhà tư tưởng người Đức gốc Do Thái lớn hơn, những người có kinh nghiệm chính trị hình thành vào đầu những năm 30, khi Cộng hòa Weimar bị chế độ Quốc xã hất cẳng.

Đối với những người theo chủ nghĩa tự do trong Chiến tranh Lạnh, những người đã chứng kiến sự khuấy động của chủ nghĩa phát xít trong mọi thứ, từ chủ nghĩa McCarthy đến sự trỗi dậy của văn hóa đại chúng, Weimar là một câu chuyện cảnh giác, trao một quyền hạn nhất định cho những người còn sống sót. Kissinger vun trồng trí thức Weimar, nhưng ông không ấn tượng về triển vọng ảnh hưởng của chúng. Mặc dù sau đó, ông đã viện dẫn ký ức về chủ nghĩa Quốc xã để biện minh cho mọi cách dùng quyền lực, nhưng ở giai đoạn này, ông đã tạo dựng được danh tiếng như một chính khách độc lập rất Mỹ. Ông ta đã làm kinh hoàng những người di cư khi đăng trên tạp chí Confluence một bài báo của Ernst von Salomon, một người cực hữu, đã thuê tài xế lái xe cho những người đi ám sát bộ trưởng ngoại giao của Cộng hòa Weimar. Sau đó, Kissinger nói với một người bạn: “Tôi đã tham gia với bạn trong tư cách là một nhân vật phản diện chính trong hệ thống nhân phẩm tự do,” và nói đùa rằng luận văn đó đang được coi là “một triệu chứng cho sự đồng tình của tôi với  chế độ toàn trị và thậm chí cả Đức Quốc xã.

Trong hơn sáu mươi năm, tên của Henry Kissinger đã đồng nghĩa với học thuyết chính sách đối ngoại được gọi là “chủ nghĩa hiện thực”. Trong thời gian làm cố vấn an ninh quốc gia và Ngoại trưởng cho Tổng thống Richard Nixon, việc ông sẵn sàng nói chuyện thẳng thắn về việc Hoa Kỳ theo đuổi quyền lực trong một thế giới hỗn loạn đã đem đến cho ông cả sự nổi tiếng và tai tiếng. Sau đó, vụ án chống lại ông được xây dựng, củng cố bằng một dòng tài liệu giải mật ghi lại những hành động trên toàn cầu. Seymour Hersh, trong “Cái giá của quyền lực” (“The Price of Power”, 1983), đã miêu tả Kissinger như một kẻ hoang tưởng không có gì nổi bật; Christopher Hitchens, trong “The Trial of Henry Kissinger” (2001), coi cuộc tấn công của ông như một bản cáo buộc truy tố Kissinger là tội phạm chiến tranh.

Nguồn: Picador US

Nhưng Kissinger, nay đã gần đến sinh nhật lần thứ chín mươi bảy, không còn gây sự ghê tởm khắp nơi như vậy nữa. Khi những người chỉ trích trước đây đã len lỏi về phía trung tâm chính trị và tự mình vươn lên nắm quyền, niềm đam mê nguội lạnh. Hillary Clinton, khi còn là sinh viên luật tại Yale, đã cực lực phản đối việc Kissinger ném bom Campuchia, đã mô tả “những quan sát sắc sảo” mà ông đã chia sẻ với bà khi Hillary còn là Ngoại trưởng, và viết trong một bài nhận định dạt dào tình cảm về cuốn sách gần đây nhất của ông rằng “Kissinger là một người bạn.” Trong một trong những cuộc tranh luận tranh cử Tổng thống năm 2008, John McCain và Barack Obama từng trích dẫn Kissinger ủng hộ quan điểm (đối lập) của họ đối về Iran. Samantha Power, phê bình gia nổi tiếng nhất về thất bại của Hoa Kỳ trong việc ngăn chặn các cuộc diệt chủng, cũng không thoát được, đã nhận  Giải thưởng Henry A. Kissinger từ tay ông.

Kissinger đã là chủ đề phong phú cho giới sử gia và nhà xuất bản. Có những nghiên cứu phân tích tâm lý, những lời kể lại của bạn gái cũ, bản tóm tắt những câu danh ngôn của ông, và những cuốn sách kinh doanh về tài giao tế của ông ấy. Hai trong số những đánh giá quan trọng nhất gần đây đã xuất hiện vào năm 2015: tập đầu tiên của tiểu sử được ủy quyền của Niall Ferguson, đánh giá Kissinger một cách thiện cảm từ cánh phải, và “Cái bóng của Kissinger” của Greg Grandin, phân tích ông một cách nghiêm túc từ cánh trái. Từ những quan điểm đối lập, họ hội tụ để đặt câu hỏi về sự sâu sắc trong chủ nghĩa hiện thực của Kissinger. Trong sách của Ferguson, Kissinger nhập vai một người trẻ tuổi theo chủ nghĩa lý tưởng, người tuân theo mọi đường lối chính sách đối ngoại thời hậu chiến và liên tục gắn mình một cách sai lầm với những ứng cử viên Tổng thống, cho đến khi may mắn gặp được Nixon. Kissinger của Grandin, mặc dù nói ngôn ngữ của những người theo chủ nghĩa hiện thực — “sự đáng tin cậy”, “sự liên kết”, “sự cân bằng quyền lực” — có một cái nhìn về thực tế một cách ung dung như là một người theo chủ nghĩa tương đối triệt để.

Nguồn: WW Norton

Cuốn sách mới của Barry Gewen, “Tính không thể tránh khỏi của Bi kịch” (“The Inevitability of Tragedy”, Norton), thuộc trường phái không-công-kênh-Không-đạp-đổ trong Kissinger học. Gewen viết, 

Không ai nghĩ sâu hơn về các vấn đề quốc tế. Suy nghĩ của Kissinger đi ngược lại với những gì người Mỹ tin hoặc muốn tin.

