Người yêu quyền lực

Patrick Porter | Trà Mi

Henry Kissinger thích dùng quyền lực hơn là tôn trọng phép tất suy của nó

Henry Kissinger đã chết. Chúng ta hãy nói xấu ông ta. Ông là một người đã nghiên cứu và nắm quyền lực để rồi say mê nó. Từ thất bại đó, tuôn trào theo sau là những điều tồi tệ. Chúng ta không nên chỉ nói xấu — di sản của ông là một di sản hỗn hợp, vì vậy đây không phải là một diễn văn đả kích đả kích đơn giản. Nhưng lời chỉ trích là điều cần phải có.

Cuộc họp báo của Henry Kissinger tại Zurich, ngày 6 tháng 9 năm 1976. Nguồn ảnh: Gilbert UZAN/Gamma-Rapho qua Getty Images

Đầu tiên, chúng ta hãy gạt câu “nghỉa tử là nghĩa tận” sang một bên và đừng đạo đức giả về việc không nói xấu người chết. Đó là một sự không nhất quán về lý lẽ chỉ cho phép tôn kính những kẻ tàn bạo đã chết. Những người giữ chức vụ cao và có đặc quyền và sự bất khả xâm phạm phải phấn đấu để có được một vị trí trong lịch sử. Đổi lại, họ không được hưởng quyền bất khả xâm phạm sau khi chết. Ngược lại, có nhiều người có cuộc sống do di sản của những nhân vật ưu tú định hình, và một số người bị chúng dìm xuống đất, một số quá sớm, do sự bất cẩn hoặc có chủ ý. Trên thực tế, không ai thực sự tin vào quan điểm cho rằng không thể chê trách người đã chết. Những người viện dẫn lý lẽ đó hầu như luôn làm như vậy theo những cách có lợi cho chính họ, nhằm dập tắt những cuộc thảo luận quan trọng mà người đối lập không muốn nghe. Những nhân vật lập chính sách đối ngoại đã yêu cầu chấm dứt mọi lời chỉ trích Madeleine Albright sau khi bà ấy qua đời, không quá khắt khe khi Yasser Arafat đã bay theo tro bụi. Họ sẽ vui vẻ nghe những lời tố cáo của những trí thức mà họ coi thường, dù đó là John Mearsheimer hay Noam Chomsky. Vì vậy, mọi người, kể cả những người viết tiểu sử những vị thánh, vốn không có quyền để không bao giờ bị xúc phạm.

Nếu tin theo hướng khác thì không ai bắt quý vị phải tiếp tục đọc. Có rất nhiều tờ báo ca ngợi Kissinger đến tận trời xanh và mang đến cho quý vị những điều quý vị muốn nghe, muốn đọc: một câu chuyện trước khi đi ngủ về nước Mỹ như một bá chủ ngây thơ. Những người còn lại trong chúng ta có những điều nghiêm túc cần thảo luận.

