Ô N G B Á T S Á C H

V Ũ  T H Ư  H I Ê N

Ngày Mạc Lân đi khỏi thế gian, tôi không có mặt.
Ở bên kia trái đất, tôi âm thầm chùi nước mắt khóc bạn, một mình.

Có một thời, xin lỗi, tôi nói thế không đúng, vì còn có nhiều thời dắt dây theo nó, cái sự thích ấy chỉ ở vài người thôi, nhưng nó lại được tôn lên thành giáo lý, thành Kinh Thánh, mới khổ. Anh có muốn làm tín đồ của cái đạo ấy hay không bề ngoài có vẻ là tuỳ anh, nhưng anh mà có ý chống lại nó, hoặc tỏ ra không muốn tuân theo nó thì vài người ấy sẵn sàng cho anh ăn đòn, thậm chí cho anh đi tu huyền năm này sang năm khác, cho tới khi họ cho rằng anh đắc đạo rồi mới cho hoàn tục.

Vài người là nói chung, có khi chỉ một, hai, nhiều lắm là ba, nhưng mấy người này lại ngồi chót vót trên đỉnh cao quyền lực để bắt cả dân tộc tuân phục.

SAIGON 1965–66 – Cầu Chữ Y. Nguồn: James Kidd Collection – Vietnam Center and Archive

Kẻ không thích cái mà vài người và lũ hậu duệ của họ thích liền bị đóng nóng hai chữ “phản động” lên trán bằng thứ mực vô hình không thể tẩy xoá. Tên “phản động” lập tức được đưa tới trường bắn, nhẹ hơn là bị đưa tới những nơi không ai muốn đến, nhẹ nhất là bắt làm những việc không ai muốn làm.

Cái thích của mấy người ấy được trưng lên để che lấp hình thái cai trị, chứ không phải chính nó.

Cái sự không thích của những kẻ bất trị về thực chất nhằm vào chính cái sự cai trị nọ.

Người đứng bên ngoài cuộc đấu gọi cái lũ không biết thích đúng lúc và đúng chỗ là một lũ gàn.

Một tên trong lũ gàn ấy tôn một tên gàn có hạng lên bậc trưởng thượng là “ông bát sách”.

Tên gàn nọ là nhà báo Vũ Huy Cương. Còn kẻ được Cương tôn thành “ông bát sách” là Mạc Lân. Cả hai là bạn tôi.

Vũ Huy Cương từng đi tù trong cái gọi là vụ án “nhóm xét lại chống Đảng”, một anh chàng tếu táo, rất khoái đặt biệt hiệu cho bạn mình.

Tôi hỏi, “Tại sao cậu lại gọi Mạc Lân là “ông bát sách”.”.

– Thế cậu không biết cái “gàn bát sách” là gì à?  “Gàn bát sách” là cách nói dân dã chỉ cái sự gàn cao độ, cái siêu gàn đứng trên tất tật mọi thứ gàn ấy mà, Cương trả lời

Tôi im. Vũ Huy Cương đặt biệt hiệu cho bạn không có ý xấu, tôi biết.

Xem hình trong bài tổ tôm thì con bát sách là đàn bà, Mạc Lân lại là đàn ông. Mạc Lân gàn thì có gàn thật, nhưng cũng chỉ như những tên gàn khác, theo tôi đánh giá. Ắt hẳn, theo cách nhìn của Vũ Huy Cương, Mạc Lân phải là người rất chi là đặc biệt trong lũ gàn.

Mà Mạc Lân là ai?

Mạc Lân (Lê Văn Lân 1928–2006). Ảnh: Hồng Vĩnh.)

Vào cái thời những chàng trai hừng hực “cầm gươm ôm súng xông tới” thì Mạc Lân tót ngay lên tàu vào Nam để choảng nhau với quân xâm lược. Bây giờ có nhiều người nói ngày ấy đánh Pháp làm gì, cứ để nó ở với ta có phải hơn không. Nếu nói thế là gàn thì những người gàn như chàng vào thời ấy nhiều vô số kế. Chuyện chàng đi thế nào, đánh đấm ra sao, chàng không nói. Chỉ biết chàng trở về đi cà nhắc, với cái chân què, kết quả một trận loạn chiến trên cầu chữ Y ở Sài Gòn.