Barry Gewen

Gewen, một biên tập viên của New York Times Book Review, theo dấu Kissinger từ những quyết định quan trọng nhất về chính sách đối ngoại đối với kinh nghiệm của ông khi là “đứa con của Weimar.” Mặc dù Gewen nhận thức được những cạm bẫy của việc gán ghép quá nhiều cho một chế độ đã sụp đổ trước sinh nhật lần thứ mười của đối tượng, nhưng tác giả vẫn bị thu hút vì những mối liên hệ giữa Kissinger và những người di cư lớn tuổi thời của ông, những người có kinh nghiệm về dân chủ tự do khiến họ lo sợ khả năng của dân chủ có thể làm suy yếu chủ nghĩa tự do.

Heinz Kissinger sinh năm 1923 tại Fürth, một thành phố thuộc Bavaria. Gia đình ông di cư sang New York không lâu trước Kristallnacht [Đêm Pha lê, đêm bạo động chống người Do Thái, ngày 9 và 10, tháng 11 1938], định cư ở Washington Heights, một khu phố có rất nhiều người Đức di cư đến nỗi đôi khi được gọi là Đế chế thứ tư. Họ nói tiếng Anh ở nhà, và Heinz trở thành Henry. Thời trẻ, ông ấy thể hiện rất ít phẩm chất đáng chú ý ngoài sự nhiệt tình với chiến thuật đá banh phòng thủ kiểu Ý và sở trường tư vấn cho bạn bè về những chiến tích tình trường của họ. Khi còn là một thanh thiếu niên, ông ấy đã làm việc trong một xưởng sản xuất bàn chải cạo râu trước khi đi học, và muốn trở thành một kế toán viên.

Năm 1942, Kissinger bị gọi đi quân dịch. Tại Trại Claiborne, Louisiana, ông kết bạn với Fritz Kraemer, một binh nhì người Mỹ gốc Đức hơn ông mười lăm tuổi, người mà Kissinger gọi là “người có ảnh hưởng lớn nhất trong những năm trưởng thành của tôi”. Một người theo thuyết của Nietzsch chính hiệu đến mức tự nhại chính mình — ông ta đeo kính một tròng để mắt yếu phải hoạt động nhiều hơn — Kraemer tuyên bố đã dành những năm cuối cùng của Weimar để chống lại cả Cộng sản và Áo sơ mi nâu của Đức Quốc xã trên đường phố. Ông có bằng tiến sĩ về khoa học chính trị và luật quốc tế, đồng thời theo đuổi một sự nghiệp đầy hứa hẹn tại Hội Quốc Liên trước khi chạy sang Mỹ vào năm 1939. Ông cảnh cáo Kissinger không nên bắt chước những trí thức “khôn khéo” và những phân tích lợi nhuận không tốn máu xương của họ. Ông tin rằng Kissinger là người “hợp âm với lịch sử”, ông nói với Kissinger, “Chỉ khi bạn không ‘tính toán’ thì bạn mới thực sự có tự do để phân biệt bạn với đám tiểu nhân.

[Trong một buổi tối nói chuyện thật lâu tại nhà của Fritz Kraemer trên đường Fessenden ở Washington D.C.,  ông đã nói với Hubertus Hoffmann:

Hai người tị nạn gốc Do Thái với kiến thức về chiến lược: (P) Thầy, Thiếu úy Tiến sĩ Fritz Gustav Anton Kraemer (1908 -2003) và (T) trò, trung sĩ Henry Kissinger thuộc Sư đoàn 84 bộ binh tại đồn Hötzendorf, Oberammergau ở Đức, 1945. Nguồn: ©NATO

“Henry Kissinger luôn ‘mềm dẻo’. Điều này có nghĩa là anh ấy thường phạm sai lầm. Một ví dụ: anh ta từng viết về đồng minh thân cận nhất của chúng ta trong Chiến tranh Việt Nam, Tướng Thiệu, ‘Ông ta mất trí’, nói rằng ông Thiệu không hiểu những nhượng bộ to lớn của Bắc Việt trong cuộc đàm phán Paris mà Kissinger đang dẫn đầu lúc đó. Theo tôi, nhận xét đó quá xúc phạm. Vì cuối cùng, người Mỹ chúng ta đã bỏ rơi và phản bội ông Thiệu. Bắc Việt không nhượng bộ bất cứ điều gì, và sau đó đã đưa quân chính quy từ Bắc và xe tăng của họ vào miền Nam Việt Nam.

Tôi cảm ơn Chúa vì tôi đã tách khỏi những người như vậy ngay từ thuở ban đầu. Cá nhân tôi không có gì chống báng Henry Kissinger. Anh ấy luôn muốn được công nhận và yêu thương. Vì vậy, Kissinger không bao giờ có thể đơn giản làm theo lương tâm của mình trong chính trị. Anh ta không có khả năng kiêu ngạo đấu tranh vì chính nghĩa. Kissinger không bao giờ  là một người xấu, chỉ đơn giản là không kiêu ngạo. Chính trị của Kissinger luôn ‘mềm dẻo’— Tôi luôn ‘tuyệt đối ’. Tôi cảm ơn Chúa rằng chính trị không buộc tôi phải cởi mở với mọi thứ, tức là “mềm dẻo”.

Đối với tôi, sự kiêu ngạo không có bất kỳ ý nghĩa tiêu cực nào, vì nó chính là hoàn toàn tin rằng niềm tin và giá trị cá nhân là tuyệt đối.”