“Sự nghiệp của Kissinger trong chính phủ và sau đó đã tràn đến miệng

Sự nghiệp của Kissinger trong chính phủ và sau đó đã đạt đến đỉnh cao. Giữa tất cả những chi tiết đó, ít nhất có một chương phải có sự chú ý tối đa. Đây là vụ Chennault và Kissinger biết rõ về việc này. Năm 1968, trong cuộc vận động tranh cử gay cấn lấy chức tổng thống, phe Cộng hòa Nixon/Agnew đã phá hoại cuộc hoà đàm ở Paris về chiến tranh Việt Nam đẫm máu, bằng cách ngấm ngầm thuyết phục chính phủ Việt Nam Cộng hoà trì hoãn và tẩy chay cuộc hoà đàm. Kissinger là cố vấn của Tổng thống Johnson ở Paris, nhưng bí mật là gián điệp của Nixon. Hiện nay đã có bằng chứng rõ ràng cho thấy điều này đã xẩy ra và Kissinger đã đồng lõa. Trong một nghiên cứu cẩn thận, sử gia Ken Hughes đã tập hợp những bản ghi chép của FBI, những ghi chú của HR Haldeman, người đứng đầu cuộc vận động tranh cử của Nixon, hồi ký của những viên chức trong chính quyền Johnson, và từ chính Kissinger bằng chính lời của ông, trong cuốn băng Nixon ngày 17 tháng 6 năm 1971 Sau đó thảo luận về những cuộc đàm phán ngừng ném bom và việc ông đã đọc được những chỉ thị của Johnson với Đại sứ W. Averell Harriman, Kissinger nhắc Nixon “Ông còn nhớ, lúc đó tôi đã từng cấp cho ông thông tin về việc đó.” Chúng ta cũng biết qua Richard V. Allen, cố vấn chính sách đối ngoại trong cuộc vận động tranh cử của Nixon, rằng Kissinger đã cài gián điệp vào những cuộc hoà đàm, và Kissinger sau đó, bằng điện thoại công cộng, đã gọi đi và chuyển thông tin bằng tiếng Đức về Mỹ. Ông ta “hầu như mỗi đêm đều kể lại những gì đã xẩy ra ngày hôm đó ở Paris.”

Nói một cách phản thực tế, không rõ liệu nếu không có sự phá hoại này thì những cuộc đàm phán ở Paris có thể thành công hay không. Họ có thể đã không tiếp tục cuộc đình chiến lâu dài chứ đừng nói đến việc giải quyết chiến tranh. Việc chấm dứt chiến tranh mà không có những đột phá mang tính quyết định trên chiến trường luôn là điều khó khăn, và chúng ta có thể nghi ngờ liệu Bắc Việt, có lợi trên bàn cân về sự quyết tâm, có chấp nhận chia cắt vĩnh viễn hay không. Dù sao đi nữa, điều quan trọng là Kissinger và đảng của ông đã cố tình phá hoại. Nó vi phạm Đạo luật Logan, cấm ngoại giao riêng tư thay mặt cho Hoa Kỳ, và do đó là một hành động phá hoại hiến pháp. Đó là một trường hợp rõ ràng khi đặt lợi ích đảng phái lên trên lợi ích quốc gia, chưa kể đến quyền lợi của loài người. Đây không phải là lý do của nhà nước, như Kissinger đã công khai xác định, tính đạo đức của việc phục vụ đất nước ngay cả khi điều đó liên quan đến sự thỏa hiệp về mặt đạo đức. Nó đang phá hoại nhà nước, coi thường tất cả những gì đang bị đe dọa để đạt được chức vụ.

Sự quá đáng tương tự như vậy đã diễn ra trong phần lớn sự nghiệp của ông ta. Những người theo tànKissinger sẽ nói rằng những thế lực bạo hoặc bất hợp pháp mà Kissinger đã giúp tung ra — những cuộc đảo chính, thả bom, thảm sát — là cần thiết một cách bi thảm hoặc có thể tha thứ được, nếu xét đến những áp lực mà Hoa Kỳ đang phải chịu đựng. Nhưng liệu điều đó có thực sự đáng chú ý trước cuộc xâm lăng tàn bạo của Indonesia sang Đông Timor hay không? Với ưu thế quyền lực của Mỹ trong khu vực và sở thích cưỡng bức của Kissinger, tại sao không một lần nói với một đồng minh diệt chủng, như những người ở Jakarta, hãy ngừng lại và hành động cho đúng? Chính quyền Carter đã cố gắng đi theo đường lối đó với chế độ chuyên quyền quân phiệt ở Argentina, duy trì sự liên kết trong khi buộc nước này phải hành xử đúng đắn, nhưng sau khi rời nhiệm sở, gần đây Kissinger đã xuất hiện một cách hữu ích để xưng tụng nó với những lời khen thẳng thắn. Nó có thực sự giúp ích cho sự đoàn kết của NATO, khuyến khích âm mưu ám sát Tổng Giám mục Makarios ở Cyprus, gây ra nội chiến sau đó là sự xâm lăng và chiếm đóng Thổ Nhĩ Kỳ hay không? Vụ thả bom trải thảm vào Campuchia có góp phần ổn định hay gây bất ổn cho khu vực rộng lớn hơn, có hạn chế được hoặc đẩy nhanh sự trỗi dậy của Khmer Đỏ hay không?