Tên cúng cơm của Mạc Lân là Lê Văn Lân, con trai trưởng nhà văn Lê Văn Trương lừng lẫy một thời. Tính về đầu sách, không nhà văn nào vượt qua Lê Văn Trương. Tôi thích nhất truyện Người Anh Cả trong rất nhiều truyện ngắn truyện dài của ông. Mạc Lân theo nghiệp viết lách của cụ thân sinh là lẽ đương nhiên. Cái sự truyền nối ấy có nhiều, trong mọi gia đình.

Trong một trận chiến nào đó trong rất nhiều trận mà Mạc Lân có mặt, Lân không kể, nhưng người khác kể, rằng khi ôm người đồng đội hấp hối tên Mạc trong vòng tay, Lân bảo:

– Mày không chết, Mạc ạ. Mày sẽ mãi mãi sống cùng tao.

Mạc sống tiếp để Lân trở thành Mạc Lân.

Cao lớn, xương xẩu, Mạc Lân lại là bạn chí cốt của Dương Tường lẻo khoẻo. Mạc Lân hùng hổ, ăn to nói lớn. Dương Tường hiền một cục, ăn nói nho nhã. Thế mà hai đối cực lại chơi với nhau thân thiết hơn bất cứ cặp bạn nào trong chúng tôi, một lũ gàn .

Còn hơn thế, Mạc Lân và Dương Tường là hai tên đầu sỏ trong những tên nằm trong sổ đen một thời, bắt đầu từ việc hai người đưa vòng hoa ca ngợi Dương Bạch Mai trong đám tang ông. Mà Dương Bạch Mai bị nhà cầm quyền ghét lắm. Ông là người cộng sản bướng bỉnh ngang nhiên đứng về phía dân đen đối mặt với nhà cầm quyền xưng danh cộng sản.

Nằm trong “Xà lim 1”, tục gọi “Xà lim Án chém”, tôi chắc hai ông bạn mình cũng đang còng queo đâu đó trong hai xà lim khác.

Hoá không phải.

Viên cục phó Cục chấp pháp gày còm trong áo vét dạ đen đã sờn cổ và tay áo phụ trách việc tra hỏi tôi thông báo với giọng khoái trá:

– Bè bạn anh ùn ùn kéo tới nhận tội, khai hớt về anh rùi. Anh có chối cũng bèng vô ích. Hai thèng Mạc Lân, Dương Tường vừa tới đó, khóc sướt mướt xin khai về anh. Khai xong, tui cho chúng hắn diề. Với những kẻ biết miềng sai trái, tự nguyện khai báo, đảng bắt chúng mần chi.

Tôi bật cười. Tôi nhìn anh ta như nhìn một chú nhóc. Anh ta ngớ ra, có gì trong câu nói của y làm tôi tỏ ra thú vị đến thế.

– Tao có đến thật, Mạc Lân cười toác. Nó nói không sai. Tao có đến, nhưng chỉ để nói: “Tôi, Mạc Lân đây, các anh có bắt thì bắt đi”!

Mà Mạc Lân chẳng đến ngay khi tôi bị bắt. Biết số phận mình không khác tôi, anh toan đến Bộ Nội vụ để bị bắt cùng. Gặp cơn bão, một cành cây to rơi xuống làm cái chân què của anh thêm què, phải đưa vào bệnh viện. Mà anh thì đang nóng lòng chờ bị bắt. Người ta lại không bắt, mới kỳ. Rất có thể khi anh ra viện thì người ta đã khép lại danh sách bắt bớ.

Mạc Lân không rơi vào tù với tôi là sự lạ. Chỉ có thể giải thích là tại cái số may.