Fritz Kraemer

Fritz Kraemer đã từ anh học trò Kissinger giữa thập niên 1970 cho đến lúc qua đời. Ông luôn luôn rời phòng khách tiết ở Washington D.C. bất cứ khi nào Kissinger bước chân vào, không hề có một lời giải thích cho học hò biết tại sao ông không muốn nói nói chuyện với Kissinger cả 1/4 thế kỷ — TGT]

Đối với tất cả những ám chỉ về phong cách Đức của Kissinger, kinh nghiệm không thể phai mờ thời trẻ của ông là phục vụ trong Sư đoàn bộ binh 84 khi nó quét qua châu Âu. Một chiến hữu nhớ, “Ông ấy là người Mỹ hơn tôi từng thấy bất kỳ người Mỹ nào.” Cuộc chiếm đóng của Hoa Kỳ, với những cơ hội để nhanh chóng đảm nhận các vị trí quyền lực, đã làm ông ấy phấn khởi. Năm 1945, Kissinger tham gia cuộc giải phóng trại tập trung Ahlem, ở ngoại ô Hanover, và được trao Ngôi sao Đồng nhờ vai trò phá bỏ một phòng giam Gestapo.

William Yandell Elliott tháng 8 1960 (1896 – 1979). Ảnh: Edward Clark, © Time Inc.

Năm 1947, Kissinger ghi danh vào Đại học Harvard nhờ G.I. Bill (Luật về đặc quyền của cựu quân nhân Hoa Kỳ sau đệ II thế chiến) dự định theo học khoa học chính trị và văn chương Anh. Ông đã tìm được một người cố vấn thứ hai, William Yandell Elliott, một giáo sư lịch sử có mối quan hệ tốt với khối ưu tú tin lành da trắng nói tiếng Anh (Wasp élite), người đã tư vấn cho một loạt tổng thống của Hoa Kỳ về các vấn đề quốc tế. Chàng trai trẻ Kissinger ít bị những người theo thuyết kinh điển của Realpolitik, chẳng hạn như Clausewitz và Bismarck, thu hút; những “triết gia lịch sử” như Kant và các chuyên gia mổ xẻ, phân tích về sự suy tàn văn minh như Arnold Toynbee và Oswald Spengler có ảnh hưởng với Kissinger hơn. Từ những tư tưởng gia này, Kissinger tập hợp lại quan điểm của riêng mình về cách lịch sử vận hành. Đó không phải là câu chuyện về sự tiến bộ tự do, về ý thức giai cấp, hay về các chu kỳ sinh ra, trưởng thành và suy tàn; đúng hơn, đó là “một loạt các sự kiện vô nghĩa”, nhanh chóng thành hình do áp dụng ý chí của con người. Khi còn là một anh lính bộ binh trẻ, Kissinger đã học được rằng những kẻ thắng cuộc đã lục lại lịch sử tìm lấy những phép loại suy để tôn vinh chiến thắng của họ, trong khi những người bại trận đi tìm nguyên nhân lịch sử dẫn đến sự bất hạnh của họ.

Ferguson và Grandin đều nắm bắt được một câu trong luận án đại học của Kissinger, có tựa đề “Ý nghĩa của lịch sử”, “Lãnh vực của tự do và sự cần thiết không thể dung hòa được ngoại trừ kinh nghiệm hướng nội.” Một thế giới quan chủ quan sâu sắc như vậy có vẻ đáng ngạc nhiên ở Kissinger, nhưng chủ nghĩa hiện sinh của Pháp đã đến Harvard, và luận án của Kissinger trích dẫn Jean-Paul Sartre. Cả Sartre và Kissinger đều tin rằng đạo đức do hành động quyết định. Nhưng đối với Sartre, hành động tạo ra sự có thể nhận trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập thể, trong khi đối với Kissinger, sự bất định về mặt đạo đức là điều kiện của tự do con người.

Năm 1951, khi đang theo học cao học, Kissinger làm cố vấn cho Văn phòng Nghiên cứu Hành quân của Quân đội, nơi ông trở nên quen thuộc với thiên hướng chiến tranh tâm lý của Bộ Quốc phòng. Đối với các đồng môn của Kissinger tại Harvard, điều chỉnh bản lý lịch của họ cho phù hợp với nhu cầu của tình hình an ninh Hoa Kỳ, luận án tiến sĩ của ông — về Quốc hội Vienna và hậu quả của nó — có vẻ cổ hủ một cách kỳ quái. Nhưng luận án của ông xuất bản đã đề cập đến vũ khí nhiệt hạch trong câu đầu tiên của nó, và giới thiệu cho độc giả ở Washington một sự tương đồng lịch sử không thể nhầm lẫn: những nỗ lực của Đế quốc Anh và Áo để kiềm chế Pháp của Napoléon đã mang lại bài học cho việc đối phó với Liên Xô.

Kissinger đôi khi được gọi là Metternich của Mỹ, ám chỉ đến một chính khách người Áo, người đã tạo dựng nên nền hòa bình thời hậu Napoléon. Nhưng ở đây, cân nhắc sự nghiệp của những người mà Kissinger đã viết về, ông nhấn mạnh những hạn chế của Metternich với tư cách là một hình mẫu:

‘Metternich thiếu đặc tính giúp tinh thần vượt qua sự bế tắc trước rất nhiều cuộc khủng hoảng của lịch sử: khả năng liệu trước được vực thẳm, không phải với sự tách rời của một nhà khoa học, mà là một thử thách phải vượt qua — hoặc diệt vong trong tiến trình này. . . . Vì con người trở thành huyền thoại, không phải do những gì họ biết, cũng không phải do những gì họ đạt được, mà do những nhiệm vụ mà họ tự đặt ra.’

Henry Kissinger

Kissinger đang quất một loạt những nhà khoa học xã hội sáng mắt xung quanh ông, những người nghĩ rằng cuộc đối đầu chết người trong Chiến tranh Lạnh có thể được giải quyết bằng các mô hình thực nghiệm và hành động, thay vì bằng sự vênh váo hiện sinh.