Hãy thử lý luận theo cách khác. Chúng ta hãy tận dụng lời xin lỗi của Kissinger ở mức mạnh nhất. Một số người sẽ nói rằng hầu hết những hành động tàn nhẫn của ông ta khi đương nhiệm là những hành động ít ác ôn hơn, đó là những hành động lạnh lùng nhưng được biện minh vì lý do nhà nước, nếu xét đến tất cả những gì đang bị đe dọa. Hơn nữa, chủ nghĩa hiện thực không nao núng của Kissinger là một sự điều chỉnh cần thiết đối với truyền thống sai lầm của Wilson với những tầm nhìn vượt quá về sự biến đổi thế giới, dù dưới hình thức đặt chiến tranh ngoài vòng pháp luật hay gây chiến tranh đầy tham vọng. Giống như ông đã truyền lại sự khôn ngoan của Hội nghị Vienna về việc sử dụng quyền lực một cách thận trọng làm nền tảng cho hòa bình, sự hòa dịu mà ông và Nixon đã áp dụng với Trung Hoa của Mao cũng đánh dấu một thành tựu lịch sử lâu dài.

Nhưng ngay cả khi những tuyên bố này đã được định giá, thì đó cũng khó có thể bảo đảm cho một số việc ông ta đã làm sau đó. Có thực sự có lợi cho nền cộng hòa khi khi rời nhiệm sở, ông ta đã lấy đi hàng ngàn tài liệu của nhà nước dưới dạng bản ghi lại những cuộc điện thoại?

Cũng không rõ liệu lối Metternich tự phong đã giúp người Mỹ hay thế giới khi ông, qua công ty tư vấn địa chính trị của riêng mình, trở thành cố vấn dài hạn cho Đảng Cộng sản Trung Hoa. Bắc Kinh hiện là đối thủ lớn nhất, giàu có nhất và gần ngang hàng mà Hoa Kỳ từng phải đối phó. Tầm nhìn đế quốc của nó về một trật tự lấy Trung Hoa làm trung tâm hướng tới một đế chế độc tài kỹ thuật đàn áp những người bất đồng chính kiến. Cần phải làm rõ hơn thực tế là họ đã trả học phí cho Kissinger Associates của ông ta. Nhưng đây là triệu chứng của một vấn đề rộng lớn hơn — một hệ sinh thái truyền thông coi những người như Kissinger như giới hữu trách vô tư và là những người trung gian quan trọng, chứ không phải những tác nhân trục lợi. Khi những cơ quan báo chí trích dẫn quan điểm của Kissinger về Trung Hoa — chẳng hạn như việc ông bảo vệ vụ thảm sát Thiên An Môn, hoặc lời khuyên của ông rằng Biden nên tiết chế những lời chỉ trích nhân quyền đối với Tập Cận Bình — họ hiếm khi đề cập đến việc ông đã cố vấn cho Trung Hoa. Sự thật đó không làm cho ông ta sai. (Thật vậy, quan điểm của ông, thậm chí thường không sai, là những tuyên bố mơ hồ nhưng hùng hồn về “trật tự thế giới” ám chỉ một số hình thức hội nhập dễ dàng nào đó của Bắc Kinh vào một “Cộng đồng Thái Bình Dương”, nhưng không buồn đi sâu vào chi tiết cụ thể). Nhưng báo giới lẽ ra phải đề cập đến sự thật đơn giản này mỗi khi ông đưa ra lời khuyên trước công chúng. Ông không phải là một chuyên gia vô tư đưa ra lời khuyên khôn ngoan. Ông ta là một khách hàng có lợi sát sườn.