Về Dương Tường thì người nhà nước có lý:

– Cho thèng ni vô tù để hắn mần thơ à?

Trong chuyện này viên chấp pháp đúng hoàn toàn.

Dương Tường, không hề, và chẳng bao giờ, dính líu với chính trị. Anh mắc bệnh làm thơ. Anh nhìn những cái chúng tôi không thấy, thí dụ như cái thành phố thơ mộng của chúng tôi khi chiến tranh ập đến bỗng biến thành “cái âm hộ lở loét”. Mặc cho chúng tôi cười giễu, anh cứ làm cái thứ thơ dở dở ương ương ấy cho tới khi được độc giả tôn anh lên hàng thi bá.

Tôi nằm tù lâu, không hề biết ở bên ngoài những bức tường kiên cố với vọng gác ba bề bốn bên của Hoả Lò có chuyện gì xảy ra.

Mạc Lân hoá ra chỉ bị lườm. Lườm là cách nói của chúng tôi chỉ những người không bị trấn áp thẳng tay. Anh bị mất việc, mất cách nào tôi không biết. Ra tù rồi, nghe anh em kể mới biết nhà nước chịu không nổi anh chàng ba gai, bèn cho về hưu non ở tuổi 41.

Hết làm cán bộ, lương hưu còi cọc, Mạc Lân kiếm thêm bằng nghề viết thuê.

Viết thuê có cái hay của nó, mình phải vận dụng thói quen, cả trí tưởng tượng nữa, để tạo ra sách, Mạc Lân giải thích:

– May còn có thằng thuê. Chứ không thì chẳng biết xoay xở thế nào. Bất đắc dĩ lắm mới phải làm cái việc mạt hạng ấy. Không làm thì biết làm cái gì. Văn chương hoá ra là một cái nghề, mày ạ. Nó không phải chỉ là sáng tác. Nó còn là cái cần câu cơm.

– Tao hiểu. Tao đã từng làm.

– Mày biết đấy: bịa cái gì chứ bịa cái kiểu ấy khó lắm. Viết theo yêu cầu của khách nhất nhất phải toàn người tốt, việc tốt, đúng phóc chuẩn mực thời thượng. Phải gô cổ lũ nhân vật bịa đặt vào khuôn mẫu khách muốn. Cực lắm.

Người thuê viết không phải cơ quan nhà nước. Người thuê cần cái danh. Anh giữ chữ tín, không bao giờ nói đến những cuốn sách viết thuê.

Tôi hỏi, “Chúng nó trả có khá không?”

– Không. Bèo lắm. Chúng nó cũng là cán bộ, cũng nghèo rớt mồng tơi, tuy không đến nỗi mạt rệp, nhưng phải bấm bụng chắt bóp để có tiền thuê tao viết, hy vọng rồi sẽ có cái tiếng, được trên biết đến, được đề bạt, được tăng lương…

Đang lúc Mạc Lân không có khách thuê thì vợ tôi, kỹ sư xây dựng, kiếm được cho anh chân gác nhà ở một chung cư vừa xây xong.

– Đó là thời gian tao sống sướng nhất, mày ạ – Mạc Lân mơ màng – Mơ chả thấy.

Khi Mạc Lân mơ màng, đôi mắt dữ của anh mờ đi, hiền hẳn.

– Chỗ ở rộng rãi nhá, điện nước tha hồ nhá, cứ nằm dài mà đọc – anh tả – Sách không thiếu, một ông bạn thư viện cho mượn, không phải trả đúng hạn. Người ta phân nhà không ào ào như phát chẩn đâu. Còn phải họp lên họp xuống chán chê mê mỏi rồi mới quyết cho ông A hay bà B căn hộ nào ở nhà nào… Có khi cả tuần tao mới phải đi bàn giao một lần.

– Bàn giao thế nào? Chỉ mình mày hay còn ai nữa?