Năm 1954, Harvard không trao cho Kissinger học vị giáo sư mới vào nghề mà ông mong đợi, nhưng khoa trưởng, McGeorge Bundy, đã giới thiệu ông vào Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, nơi Kissinger bắt đầu quản lý một nhóm nghiên cứu về vũ khí hạch tâm. Ở Washington thời Eisenhower, việc sử dụng vũ khí hạch tâm mới có thể làm nên tên tuổi của bạn. Năm 1957, Kissinger xuất bản cuốn sách giúp ông trở thành người của công chúng, “Vũ khí hạch tâm và chính sách đối ngoại”. Có ý kiến cho rằng Chính quyền Eisenhower cần phải sắt đá để sử dụng vũ khí chiến thuật hạch tâm trong các cuộc chiến tranh quy ước. Chỉ dự trữ vũ khí hạch tâm cho những kịch bản ngày tận thế sẽ khiến Hoa Kỳ không thể phản ứng dứt khoát trước các cuộc tấn công ngày càng tăng của Liên Xô. Kissinger dự định luận văn của mình là để khiêu khích, và không thể biết rằng Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân của Eisenhower đã nói với Tổng thống những điều tương tự từ nhiều năm qua.

Vào cuối những năm 50, Kissinger không cần phải lựa chọn trở thành một học giả, một trí thức quần chúng, một viên chức chính phủ hay một chính trị gia. Mỗi lĩnh vực hoạt động đều nâng cao giá trị của ông ấy trong các lĩnh vực khác. Ông là chuyên gia tư vấn được các ứng cử viên Tổng thống săn đón; giả định rằng tầng lớp quý tộc WASP của Hoa Kỳ đưa ra con đường khả thi nhất để đi lên quyền lực, ông đã dành nhiều năm để kèm Nelson Rockefeller về chính sách ngoại giao. Năm 1961, Bundy, người từng trở thành cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống John F. Kennedy, đã thuê Kissinger làm cố vấn. Cuối cùng Kissinger cũng trở thành giáo sư tại Harvard. Các thành viên của khoa phản đối cuốn sách về vũ khí hạch tâm của ông là không có tính học thuật, nhưng Bundy đã thúc đẩy việc bổ nhiệm, và thuyết phục Quỹ Ford bỏ tiền cho học vị giáo sư của Kissinger.

Kissinger khó có thể xếp vào hàng ngũ những tư tưởng gia về chính sách đối ngoại cùng thời với ông. Liệu ông ấy có thuộc về những chiến lược gia tài giỏi và phong cách nhất của Mỹ, chẳng hạn như George Kennan và Nicholas Spykman hay không? Thông thường, ông được xếo loại với các “trí thức quốc phòng” kém hơn, chẳng hạn như Hans Speier và Albert Wohlstetter. Những người này di chuyển linh hoạt giữa các giảng đường và phòng thí nghiệm của Tập đoàn Rand, nơi họ phàn nàn về những người sinh viên biểu tình và những buổi thuyết trình chiếu dương bản đáng báo động về ngày tận thế hạch tâm.

Gewen thích xếp Kissinger vào số những người Weimar có đầu óc hơn, mặc dù “những nét giống gia đình” mà ông nhận thấy rất khó xác định. Arendt không bao giờ niềm nở với ông ta, nhưng họ chia sẻ sự thất vọng về thành tích ban đầu của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Trong cuốn sách “Về cuộc cách mạng”, Arendt lo ngại rằng các quốc gia hậu thuộc địa, thay vì chọn sao chép các thể chế chính trị của Mỹ, đang tuân theo kịch bản của Cộng sản là giải phóng kinh tế bằng cuộc cách mạng. Kissinger lập luận rằng Hoa Kỳ cần phải quảng bá tốt hơn ý thức hệ của nó, và ông ấy đã làm như vậy với lòng nhiệt thành truyền bá phúc âm vượt xa bất cứ điều gì Arendt dự định. Trong một cuộc phỏng vấn với Mike Wallace, vào năm 1958, Kissinger nói,

Một xã hội tư bản, hay điều thú vị hơn đối với tôi, một xã hội tự do, là một hiện tượng mang tính cách mạng hơn chủ nghĩa xã hội thế kỷ 19. Tôi nghĩ chúng ta nên tiếp tục tấn công về mặt tâm linh.

Henry Kissinger

Đây không phải là sự thôi thúc của một trí thức phê bình mà là của một người không đặt câu hỏi về sứ mệnh toàn cầu của Mỹ.

Hans Morgenthau. Nguồn:  Flickr

Người gần gũi hơn về quan điểm với Kissinger là Hans Morgenthau, cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực chính sách đối ngoại hiện đại. Hai người gặp nhau tại Harvard và duy trì một tình đồng nghiệp bền chặt và chỉ phai nhạt sau nhiều thập kỷ. Gewen viết, “Không có  tư tưởng gia nào có ý nghĩa với Kissinger hơn Morgenthau.” Giống như Kissinger, Morgenthau đã trở nên nổi tiếng với một cuốn sách nổi tiếng về chính sách đối ngoại, “Chính trị giữa các quốc gia” (“Politics Among Nations”, 1948). Và ông cũng chia sẻ niềm tin của Kissinger rằng chính sách đối ngoại không thể phó mặc cho các nhà kỹ trị với các sơ đồ và số liệu thống kê. Nhưng, không giống như Kissinger, Morgenthau không sẵn sàng hy sinh các nguyên tắc hiện thực của mình cho ảnh hưởng chính trị. Vào giữa những năm sáu mươi, với tư cách là cố vấn cho Chính quyền Johnson, Morgenthau đã công khai chỉ trích Chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến mà ông tin rằng sẽ gây nguy hiểm cho vị thế cường quốc của Mỹ, và Johnson đã sa thải ông.

