Đông Âu bị chiến tranh ảnh hưởng nặng nề đang có phản ứng cứng rắn nhất ở Ukraine

The Economist | DCVOnline

Nền kinh tế Đông Âu còn chịu hậu quả của cuộc chiến trong nhiều chục năm tới

Một bảng quảng cáo viết “Nie Karm Putina” có nghĩa là “Đừng cho Putin ăn” ở Warsaw, Ba Lan vào ngày 25 tháng 4 năm 2022.

Khi Nga xâm lăng Ukraine, nhiều quốc gia Đông Âu đã phản ứng với quyết tâm chiến đấu, và sợ họ có thể là nước sẽ bị xâm lăng sau Ukraine. Chính phủ của họ đã cổ động EU làm tê liệt nền kinh tế Nga và chính họ dùng ngân sách lớn để gửi vũ khí và viện trợ cho Ukraine (một số đã chi nhiều hơn những nước phương Tây). Các quốc gia ở phía đông EU đã đón nhận hầu hết trong số 5,6 triệu người tị nạn chiến tranh. Nhưng hành động đúng đắn phải trả giá đắt, và sự suy thoái kinh tế của việc trở thành những quốc gia tiền tuyến đầu bắt đầu bộc lộ.

Thương mại là nạn nhân đầu tiên. Nga đã và đang là thị trường xuất cảng lớn của một số nền kinh tế trong khu vực. Thương mại với Nga chiếm 6% GDP ở Latvia và Lithuania vào năm 2021 và 1,5% ở Ba Lan và Slovakia. Vào năm 2021, Nga nhận được khoảng 1/10 số hàng xuất cảng không phải của EU từ Ba Lan và các nước Baltic. Hầu hết những trao đổi như vậy có thể bị cắt đứt vĩnh viễn, nhưng họ xem đó là một cái giá đáng để trả. Piotr Arak, người đứng đầu Viện Kinh tế Ba Lan, một tổ chức tư vấn của chính phủ ở Warsaw, cho biết: “Lợi ích chính trị quan trọng của Ba Lan là phương Tây không quay lại làm ăn với Nga.

Giao thương trực tiếp chỉ là một phần của câu chuyện. Những quốc gia phía Đông EU đã tích hợp vào chuỗi cung ứng phía Tây. Nền kinh tế của họ, đặc biệt là của Cộng hòa Czech, Hungary và Slovakia, đang hướng nhiều vào xuất cảng sang Đức. Vì vậy, một ảnh hưởng đến ngành kỹ nghệ của Đức, chẳng hạn như việc cắt giảm khí đốt của Nga, sẽ gây tổn hại nặng nề cho những công ty cung cấp của nước này ở phía đông.

Nhập cảng năng lượng đặc biệt khó khăn. Slovakia và Hungary, hai nước nhập 96% và 58% số dầu của họ từ Nga hồi năm ngoái, nói rằng bất kỳ lệnh cấm vận dầu  nào của EU cũng nên được thực hiện dần dần. Các nước khác chuẩn bị tốt hơn. Các nước Baltic đã chấm dứt nhập cảng khí đốt của Nga vào tháng 4 và hiện dựa vào khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) nhập cảng bằng đường thủy. Ba Lan đã cấm vận than của Nga và giống như hầu hết các quốc gia khác, từ chối yêu cầu của Nga về việc thanh toán khí đốt bằng đồng rúp. Đáp lại Gazprom, công ty cung cấp 40% lượng khí đốt của Ba Lan, đã tạm dừng giao hàng tới Ba Lan (và Bulgaria) vào tuần trước. Nhưng Ba Lan cũng có kế hoạch nhập cảng khí đốt thay thế qua trạm LNG của riêng mình và các đường ống dẫn mới tới các mạng lưới khí đốt của Na Uy và Lithuania.

Không mua năng lượng của Nga có nghĩa là phải trả  giá cao hơn. Điều đó sẽ đặc biệt ảnh hưởng mạnh ở phía đông nghèo hơn của Châu Âu. Lạm phát đã cao hơn ở Đông Âu trước chiến tranh; vào tháng 4, nó đã đạt đến mức hai con số ở nhiều quốc gia. Trong một số, chi phí về năng lượng của người tiêu dùng được cố định theo quy định, giúp trì hoãn ảnh hưởng xấu. Ví dụ: ở Slovakia, giá sẽ chỉ được cập nhật vào tháng Giêng. Nhưng Michal Horvath,  kinh tế trưởng của ngân hàng trung ương cho biết, “dân chúng vẫn chưa cảm thấy giá khí đốt dùng trong nhà  có thể tăng100%.”