– Mình tao thôi. Công việc của tao là dẫn người nhận nhà đi xem căn hộ – đèn cháy sáng nhé, nước chảy xoè xoè nhé, toa–lét giật phát là thông nhé, cửa rả chắc chắn, ổ khoá trơn tru, không hóc nhé…

Vợ tôi kể:

– Được tin có việc làm, anh ấy vui lắm, như chưa bao giờ vui thế. Y như trẻ con ấy.

– Một hôm, có khách nhận nhà – Mạc Lân kể – Tưởng ai, hoá ra thằng Việt Phương, mày nhớ nó chứ? Tao bảo nó: “Sau vụ Cửa Mở” mày vẫn thuộc về giai cấp “hai lỗ đít” à?

Giai cấp “hai lỗ đít” chỉ những người được “phân” hai căn hộ liền nhau, có hai hố xí.

Nhà thơ đỏ mặt, cười khì.

Một vụ trưởng quen đến nhận nhà, cũng thuộc giai cấp “hai lỗ đít”, anh dặn:

– Mày là quan có tu–bin, tao biết. Nhớ dặn thằng tài xế: chạy vào khu này phải có ý một chút. Quần chúng không thích được ăn bụi đâu – ho lao nhiều lắm rồi đấy. Tao đi bán máu ở Bạch Mai gặp cả lũ.

Tất nhiên, với những người khác anh xử sự chững chạc, đúng tư cách người gác nhà.

Mạc Lân có những người bạn làm quan “nhưng mà tốt”. Một phó chủ tịch thành phố Hà Nội, bạn chiến đấu cũ của Mạc Lân, thấy bạn mình khi ở nhờ, khi ở thuê, chỗ nào cũng là chui rúc, đã vượt mọi mọi nguyên tắc, chạy cho Mạc Lân một căn hộ nhỏ ở Cầu Giấy.

Thời gian qua đã lâu, có nói tên anh bạn ấy chẳng chết ai, nên tôi ghi tên anh ở đây – Ngô Quốc Hạnh. Cùng trang lứa với Mạc Lân, Hạnh có thể không còn sống, đoạn ghi này là để con cháu Hạnh biết mà tự hào về cha ông mình.

Ra tù rồi, tôi lăn lộn với đủ thứ việc không bao giờ nghĩ tới. Đơn độc vào Sài Gòn sau chuyến Nam tiến của Mạc Lân hai mươi lăm năm, không người quen, không thân thuộc, tôi được vùng đất xa lạ này mở lòng đón nhận, khác hẳn những nơi tôi từng biết. Đời tôi lên hương từ đấy.

Mỗi lần ra Hà Nội tôi đều đến thăm Mạc Lân. Nhà anh là một căn phòng hẹp trong mấy căn phòng nối tiếp nhau trong cái gọi là nhà cấp bốn ở ngoại ô. Lân đi vắng. Tôi đến đúng lúc mấy bà nội trợ đang cãi nhau ỏm tỏi tiền điện. Ngôi nhà nhiều hộ chỉ có một công–tơ chung.

Tôi lẳng lặng bỏ đi, mua một cái công–tơ mới cho gia đình Mạc Lân.

Thay vì một nụ cười, tôi được một cái lườm:

– Ai bảo mày mua? Tao không khiến.

Cứ như thể tôi vừa phạm một cái tội. Thì ra Mạc Lân kỵ nhất cái sự thương hại.

– Thằng đàn ông được người ta thương hại là thằng đàn ông đã chết. Mà tao còn sống sờ sờ.

Một chuyện nữa. Nhìn cái xe đạp cà tàng của Mạc Lân xích rão, lốp bó dây gai, bàn đạp là hai cái que nhọn hoắt, tôi bảo:

– Phải sắm cái khác thôi, Lân ơi. Nó tã quá rồi.

Lân trợn mắt:

– Mày định mua cho tao cái mới chứ gì? Tao đếch thích thằng nào thương hại tao, nói cho mày biết.