Morgenthau và Kissinger đều chống lại việc mô tả mình là những người thực hành Realpolitik — Kissinger dội lại trước thuật ngữ này — nhưng Realpolitik đã chứng tỏ là một khái niệm linh hoạt đáng kể kể từ khi nó xuất hiện, ở Phổ (Prussia) vào thế kỷ XIX. Các nhà tư tưởng chính trị vật lộn với sự trỗi dậy của Phổ trên một lục địa đông nghẹt những cường quốc cạnh tranh đã đưa ra một số tư tưởng chiến lược để nghiên cứu. Trong một xã hội tư sản ngày càng phát triển, ngoại giao không còn có thể được điều chỉnh theo ý thích bất chợt và sự ganh đua của một triều đình; chính sách đối ngoại thận trọng đòi hỏi phải sắp xếp mọi thứ theo ý của nhà nước — hỗ trợ công, thương mại, luật pháp — để thể hiện hình ảnh quyền lực đối với các đối thủ của họ. Điều trớ trêu là những học thuyết này có nguồn gốc từ một nỗ lực để hệ thống hóa một cái gì đó mà những người theo họ tin rằng các chính khách Anh-Mỹ đã làm theo bản năng.

Biên tập viên của New Republic, Walter Weyl, nhớ lại nhận định của một giáo sư người Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất,

“Người Đức chúng tôi viết nhiều tập về Realpolitik nhưng hiểu nó không hơn gì những đứa trẻ trong nhà trẻ. Các bạn, người Mỹ hiểu quá rõ để nói về nó.”

Nước Mỹ chưa bao giờ thiếu các chính khách có khả năng truyền đạt tầm nhìn của họ về lợi ích quốc gia cho công chúng. Nếu Kissinger là một người theo chủ nghĩa hiện thực, thì theo nghĩa này — ưu tiên cho khía cạnh kiến tạo hình ảnh của chính sách đối ngoại. Morgenthau, mặc dù cũng chú trọng đến danh tiếng quyền lực của một nhà nước, tin rằng danh tiếng không thể khác biệt quá nhiều so với khả năng thực thi quyền lực của một nhà nước. Nếu Hoa Kỳ Làm đảo lộn trạng thái cân bằng mong manh này, như ông tin rằng Mỹ đang làm ở Việt Nam, các quốc gia khác, thực tế hơn trong đánh giá của họ, sẽ tận dụng được lợi thế. Điều tốt nhất mà một người theo chủ nghĩa hiện thực có thể làm là thích ứng với hoàn cảnh, làm việc hướng tới lợi ích quốc gia theo định nghĩa hẹp, trong khi các quốc gia khác làm việc vì lợi ích của họ. Những quan niệm duy tâm về sự tiến bộ của loài người không có chỗ trong kế hoạch của ông. Đối với Morgenthau, Gewen viết, “chiến tranh không phải là không thể tránh khỏi trong các vấn đề quốc tế,” nhưng “chuẩn bị cho chiến tranh là như vậy.” Các cuộc chiến do những người theo chủ nghĩa hiện thực tiến hành sẽ ít tàn phá hơn những cuộc chiến do những người theo chủ nghĩa duy tâm tiến hành, những người tin rằng bản thân họ đang đấu tranh cho hòa bình toàn cầu.

Morgenthau đã rất thất vọng khi Kissinger biện luận cho cuộc chiến Việt Nam trước công chúng, mặc dù đã thừa nhận riêng với ông rằng Hoa Kỳ không thể thắng. Phải nhờ đến nhà lý luận chính trị Sheldon Wolin — một người con khác của những người gốc Do Thái đã chiến đấu trong chiến tranh và học tại Harvard cùng với William Yandell Elliott — mới có thể mổ xẻ đầy đủ bản năng tham danh vọng của Kissinger. Wolin nhận xét bề ngoài, Kissinger có vẻ không phù hợp với Nixon, một người chống giới ưu tú. Nhưng sự kết hợp rất hoàn hảo: Nixon cần một người có thể nâng chủ nghĩa cơ hội của ông lên một tầm cao hơn của mục đích và khiến ông ta cảm thấy mình là một nhân vật vĩ đại trong bộ phim lịch sử. Như Wolin đã viết, “Điều gì có thể an ủi cho tâm hồn cằn cỗi và không mạch lạc đó hơn là được nghe giọng nói uy quyền của Ts. Kissinger, người đã nói rất thường xuyên và hiểu biết về ‘ý nghĩa của lịch sử.’” Sau đó, Kissinger thích đề cập đến những e ngại của mình về việc nhận làm việc với Nixon: ông đã rất thành công trong việc huy động phả hệ học tập của mình ở Washington mà ông có thể có được bổ nhiệm vào vị trí tương tự ngay cả trong trường hơp ứng cử viên Đảng Dân chủ, Hubert Humphrey, trở thành Tổng thống.

Ngay từ năm 1965, trong chuyến thăm Việt Nam đầu tiên, Kissinger đã kết luận rằng chiến tranh Việt Nam không có chính nghĩa, và Nixon cũng tin như vậy. Tuy nhiên, họ đã âm mưu kéo dài cuộc chiến ngay cả trước khi vào được Tòa Bạch Ốc. Trong cuộc đàm phán hòa bình Paris, vào năm 1968, Kissinger, người ở đó với tư cách cố vấn, đã chuyển thông tin về cuộc đàm phán cho ban vận độc tranh cử của Nixon, đã bắt đầu lo ngại rằng việc Johnson tiến tới một thỏa thuận sẽ đem chiến thắng bầu cử về cho đảng Dân chủ. Ban vận dộng tranh cử của Nixon sau đó đã sử dụng thông tin này trong các cuộc nói chuyện riêng với người miền Nam Việt Nam để khuyên họ không tham gia vào các cuộc đàm phán.