Kissinger là lời cảnh cáo trên hết về quyền lực. Chủ nghĩa hiện thực, truyền thống từ Thucydides đến Morgenthau mà ông gắn bó, khuyến khích sự chấp nhận và tôn trọng quyền lực, đặc biệt là quyền lực cứng, như một tỷ lệ tối thượng của đời sống quốc tế. Sự tôn trọng đó đòi hỏi sự kiềm chế nhất định và ý thức về mục đích công dân, do thế giới có khuynh hướng cân bằng thù địch và vì quyền lực có thể làm thối nát người nắm quyền lực. Chúng ta không thể từ chối chính trị quyền lực. Nhưng đó không phải là bằng chứng ngoại phạm để khuất phục trướ sự tham nhũng của nó.

Tuy nhiên, Kissinger không chỉ tôn trọng mà còn thích sử dụng nó. Nếu Kissinger được nhớ đến như một thành viên của khối hiện thực và việc theo đuổi chính sách Realpolitik (chính trị thực dụng), thì ông là hiện thân của hình thức tối tăm, thô thiển và buông thả của Machtpolitik (quyền lực chính trị). Hành động của Kissinger cho thấy điều đó – cố tình phá hoại những cuộc hòa đàm của một quốc gia nhằm thăng tiến sự nghiệp của một quốc gia khác là định nghĩa của lòng ham mê quyền lực. Sự hài hước nham hiểm của ông cho thấy như vậy. Và những nhận xét vô cớ của ông đã nói như vậy. Theo tường thuật của Bob Woodward, khi được nhà báo Mike Gerson hỏi vào năm 2005 tại sao ông lại ủng hộ cuộc xâm lăng Iraq, ông trả lời “Bởi vì Afghanistan là chưa đủ.” Ông nói, trong cuộc xung đột với Hồi giáo cực đoan, họ muốn làm nhục chúng ta. “Và chúng ta cần phải làm nhục họ.” Tất cả đều ở đó: sự hấp dẫn bản năng đối với sự phô trương bạo lực, sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa hiện thực với những con diều hâu chiến tranh tân bảo thủ, cách đối xử thiếu hiểu biết đối với người Iraq, hàng ngàn người đã chết một cách tàn bạo và không cần thiết, vị bị coi như những người đại diện cho “Hồi giáo cực đoan”. Và sai lầm đơn giản là không nhớ rằng việc lao vào một cuộc chiến như vậy có thể dễ dàng làm bẽ mặt bên mạnh hơn.

Và ông yêu sự gần gũi với nó mãi mãi về sau. Hoàn toàn phù hợp với cuộc đời của ông là sự tự đổi mới liên tục của ông để thích ứng với chính sách của bất kỳ ai chiếm giữ Toà Bạch Ốc, từ chủ nghĩa tân tự do đầy nắng tiếp thị của Bill Clinton đến sự gây chiến thiên sai của George W. Bush cho đến chính sách mị dân theo chủ nghĩa dân tộc của Donald Trump. Một ngoại lệ duy nhất là Barack Obama, tổng thống duy nhất từ chối tỏ lòng kính trọng đối với Kissinger, điều đó có nghĩa là Kissinger đã từng thẳng tay chỉ trích tổng thống mà không hề kiềm chế, điểm duy nhất mà ông bộc lộ trong tác phẩm vốn có phần khoa trương của mình, Trật tự Thế giới (World Order). Ông ta đã diễn tập hành động như vậy trong nhiều chục năm, từ bỏ người cộng sự lâu năm Nelson Rockefeller và gia nhập phe Nixon, người mà ông ta và ông chủ cũ khinh thường. Ông không dậy những người có quyền lực cách suy nghĩ. Ông đã thay đổi quan điểm của chính mình để phù hợp với những người có quyền lực. Ông ta là một loại cỏ đuôi chó trong cơn gió hơn là một thầy dậy kèm.