Ở Ba Lan, lạm phát đã lên đến mức 12,3% trong tháng 4, một vấn đề nhức đầu đối với đảng cầm quyền, đang phải đối phó với những cuộc bầu cử vào năm tới. Sự hào phóng của chính phủ một phần có lỗi trong việc tăng giá sinh hoạt và ông Arak cho rằng cử tri sẽ đổ lỗi chuyện đó cho chính phủ:

“Trong thời cộng sản, chính phủ đưa ra mức giá cao hơn, thường gây ra các cuộc biểu tình lớn. Đối với đa số người Ba Lan, vẫn rõ ràng rằng nhà nước có trách nhiệm duy trì mức giá.”

Piotr Arak

Để giảm nhẹ áp lực, chính phủ đã giảm thuế giá trị gia tăng trên thực phẩm, khí đốt, nhiên liệu và phân bón. Họ gọi giải pháp kinh tế sắp tới là một “lá chắn chống Putin”.

Các ngân hàng trung ương cũng sẽ phải hành động, đặc biệt là bằng cách tăng lãi suất. Nhưng điều đó sẽ gây ra những hậu quả khó chịu. Ở Ba Lan, nơi có khoảng 90% các khoản cho vay cho những gia đình và doanh nghiệp có tỷ lệ thay đổi, những người có nợ nhà phải chịu nhiều rủi ro. Ngân hàng đã thắt chặt các tiêu chuẩn tín dụng một cách đáng kể. Adam Czerniak, trưởng nhóm nghiên cứu tại Polityka Insight, một tổ chức tư vấn ở Warsaw, cho biết cùng với lạm phát, giá nhà tăng cao và niềm tin kinh doanh giảm sút, điều đó có thể tạo nên một “cơn bão hoàn hảo”. Lãi suất cao hơn và nền kinh tế suy yếu đồng nghĩa với việc nợ chính phủ tăng lên sẽ trở nên đắt đỏ hơn, đặc biệt là ở các nước như Hungary, nơi nợ đã cao.

Chi tiêu cho người tị nạn sẽ tiếp tục đẩy lạm phát cao hơn. Ví dụ về nhà ở. Tại Warsaw, giá thuê đã tăng hơn 30% kể từ cuối tháng Hai. Các dịch vụ công cũng tương tự như vậy. Người tị nạn đã khiến dân số Ba Lan tăng gần 8% kể từ khi cuộc chiến ở Ukraine bắt đầu vào cuối tháng Hai. Điều đó gây áp lực lên việc chăm sóc sức khỏe giáo dục  đã kém từ trước. Tuy nhiên, điều này sẽ được bù đắp một phần với những người mới gia nhập lực lượng lao động địa phương. Ở Slovakia và Hungary, sự cống hiến của NGO và tư nhân đã bù đắp cho sự thiếu hụt các dịch vụ công cho người tị nạn.

Chi phí kinh tế của chiến tranh đối với Đông Âu trông rất kinh khủng. Nhưng điều đó dường như không làm giảm quyết tâm của những quốc gia Đông Âu. Ảnh hưởng kinh tế được coi là có thể kiểm soát được. Wojciech Kopczuk ở Đại học Columbia cho biết nền kinh tế của Ba Lan, vốn vẫn mạnh mẽ, không hề suy thoái trong gần ba chục năm cho đến khi xảy ra đại dịch COVID-19.

Trường đại học. Morten Hansen thuộc Trường Kinh tế Stockholm ở Riga cho biết thêm, các nước vùng Baltic đã phải gánh chịu hậu quả tệ hơn nhiều trong cuộc khủng hoảng tài chính. Người dân đã thấm nhuần nỗi khổ đó vì cần phải tham gia vào EU, một phần trong động lực chiến lược của những quốc gia đó để hội nhập vào phương Tây. Như trong cuộc khủng hoảng hiện tại, họ sẵn sàng chịu đựng những khó khăn về kinh tế để bảo vệ nền độc lập của mình.

Chiến tranh và hậu quả của nó sẽ mang lại một số lợi ích kinh tế cho Đông Âu. Bulgaria đặt mục tiêu trở thành một trung tâm năng lượng của khu vực. Ba Lan đặc biệt có lợi từ công cuộc tái thiết sau chiến tranh của Ukraine và sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào EU. Oktawian Zajac thuộc văn phòng Warsaw của Boston Consulting Group cho biết:

“Không có quốc gia phương Tây nào có quan hệ liên chính phủ chặt chẽ với Ukraine như Ba Lan.”

Kopczuk lập luận rằng mối quan hệ mà người di cư và người tị nạn Ukraine đang hình thành cũng sẽ mang lại lợi ích kinh tế.

Sona Muzikarova của Globsec, một tổ chức tư vấn ở Bratislava, nói phản ứng của các quốc gia Trung và Đông Âu đối với cuộc khủng hoảng Ukraine  “sẽ xác định khu vực trong nhiều chục năm tới”.

Không nản lòng trước nỗi đau kinh tế của chiến tranh, họ đang chứng minh bằng hành động rằng phải kiên quyết chống lạihành động xâm lăng của Nga.

© 2022 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn:  Europe’s hard-hit east is pushing the toughest response in Ukraine | The Economist|  May 7, 2022