Thắng cử hứa hẹn “một kết thúc danh dự cho cuộc chiến”, Nixon muốn tỏ ra đang theo đuổi hòa bình trong khi vẫn gây đủ thiệt hại cho Bắc Việt Nam để đạt được nhượng bộ. Vào tháng 3 năm 1969, ông và Kissinger bắt đầu một chiến dịch ném bom bí mật ở Campuchia,  nơi trú ẩn của du kích quân Việt Cộng và quân chính quy Bắc Việt. Trong bốn năm, Quân đội Hoa Kỳ đã thả bom xuống Campuchia nhiều hơn so với lượng bom rơi xuống toàn bộ khu vực Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch ném bom Campuchia đã giết chết ước tính hàng trăm nghìn dân thường, thúc đẩy sự nổi dậy của Pol Pot, và tàn phá các vùng nông thôn rộng lớn đến không thể phục hồi. Nó cũng không đạt được các mục tiêu chiến lược đến mức hơn một sử gia đã tự hỏi liệu Kissinger — người đã tự mình điều chỉnh lịch trình của các cuộc ném bom và phân bổ máy bay — có động cơ nào khác hay không. Nhưng, như Grandin viết, “Ông ấy đã chế tạo ra cỗ máy chuyển động vĩnh viễn của riêng mình; mục đích của sức mạnh Mỹ là tạo ra nhận thức về mục đích của Mỹ.”

Gewen đôi khi bảo vệ thanh tích của Kissinger một cách gay gắt hơn chính Kissinger đã tự bao che mình. Ông ta lập luận những tuyên bố về sự cần thiết phải duy trì “uy tín” bắt nguồn từ những lo ngại chính đáng về việc bảo đảm một trật tự toàn cầu do Hoa Kỳ lãnh đạo. Nhưng, như Morgenthau đã thấy, lập luận của Kissinger dựa trên một tính toán sai lầm tai hại về khả năng của Mỹ. Làm thế nào để uy tín của Hoa Kỳ được nâng cao khi tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại một cường quốc hạng tư? Làm thế nào, diễn giải kiểu John Kerry, bạn có yêu cầu ba mươi nghìn lính Mỹ chết để ba mươi nghìn lính trước họ không chết một cách vô ích?

Đúng như vậy, mỗi sáng kiến tiếp theo của Mỹ đã làm xói mòn uy tín Mỹ hơn là củng cố nó. Ngay cả trận ném bom Giáng sinh xuống miền Bắc Việt Nam, vào năm 1972, trận lớn nhất trong cuộc chiến, cũng không thể thuyết phục Bắc Việt đàm phán lại. Viên chức Bộ Ngoại giao trẻ tuổi John Negroponte đưa ra  đề nghị mở cuộc thảo luận sau khi tan cuộc mà Kissinger không bao giờ tha thứ: “Chúng ta đã ném bom khiến Bắc Việt chấp nhận nhượng bộ của chúng ta.”

Gewen cũng bảo vệ ý tưởng của Kissinger rằng mọi sự kiện chính trị ở bất kỳ đâu trên thế giới đều cần có một câu trả lời ở một nơi khác, một quan điểm mà trên thực tế, làm mọi con tốt (pawn) trên bàn cờ giống như là một nữ hoàng (queen) bị đe dọa. Khi Nixon và Kissinger ủng hộ chiến dịch diệt chủng của Tổng thống Pakistan Yahya Khan chống lại Đông Pakistan, vào năm 1971, họ đã làm như vậy để cho Liên Xô thấy rằng Mỹ “cứng rắn”. Bốn năm sau, việc Kissinger ký tên vào chiến dịch diệt chủng của Tổng thống Indonesia Suharto ở Đông Timor nhằm báo hiệu rằng Mỹ sẽ không nghi ngờ gì khi thưởng cho những người đã tiêu diệt Cộng sản trong tầm tay của họ. Nhìn lại, quan điểm cho rằng tất cả những gì Mỹ làm sẽ được các đối thủ và bạn bè của họ ghi nhận và ủng hộ một cách hợp lý dường như là một biểu hiện của lòng tự yêu mình về địa chính trị. Vào thời điểm đó, tại một phiên điều trần tại Thượng viện, thượng nghị sĩ 38 tuổi Joe Biden đã cáo buộc Kissinger cố gắng truyền bá “Học thuyết Monroe toàn cầu”.

[Học thuyết cảnh cáo các quốc gia châu Âu rằng Hoa Kỳ sẽ không dung thứ cho việc tiếp tục thực dân hóa hoặc chế độ quân chủ bù nhìn trong thông điệp hàng năm của Tổng thống James Monroe gửi tới Quốc hội Mỹ vào tháng 12 năm 1823. TGT]

Với sự kiên định của Gewen đối với chủ nghĩa hiện thực của Kissinger, thật kỳ lạ là ông không tập trung nhiều hơn vào những giai đoạn thực dụng nhất trong sự nghiệp của Kissinger — việc theo đuổi mối quan hệ với Liên Xô, mở cửa quan hệ với Trung Hoa và phát triển “ngoại giao con thoi” để ngăn chặn cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973 — vốn vẫn được ca tụng khắp nơi như những thành tựu ngoại giao quan trọng. Détente  đòi Kissinger phải thắng thế trước những quan điểm cứng rắn đối với giới lãnh đạo Liên Xô khi nhóm theo ý thức hệ nghiêng về sự thống trị thế giới và coi Điện Kremlin của Leonid Brezhnev là nơi tập trung các tác nhân duy lý. Thay vào đó, Gewen dường như thường bị lôi kéo để bảo vệ Kissinger ở những thời điểm trong sự nghiệp mà việc bảo vệ là khó khăn nhất. Ông ấy mở đầu cuốn sách với một chương dài về việc Mỹ dính líu đến Chile, mà đỉnh điểm là cuộc đảo chính, năm 1973. Khi Chile bầu Salvador Allende, một nhân vật theo chủ nghĩa xã hội, làm Tổng thống, vào năm 1970, Nixon và Kissinger quyết định loại bỏ ông ta. Việc Allende được dân chúng bầu chọn chỉ khiến ông ta trở nên nguy hiểm hơn trong mắt Nixon và Kissinger. Kissinger nhận xét:

“Tôi không hiểu tại sao chúng ta phải đứng nhìn một đất nước trở thành Cộng sản vì sự vô trách nhiệm của chính người dân của họ.”