Kissinger làm chính trị quyền lực chống lại nền cộng hòa của chính ông cũng như chống lại thế giới rộng lớn hơn. Với giọng nói kỳ lạ và liên tục nhắc đến những điểm yếu của nền dân chủ trong thế giới ngoại giao, ông ta cố tình truyền tải nỗi bất an của người Mỹ, nỗi lo rằng quốc gia non trẻ ngây thơ cần sự hướng dẫn của thế giới cũ khôn ngoan, như thể nước Mỹ không có thế giới riêng của mình với những tấm gương ngoại giao hiệu quả từ rất lâu trước khi Henry xuất hiện. Và sự thúc đẩy căn bản của ông không phải là hướng dẫn nền cộng hòa. Hans Morgenthau, một lý thuyết gia hiện thực có tư tưởng công dân, người biết rõ về Kissinger, đã xác định động cơ thực sự:

Chấm hết.

Không có gì ngạc nhiên khi phần lớn ông ta đã thoát khỏi nó. Những cuốn hồi ký đau đớn và sự tự phân tích mang tính xây dựng của những người cùng thời Việt Nam với ông không phải cho ông và lương tâm trong sáng của ông. Không phải cho ông, nhiều câu hỏi khó xử của báo giới. Một số gia đình nạn nhân vì chính sách của ông đã khởi kiện. Ông ta đã từng trốn khỏi Paris sau khi có lệnh bắt giữ của thẩm phán. Ông ta từng ngồi chung khu ghế thượng hạng tại Sân vận động Yankee với Samantha Power, một “người theo chủ nghĩa lý tưởng” tự phong, người về nguyên tắc chỉ có thể nhận giải thưởng thay cho Kissinger, trước khi tiếp tục phàn nàn về tình trạng suy thoái nhân quyền quốc tế. Vì thế, thỉnh thoảng có những hình phạt.

Nhưng nhìn chung, Kissinger đã nổi lên trong sự hoan nghênh, tôn kính và những khoản tiền mua vé khổng lồ của khán giả ngưỡng mộ. Giờ đây, tinh thần của ông ta có thể tận hưởng những lời tri ân hoa mỹ tuôn trào, kể cả từ những người, trong riêng tư, biết rõ hơn. Cuộc sống và cái chết của ông ta tận hưởng thế giới này bởi vì nó có thể. Vấn đề chính không phải là tính khí của ông ta. Nó đã và đang có tính cấu trúc. Trong một thế giới vô chính phủ, nơi không có sự bảo đảm về công lý quốc tế, những quốc gia phải làm gì với giới quan lại và đại thần của mình, kể cả những người phá hoại cơ quan công quyền. Kissinger phát đạt nhờ ông vận hành một cuộc sống công khai nịnh bợ, bất khả xâm phạm và lừa đảo mà đồng bào của ông cho phép phát triển xung quanh ông. Đưa văn phòng công vào công việc tư vấn sinh lợi, ngay cả với những chế độ vi phạm lợi ích của Hoa Kỳ, là thông lệ. Trong cái chết của ông, cũng như trong cuộc đời ông, sức lôi cuốn đen tối và sự gần gũi với quyền lực của Kissinger, sự đồng lõa của những người khác muốn có được một miếng trong cùng chiếc bánh, và sự khao khát của đồng bào ông được theo học với một bậc thầy, đã giúp ông được tự do hành động. Như vậy, sự nghiệp của Kissinger là một lựa chọn chung. Khi tấm gương tai ác của ông còn bỏ đó thì những xác chết chưa được báo thù.

© 2023 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net


Nguồn: The man who loved power | Patrick Porter | The Critic | 30 November, 2023