Tôi luống cuống cãi:

– Tao có thương hại mày đâu. Nhưng đi thế nguy hiểm lắm. Để tao gọi thằng thợ đầu xóm vào đây cho nó chỉnh lại mấy thứ xộc xệch… Tao là tay thợ, tao sẽ chỉ cho nó sửa đến nơi đến chốn.

Lân gãi đầu:

– Sửa thì được. Dưng mà tao có việc phải đi bây giờ.

– Lấy xe tao mà đi.

Tôi dẫn anh thợ vào, sẵn đồ nghề, sẵn vật liệu, anh ta thay cả loạt phụ tùng hư hỏng.

Khi Mạc Lân trở về, thấy xe mình chỉ còn cái khung là như trước, anh lắc đầu:

– Mày là thằng quái. Đồ lừa đảo.

Tôi thở phào. Tôi sợ tính khí kỳ quái của Mạc Lân. Thế là gàn chứ còn gì nữa.

May cho tôi, Mạc Lân không nổi giận.

Những chuyện tương tự chẳng xảy ra với mình tôi.

Ngày Mạc Lân đi khỏi thế gian, tôi không có mặt.

Ở bên kia trái đất, tôi âm thầm chùi nước mắt khóc bạn, một mình.

Dương Tường đã thay mặt chúng tôi, những thằng bạn của con người gàn dở đáng yêu, đọc lời tiễn biệt:

“…Người vừa nằm xuống đây đã uống ly đời của mình đến tận cặn, nói cách khác, đã sống hết, sống trọn phần sống của mình, cái phần sống nhiều cay đắng khổ đau hơn vui sướng ngọt bùi, nhiều bất hạnh hơn may mắn, sống kiệt cùng phần sống ấy không ăn gian dù một ngày. Anh chỉ muốn được gọi đơn giản là một người tử tế, như anh trối trăng lại với chúng tôi cách đây vài hôm trước khi chìm vào hôn mê

…Và giờ đây, con người tử tế ấy, Lê Văn Lân tức Mạc Lân, tự vệ thành Hoàng Diệu năm 1945, một trong những chiến sĩ Nam Tiến đầu tiên năm 1946, phóng viên mặt trận của Đại Đoàn 304 trong Kháng chiến chống Pháp đã ra đi.

Không hiển vinh, không hào quang, giản dị chừng nấy thôi.

Hôm nay, đưa tiễn Mạc Lân, chúng tôi đồng thời cũng đưa tiễn tuổi trẻ của mình, cái tuổi trẻ của một thế hệ đã từng sống những ngày gấp ruổi không kịp lấy hơi suốt những chặng đường của Cách Mạng Tháng Tám và hai cuộc chiến tranh, một thế hệ mà, mặc dù đôi lần lỡ bước, vẫn không hề nuối tiếc và, nếu như được sống lại những thời gian qua, ắt cũng vẫn sống đúng lòng mình nguyên vẹn như xưa…

Trước linh cữu Mạc Lân hôm nay, được phép thay mặt bạn bè , tôi chỉ nói lời tạm biệt .

– “… tất cả cũng sẽ gặp lại nhau ở Cõi–Bên–Kia, nơi không còn bon chen, tị hiềm và thù hận, mà chỉ có cực lạc và tình yêu.

Thế nên, hãy nhẹ bước thanh thản mà đi, Mạc Lân ơi!”

Dương Tường

Chợt nhớ một câu triết lý của bạn mình:

– Tiếng Việt của ta hay đáo để. Người ta hay nói “ước mơ” là có lý lắm. Chúng ta thường ước, để rồi thấy cái ước ấy chỉ là mơ thôi.

Đã có một thời như thế. Ghi lại cho khỏi quên.

Mạc Lân ra đi tính đến hôm nay, ngày giỗ anh, vừa tròn mười bốn năm.

Vâng, mười bốn năm đã trôi qua.

Như một cái lá rơi vèo.

14.4.2020

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: Vũ Thư Hiên, Ô N G  B Á T  S Á C H, Facebook, 11 Oct, 2021