Henry Kissinger

Gewen cho rằng lời nói chua cay này thể hiện tình thế tiến thoái lưỡng nan trong mối quan hệ giữa Kissinger với dân chủ và quyền lực. Gewen viết: “Tuyên bố có vẻ rất khác nếu người ta nghĩ đến sự trỗi dậy của Adolf Hitler”, và gợi ý rằng xã hội chủ nghĩa Chile  nên được gộp chung với Cộng hòa Weimar như một ví dụ về việc một người dân tự bỏ phiếu từ bỏ chế độ dân chủ. Gewen liệt kê những tội lỗi và điểm yếu của Allende — gồm việc tăng lương “nguy hiểm” cho công nhân và truyền bá cho giới trẻ “các giá trị nhân bản của xã hội chủ nghĩa” — nhưng không xem xét kỹ  như vậy đối với người kế nhiệm Allende, nhân vật độc tài cánh hữu General Augusto Pinochet, người mà Mỹ đã giúp củng cố vị trí quyền lực, và ai, nếu người ta nghĩ đến sự trỗi dậy của Hitler, có vẻ như là một kẻ thích hợp hơn.

Một câu hỏi tương tự là khẳng định của Gewen rằng “điều không thể bác bỏ là Nixon/Kissinger e rằng Chile dưới thời Allende là viên đá lót đường trên con đường để Liên Xô trở thành bá chủ.” Trên thực tế, Liên Xô đã giảm bớt sự cạnh tranh với Mỹ. trong thế giới đang phát triển, nơi mà việc chống lại Trung Hoa hiện đã làm suy yếu các nguồn lực của họ. Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở Cuba năm 1962 và một nỗ lực thất bại trong việc thiết lập một căn cứ tàu ngầm ở Cuba, 8 năm sau đó, đã làm cạn kiệt hy vọng phát triển một nhà nước ủy nhiệm thực sự ở châu Mỹ Latinh. Ban lãnh đạo Điện Kremlin đã miễn cưỡng tăng cường viện trợ cho Chile, biết rằng Allende sẽ chi số tiền đó cho hàng hóa nhập cảng rất cần thiết của Mỹ.

Nếu Allende đại diện cho một mối đe dọa, thì điều đó gần như chắc chắn không liên quan đến bất kỳ tham vọng nào của Liên Xô hơn là với những lập luận mạnh mẽ của riêng ông ta về sự phân bổ nguồn lực toàn cầu vượt xa bất cứ điều gì mà Washington đã chuẩn bị sẵn sàng. Không giống như Morgenthau và Kennan, những người coi thế giới phi kỹ nghệ như một vũng lầy không đáng để Mỹ chú ý, Kissinger coi chủ nghĩa xã hội Thế giới thứ ba là một kẻ thù nghiêm trọng, có khả năng làm xáo trộn cuộc đối đầu mỏng manh của Hoa Kỳ với Liên Xô. Ông và Nixon giả định, một cách chính xác, rằng họ có thể ủng hộ một cuộc đảo chính chống lại Allende với ít phiền phức nhất, giống như Eisenhower, hai thập kỷ trước, đã lật đổ  vị Tổng thống Guatemala  Jacobo Árbenz, đã được bầu lên một cách dân chủ,. Tuy nhiên, cảnh tượng Allende bị loại bỏ có một hậu quả không lường trước được: nó thắp lên ngọn lửa của một trong những sự  khó chịu lâu dài nhất của Kissinger, phong trào nhân quyền trên thế giới.

Năm 1972, khi nhà báo người Ý Oriana Fallaci yêu cầu Kissinger giải thích về sự nổi tiếng của mình, ông nói, “Điểm chính xuất phát từ thực tế là tôi luôn hành động một mình.” Giới phê bình và những người bảo vệ ông đều có xu hướng chấp nhận sự tự đánh giá này, nhưng hồ sơ của Kissinger cho thấy một nhân vật trần tục hơn, người đã đồng hóa với chính sách đối ngoại đang thịnh hành.

Những hành động gây tranh cãi nhất của ông ấy đều có tiền thân rõ ràng. Tổng thống Johnson cũng đã bí mật ném bom Campuchia, và vào năm 1965, ông ta lên án tội ác diệt chủng của Suharto ở Indonesia, về tầm vóc vượt xa tội ác mà Kissinger đã phê duyệt ở Đông Timor. Các biện pháp can thiệp do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã định hình trước việc loại bỏ Allende bao gồm hàng chục lần chỉ ở Mỹ Latinh và vùng Caribbean.

Kể từ khi rời nhiệm sở, Kissinger hiếm khi thách thức sự đồng thuận, chứ chưa nói đến việc đưa ra những đánh giá bất tiện về sự nghiệp sau này của George Kennan, người đã cảnh cáo Tổng thống Clinton chống lại sự bành trướng sau khi Liên Xô sụp đổ. Việc đo lường bản năng của Kissinger chống lại những người theo chủ nghĩa hiện thực thực thụ, chẳng hạn như nhà khoa học chính trị John Mearsheimer của Đại học Chicago, là một bài học. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mearsheimer cam kết thực hiện nguyên tắc “cân bằng quyền lực” đến mức ông đưa ra đề nghị nổi bật là cho phép phổ biến vũ khí hạch tâm ở một nước Đức thống nhất và trên toàn Đông Âu. Kissinger, không thể nhìn xa hơn chân trời của Chiến tranh Lạnh, không thể hình dung bất kỳ mục đích nào khác cho quyền lực của Mỹ ngoài việc theo đuổi quyền lực tối cao trên toàn thế giới.

Mặc dù ông đã chỉ trích chủ nghĩa can thiệp của khối tân bảo thủ, nhưng hiếm có cuộc phiêu lưu quân sự nào của Mỹ, từ Panama đến Iraq, đã không được ông chấp thuận. Trong tất cả những suy ngẫm của mình về trật tự thế giới, ông đã không nghĩ về sự trỗi dậy của Mỹ với tư cách là siêu cường toàn cầu thực sự là như thế nào và không lường trước được. Không có gì trong truyền thống cộng hòa của nước Mỹ trước Chiến tranh thế giới thứ hai đòi hỏi điều đó.

Mặc dù Kissinger có thể không bắt nguồn từ những giới luật mà ông được biết đến nhiều nhất, nhưng thật khó để tìm thấy những cuộc thảo luận về chúng mà không đề cập đến sự nghiệp của ông. Như Grandin đã cho thấy, học thuyết một phần trăm của Phó Tổng thống Dick Cheney — ý tưởng rằng một quốc gia phải hành động chống lại kẻ thù  ngay cả khi họ chỉ có cơ hội cỏn con để có thể làm hại đất nước — hoàn toàn là tư tưởng Kissinger, và khi có lời đồn rằng Karl Rove nói, “Chúng ta tạo ra thực tế của riêng mình”, là ông lặp lại những lời của Kissinger từ bốn mươi năm trước. Năm 2010, các luật sư của Chính quyền Obama đã dùng tiền lệ Nixon và Kissinger xâm nhập Campuchia như một phần lập luận của họ để thiết lập cơ sở pháp lý cho các vụ giết nghi phạm khủng bố người Mỹ bằng máy bay không người lái ở bên ngoài chiến trường Afghanistan. Một bản ghi nhớ của Bộ Tư pháp cho rằng hành động quân sự ở những nơi như Yemen là hợp lý khi các mối đe dọa được công nhận đã lan rộng ở đó. Vụ ám sát gần đây của Chính quyền Trump đối với chỉ huy trưởng Iran Qassem Suleimani, rõ ràng là nhằm mục đích khiến người Iran khiếp sợ phải ngừng các hoạt động ở Trung Đông, chiếu theo đúng nỗi ám ảnh của Kissinger về “uy tín”. Ở cuối cuốn sách của mình, Gewen viết,

“Sử gia có thể học được rất nhiều điều về những năm sau Thế chiến thứ hai chỉ đơn giản bằng cách nghiên cứu những thăng trầm về danh tiếng của Kissinger.”  

Barry Gewen

Người ta có thể đi xa hơn: biểu hiện chính của “chủ nghĩa hiện thực” của Kissinger nằm ở việc quản lý danh tiếng của bản thân, biến một buổi biểu diễn thông thường của ông thành một biểu tượng của trình độ kỹ thuật ngoại giao. Đôi khi có vẻ như đã có một sự ràng buộc vô thức giữa Kissinger và nhiều người gièm pha ông ta. Nếu tất cả tội lỗi của nền an ninh của quốc gia Hoa Kỳ có thể được dồn vào một người, tất cả các bên đều có được những gì họ cần: vị thế của Kissinger như một nhân vật lịch sử thế giới được bảo đảm, và những người chỉ trích ông có thể coi chính sách đối ngoại của ông là ngoại lệ chứ không phải là quy tắc. Sẽ thật thoải mái khi tin rằng những người theo chủ nghĩa tự do của Mỹ có khả năng nhìn nhận rằng chính trị không phải là vấn đề của phong cách cá nhân, và thành tích sẽ chiếm ưu thế, nhưng sự sùng bái lâu dài đối với Kissinger cho thấy một sự có thể ít dễ chịu hơn: Kissinger là chúng ta. ️

Tác giả | Thomas Meaney giảng dạy tại Đại học Humboldt Berlin. Ông là một ngòi bút người Mỹ, viết phóng sự và tiểu luận cho tạp chí New Yorker, Tạp chí London Review of Books, và Le Monde Diplomatique, cùng các tạp chí khác. Năm 2017, ông tốt nghiệp tiến sĩ lịch sử quốc tế tại Đại học Columbia. Luận án của ông, “The American Hour,” đã khảo sát suy nghĩ của hai thế hệ giới tinh hoa chính sách Mỹ và các nhà khoa học xã hội phản ứng với hiện tượng phi thực dân hóa.

Dự án hiện tại của Meaney là một nghiên cứu về cuộc khủng hoảng chính trị châu Âu năm 2015 về vấn đề di cư và hậu quả của nó. Nghiên cứu này cho một lịch sử chính trị  cao cấp liên quan đến câu hỏi di cư: nó đã được các quốc gia và chế độ đối tác ở Châu Âu hiểu, tranh chấp và biến đổi như thế nào. Meaney đã đi nghiên cứu rất nhiều nơi cho dự án — từ Niger đến Libya. Ông dự định viết phần cuối của luận văn trong thời gian làm việc tại viện Mã Planck, sau khi xem xét các phản ứng trí tuệ/chính trị hứa hẹn nhất đối với vấn đề di cư và những cách nghĩ mới về tương lai của nó.

© 2021-2023 DCVOnline   

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net” 


Nguồn: The Myth of Henry Kissinger | Thomas Meaney | The Newyorker | May 18, 2020 Issue. Đã đăng trên ấn bản tạp chí Newyorker số ra ngày 18 tháng 5 năm 2020, tựa đề “The Wages of Realism.” Đăng lần đầu ngày 18 tháng 11, 20121

Đọc thêm: Hubertus Hoffmann, “Why Kissinger and his Iron Mentor Kraemer Split”, globalo, September 12, 2016.